i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGÔ VĂN NGHĨA
ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ LÀM VĂN THEO HƯỚNG MỞ Ở CẤP
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Hà Nội - 2012
ii
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGÔ VĂN NGHĨA
ĐỊNH HƯỚNG RA ĐỀ LÀM VĂN THEO HƯỚNG MỞ Ở CẤP
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
M· sè: 60 14 10
Người h-íng dÉn khoa học: TS. NguyÔn Träng Hoµn
Hµ Néi - 2012
vi
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 14
1.1. Cơ sở lí luận 14
1.1.1.Thế nào là một đề làm văn 14
1.1.2. Quan niệm về một đề làm văn hay 22
1.1.3. Tính vừa sức của một đề văn 23
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 40
CHƯƠNG 2. ĐỀ XUẤT CÁC HƯỚNG RA ĐỀ THEO HƯỚNG MỞ 45
2. 1. Đề truyền thống - những thành tựu và hạn chế của đề truyền thống 45
2.2. Quan niệm về đề văn theo hướng mở 51
2.3. Các hướng ra đề theo hướng mở 63
CHƯƠNG 3. THIẾT KẾ THỰC NGHIỆM 70
3.1. Các vấn đề chung 70
3.1.1. Mục đích thực nghiệm 70
3.1.2. Đối tượng thực nghiệm và đối chứng 70
3.1.3. Địa bàn thực nghiệm 70
3.1.4. Nội dung thực nghiệm 70
3.1.5. Phương pháp thực nghiệm 70
3.1.6.Những khó khăn khi tiến hành thực nghiệm 70
3.2. Thiết kế đề và đáp án thực nghiệm 70
3.3. Kết quả thực nghiệm và đánh giá 86
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
iv
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐ : Cao đẳng
ĐH : Đại học
GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
HS : Học sinh
KT : Kiểm tra
KN : Kĩ năng
KTĐG : Kiểm tra đánh giá
KHXH-NV : Khoa học xã hội- nhân văn
NXB : Nhà xuất bản
PT : Phổ thông
SGK : Sách giáo khoa
TL : Tự luận
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TNKQ : Trắc nghiệm khách quan
TNTHPT : Tốt nghiệp trung học phổ thông
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
BẢNG 1.1. KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA Error! Bookmark not
defined.
BẢNG 1.2. KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA Error! Bookmark not
defined.
BẢNG 1.3 THỐNG KÊ LOẠI ĐỀ, PHẠM VI, HÌNH THỨC NGHỊ LUẬN
Error! Bookmark not defined.
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ của khoa học kỹ thuật, của công nghệ thông tin
và sự hội nhập. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ
của lượng thông tin thách thức con người nhiều hơn so với thời đại trước. Con
người muốn tồn tại, hội nhập, muốn tự khẳng định mình thì nhất định phải là
những thành viên năng động, tích cực, sáng tạo, có óc quan sát nhạy bén tinh
tế, trí tuệ linh hoạt, có thái độ lựa chọn thông tin và hiểu thông tin một cách
sáng tạo nhanh nhạy. Để đáp ứng yêu cầu đó của con người và đòi hỏi xã hội,
nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo là vô cùng quan trọng. Trong đó hiện đại
hoá giáo dục đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra như một nhiệm vụ
quan trọng của công tác phát triển giáo dục, việc đổi mới nội dung phương
pháp dạy và học là vấn đề then chốt trong chiến lược như một lẽ tồn tại: “Đổi
mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy-học,
bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh
sinh viên đại học”. (Văn kiện Hội nghị lần thứ Hai Ban chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997, tr 4). Trên tinh
thần đó trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về giáo dục
đào tạo đã nhấn mạnh: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi
mới nội dung phương pháp dạy và học phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn ”. (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc
gia 2001, tr 108, 109).
Hiện nay, chúng ta đã bước vào thập kỷ đầu tiên của thế kỉ XXI, công
cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, xu thế toàn cầu hoá là tất yếu vị thế
của dân tộc được khẳng định hay không phụ thuộc rất lớn vào thành công của
2
sự nghiệp giáo dục. Giáo dục và Đào tạo cũng nằm trong sự đổi mới sâu sắc
ấy. Đặc biệt từ năm học 2012-2013 nền giáo dục Việt Nam thực hiện đổi mới
sâu sắc toàn diện thực hiện chiến lược giáo dục giai đoạn 2011-2020.
Môn Ngữ văn trong nhà trường cũng không thể không có những thay
đổi về nội dung và phương pháp học tập để đáp ứng được những yêu cầu về
sự đổi mới, một trong những biểu hiện của sự đổi mới ấy là thực hiện giảm
tải, đưa văn học gắn liền với thực tiễn đời sống và mang tính nhật dụng cao.
Trong sự đổi mới dạy và học bộ môn Ngữ văn việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, đổi mới ra đề kiểm tra, đánh giá là khâu then chốt có ý nghĩa quyết
định bởi kiểm tra như thế nào sẽ yêu cầu dạy và học như thế ấy.
Chúng ta đã biết môn Ngữ văn là môn học về khoa học xã hội và nhân
văn, môn học mang tính nghệ thuật cao, môn học này có nhiệm vụ cung
cấp cho học sinh những kiến thức về Tiếng Việt, Văn học và Làm văn, hình
thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực tiếp
nhận tác phẩm văn học, khả năng ứng dụng sử dụng ngôn ngữ vào việc tạo
lập văn bản. Qua môn học này học sinh còn có thêm những hiểu biết về văn
hoá xã hội, lịch sử, đời sống nội tâm của con người và bản thân, nắm bắt
những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Nói như Mác xim Gorki: “Văn học
là nhân học”.
Môn Ngữ văn là môn học công cụ. Vì vậy môn học này sẽ trang bị cho
học sinh những kiến thức công cụ để học sinh học tập và sinh hoạt, có nhận
thức đúng đắn về xã hội và con người từ đó bồi dưỡng tư tưởng tình cảm,
nhân cách cho chính bản thân người học.
Môn Ngữ văn là môn học công cụ đồng thời là môn học thuộc lĩnh vực
giáo dục thẩm mĩ từ đó bồi dưỡng năng lực tưởng tượng sáng tạo làm giàu
xúc cảm thẩm mĩ, định hướng thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh nhằm hoàn thiện
và phát triển nhân cách cho chính bản thân mình và từ đó lan toả ảnh hưởng
tới những người xung quanh và cộng đồng xã hội.
3
Vì vậy muốn thực hiện được nhiệm vụ cao cả của mình môn Ngữ văn
cần cung cấp cho học sinh những kiến thức từ phổ thông, cơ bản, truyền
thống đến hiện đại có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học, kỹ năng tạo lập
văn bản phù hợp với trình độ phát triển tư duy của lứa tuổi học sinh và yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất
nước nhất là trong khi mở cửa giao lưu rộng rãi với tất cả các quốc gia trên
thế giới và các nền văn hoá đa dạng của nhân loại hình thành và phát triển các
năng lực sử dụng Tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ phương
pháp học tập tư duy đặc biệt là phương pháp tự học năng lực ứng dụng những
điều đã học vào cuộc sống. Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm yêu quý tự hào
về Tiếng Việt, văn học dân tộc, văn hoá tình yêu gia đình, thiên nhiên đất
nước, lòng tự hào dân tộc ý chí tự cường lí tưởng xã hội chủ nghĩa tinh thần
dân chủ nhân văn giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân tinh thần hữu
nghị và hợp tác quốc tế ý thức tôn trọng và phát huy và bảo tồn các giá trị văn
hoá tốt đẹp, truyền thống của dân tộc và nhân loại.
Với vị trí và mục tiêu quan trọng như vậy môn Ngữ văn luôn tìm tòi để
đổi mới từ chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy sao cho phù
hợp với xu thế thời đại xu thế của hội nhập mở cửa và xu thế toàn cầu hoá
hiện nay. Việc đổi mới là tất yếu nhưng dù có đổi mới như thế nào thì khi đổi
mới vẫn phải đảm bảo trên nguyên tắc bám sát mục tiêu môn học và quan
trong nhất là phải đảm bảo tính dân tộc truyền thống phù hợp với đối tượng
người học. Bên cạnh việc đổi mới nội dung chương trình giáo khoa thì việc
đổi mới phương pháp dạy học là vô cùng quan trọng.
Thực trạng việc dạy và học môn Ngữ văn những năm gần trong nhà
trường phổ thông còn bộc lộ nhiều vấn đề cần trao đổi như: tình trạng học
sinh không còn hứng thú với môn học, chán học, học mang tính đối phó, học
chỉ nhằm mục đích thi cử sau đó quên ngay. Nguyên nhân thì có nhiều nhưng
theo chúng tôi có một nguyên nhân cơ bản là người thầy giáo dạy văn chưa
thắp lửa được cho học sinh, chưa thổi bùng lên ngọn lửa yêu văn chương
4
trong mỗi học sinh, chương trình còn nặng nề thiếu tính thực tiễn, chậm đổi
mới phương pháp giảng dạy, dạy theo lối mòn nhắc đi nhắc lại những điều đã
cũ, ra đề kiểm tra, đánh giá theo lối mòn cũ, lối học còn nặng tính hàn lâm, ít
tính thực tiễn dẫn đến học sinh không còn hứng thú với môn học này. Trước
thực trạng ấy, vấn đề đổi mới chương trình sách giáo khoa, phương pháp
giảng dạy và học tập đã được đặt ra. Chúng ta đã thực hiện sự đổi mới ấy và ít
nhiều đã đem lại hiệu quả tích cực cho môn Ngữ văn và môn học này phần
nào đã lấy lại được vị trí của mình như nó vốn có và phải có.
Hiện nay, chương trình, sách giáo khoa ở bậc phổ thông đã được thay
đổi và có những tiến bộ đáng kể: hiện đại nhưng vẫn đảm bảo được tính
truyền thống tính dân tộc, tích hợp liên môn, văn chương đã gần gũi với cuộc
sống hơn Sự đổi mới này được đội ngũ các nhà giáo, học sinh và dư luận xã
hội quan tâm và đánh giá cao. Sách giáo khoa không chỉ đổi mới về hình thức
mà đặc biệt đã có sự đổi mới tích cực về nội dung. Hiện nay, các tác giả biên
soạn đã mạnh dạn đưa vào trong chương trình những tác phẩm văn học hiện
đại kể cả văn học Việt Nam và văn học nước ngoài (bên cạnh những tác phẩm
văn học trung đại, những tác phẩm đã trở thành kinh điển), đưa những văn
bản nhật dụng vào trong chương trình gần gũi với đời sống và thực tế và đòi
hỏi của xã hội.
Sự đổi mới là tích cực phù hợp với xu thế xã hội và sự phát triển của
đất nước cũng như sự hội nhập quốc tế trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt.
Tuy nhiên muốn việc đổi mới việc dạy và học văn trong nhà trường phổ thông
hiện nay đạt được kết quả và có sự chuyển biến tích cực thì phải đổi mới đồng
bộ từ chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy đến việc ra đề
kiểm tra, đánh giá. Trong kiểm tra, đánh giá thì việc ra đề kiểm tra như thế
nào là điều quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định mặc dù kiểm tra, đánh
giá là khâu cuối cùng của việc dạy học nhưng nó chính là khâu kiểm nghiệm
tất cả các quá trình dạy và học trước đó.
5
Trong văn chương, kiến thức và kĩ năng không phải là mục đích cuối
cùng mà chỉ là phương tiện giúp chủ nhân của nó biết cảm nhận cuộc sống ở
một mức độ cao hơn và lựa chọn cách sống tốt hơn. Nói cách khác, văn
chương là phương tiện để học sinh phát huy tiềm năng chứ không phải tái
hiện những gì được trang bị.
Trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học ở trường phổ thông,
việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa cũng như cách dạy và ra đề thi là
vấn đề then chốt cần được tiến hành đồng bộ giữa mục tiêu, nội dung, phương
pháp và kiểm tra đánh giá để đạt được mục tiêu giáo dục đề ra.
So với các môn học khác, Ngữ văn là môn học có nhiều nét đặc thù.
Việc cải tiến, đổi mới trong đề thi, kiểm tra sẽ có tác động đáng kể tới phương
pháp dạy và học của giáo viên học sinh. Có một thực tế là từ bấy lâu nay việc
đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung và cách thức ra đề thi,
đề kiểm tra môn học có nhiều nét đặc thù này nói riêng diễn ra chưa triệt để,
chưa đồng đều ở những đơn vị trường học khác nhau, những địa phương khác
nhau. Thường thì các thầy cô khi ra đề vẫn chọn giải pháp an toàn cho mình
là học cái gì thi cái nấy nhiều khi còn sợ học sinh điểm kém nên lại khoanh
vùng ở một số văn bản nhất định, vùng kiến thức cụ thể. Đây là quan niệm
không hề sai nhưng nếu vậy sẽ không phát huy được tích chủ động tích cực và
sáng tạo của người học và có lẽ cũng khó có thể đạt được mục tiêu của môn
học cách ra đề này chúng ta vẫn quen gọi là ra đề theo lối truyền thống.
Những ám ảnh về dạng đề truyền thống, lối học khoa cử vẫn còn khá dai dẳng
trong một bộ phận giáo viên hiện nay. Vì thế trước sự xuất hiện của những
câu hỏi mở trong đề thi ở những kì thi có tính chất quan trọng như kì thi tốt
nghiệp Trung học phổ thông và Cao đẳng, Đại học từ những năm 2008 trở lại
đây thì đã có những ý kiến và thái độ khác nhau. Nhiều giáo viên và học sinh
tỏ ra thích thú háo hức, một số lại tỏ ra ngỡ ngàng lúng túng băn khoăn, thậm
chí còn phản ánh là “đề thi lạ” hay đề thi có vấn đề.
6
Việc ra đề thi, đề kiểm tra luôn có vai trò quan trọng trong việc đánh
giá xếp loại phân loại học sinh. Ở các nước có nền giáo dục phát triển như
Mĩ, Pháp, Trung Quốc , họ luôn có ý thức ra đề ở bộ môn Ngữ văn theo
hướng mở bởi đề mở là dạng đề mà học sinh sẽ có cơ hội bày tỏ quan điểm
thái độ của mình trước một vấn đề nào đó và từ đó người dạy có điều kiện
đánh giá năng lực tư duy, khả năng thẩm mĩ kĩ năng vận dụng kiến thức kĩ
năng của học sinh, thái độ tâm tư tình cảm của học sinh một cách khách quan
chính xác.
Hiện nay, xu thế ra đề văn theo hướng mở đang được sự quan tâm của
dư luận xã hội, của các nhà trường, của người dạy và người học, các cấp quản
lí giáo dục Vì những lẽ trên chúng tôi chọn đề tài: “Định hướng ra đề làm
văn theo hướng mở ở cấp trung học phổ thông” từ đó muốn góp một tiếng
nói đề bàn sâu hơn, rộng hơn về vấn đề ra đề văn theo hướng mở, ít nhiều góp
tiếng nói vào việc đổi mới phương pháp dạy và học bộ môn Ngữ văn trong
nhà trường phổ thông hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nhìn lại việc ra đề kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn những gần đây và
chương trình sách giáo khoa thì việc ra đề văn theo hướng mở không phải là
hoàn toàn mới mẻ. Điểm lại chương trình sách giáo khoa Ngữ văn từ cấp
THCS cho đến cấp THPT đặc biệt là từ năm 2006 đến nay thì chúng ta có thể
nhận ra những đổi mới sự đổi mới. Điều đó được thể hiện trong sách giáo
khoa:
SGK Ngữ văn 6 tập 1, trang 47 nêu một vấn đề: “Ngày sinh nhật em”;
“Kỉ niệm ngày thơ ấu”;
SGK Ngữ văn 7 tập 1 trang 88 cũng giới thiệu một số đề: “Loài cây em
yêu”; “Vui buồn tuổi thơ”;
SGK Ngữ văn lớp 8 tập 1 trang 37 dạng đề mở tiếp tục xuất hiện: “Tôi
thấy mình đã khôn lớn”; “Người ấy sống mãi trong lòng tôi”;
7
Tương tự như vậy SGK Ngữ văn 9 tập 1 trang 42 cũng có các đề như :
“Một nét đặc sắc trong di tích thắng cảnh quê em”;“Cây lúa Việt Nam”.
Không chỉ có ở cấp THCS mà những kiểu đề mở như trên đã xuất hiện
trong chương trình sách giáo khoa ở các lớp cấp THPT cả 3 khối lớp. Dưới
đây chúng tôi chỉ xin nêu một vài ví dụ:
SGK Ngữ văn 10 tập 1 trang 27 có gợi ý đề bài làm văn: “Cảm nghĩ
của anh/chị về một bài thơ hoặc một nhà thơ mà anh chị yêu thích”; “Những
ngày đầu tiên bước chân vào trường Trung học phổ thông”; Ở tập 2 trang 136
có một số đề bài như: “Có ý kiến cho rằng những thói xấu ban đầu là người
khách qua đường, sau trở nên người bạn thân ở chung nhà và kết cục biến
thành ông chủ khó tính. Anh /chị thấy ý kiến trên như thế nào?”; “Học bài thơ
Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão, có bạn cho rằng: Sự hổ thẹn của tác
giả là thái quá, kiêu kì. Ngược lại, có bạn ngợi ca và cho rằng đó là biểu hiện
một hoài bão lớn lao của người thanh niên yêu nước. Hãy cho biết ý kiến của
anh/chị”.
Sang đến lớp 11 trang 10 tập 2 Ngữ văn 11 cũng có câu hỏi mở như:
“Người xưa có câu: Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều, anh/chị nói rõ
thái độ của mình về quan niệm trên”. Tiếp tục ở trang 35 cũng có một số
câu hỏi như: “Anh /chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về bệnh vô cảm
trong xã hội ta hiện nay”. “Anh/ chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về
bệnh thành tích một căn bệnh gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của
xã hội ta hiện nay”.
Lớp 12 trang 20 Ngữ văn 12 tập một: “Anh/ chị hãy trả lời câu hỏi sau
của nhà thơ Tố Hữu: Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn”. Hay như ở trang 22
cũng nêu: “Nhà văn Nga L. Tôn-xtôi nói: Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường.
Không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có
phương hướng kiên định thì không có cuộc sống. Anh/chị hãy nêu suy nghĩ
về vai trò của lí tưởng trong cuộc sống con người”. Cũng trong cuốn sách
này ở trang 66 nêu: “Chia chiếc bánh của mình cho ai”; “Anh /chị suy nghĩ
8
gì về hiện tượng “nghiện” ka- ra -ô -kê và in-tơ - net trong nhiều bạn trẻ
hiện nay”?
Chỉ cần điểm qua như vậy, chúng ta cũng thấy gợi ý về câu hỏi mở,
dạng câu hỏi mở đã xuất hiện nhiều trong các cuốn SGK ở nhà trường phổ
thông. Những câu hỏi mở này có câu hỏi mở về nội dung có câu hỏi mở về
hình thức. Có cả câu hỏi mở về nghị luận xã hội, cả câu hỏi mở về nghị luận
văn học. Vậy là tính bao quát của dạng đề mở là khá rộng. Ai đó vẫn băn
khoăn rằng câu hỏi mở chỉ có thể hỏi ở dạng câu hỏi nghị luận xã hội là một
cái nhìn phiến diện thiếu đi cơ sở khoa học của nó.
Những năm gần đây việc dạy và học môn Ngữ văn ở trường phổ thông
cùng với việc ra đề kiểm tra, đánh giá trong đó có việc ra đề thì sự xuất hiện
đề mở không chỉ có tính chất cá lẻ ở một vài trường vài tỉnh vài địa phương
nữa mà nó đã được xuất hiện ở các kì thi mang tính Quốc gia như kì thi
TNTHPT, kì thi tuyển sinh vào các trường Đại học và Cao đẳng trong cả
nước. Điều đó được thể hiện khá rõ, nhất là từ năm học 2008 trở lại đây.
Ở đây chúng ta điểm lại một số dạng đề mở từ năm 2009 đến nay.
Trước hết ở kỳ thi TNTHPT: về mặt cấu trúc đề gồm có hai phần: phần
chung và phần riêng, ở phần riêng học sinh được lựa chọn một trong hai ý và
ở phần chung từ năm 2009 đến nay ở câu số 2 đề thi đã được ra theo hướng
mở. Cụ thể như sau:
Năm 2009: Anh /chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát
biểu về tác dụng của của việc đọc sách.
Năm 2010: Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ
của anh/ chị về lòng yêu thương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.
Năm 2011: Trước nhiều ngả đường đi đến tương lai chỉ có chính bạn
mới lựa chọn được con đường đúng cho mình. Viết một bài văn ngắn (khoảng
400 từ) trình bày suy ngĩ của anh/ chị về ý kiến trên.
9
Năm 2012: Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức trong đời
sống xã hội. Viết bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh /
chị về ý kiến trên.
Sang đến đề thi đại học khối D, C từ năm 2009 đề thi cũng có cấu trúc
tương tư như đề thi TNTHPT, tăng thời lượng làm bài, ở câu 2 phần chung đề
thi cũng được ra theo hướng mở ở đây chúng tôi chỉ xin được trích dẫn một
vài đề có tính tiêu biểu:
Đề thi khối D năm 2010: “Đạo đức giả là một căn bệnh chết người luôn
nấp sau bộ mặt hào nhoáng”. Từ ý kiến trên anh/chị hãy viết một bài văn ngắn
(khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về sự nguy hại của đạo đức giả
đối với con người và cuộc sống.
Đề thi khối D năm 2010: Đừng cố gắng trở thành người nổi tiếng mà
trước hết hãy là người có ích. Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ)
trình bày suy nghĩ của anh chị về ý kiến trên.
Đề thi khối C năm 2012: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích,
người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu. Hãy viết một bài văn ngắn
(khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh /chị về ý kiến trên.
Như vậy nhìn vào cách ra đề của hai kì thi TNTHPT và tuyển sinh ĐH
những năm gần đây đã có sự đổi mới. Mặc dù mới chỉ chiếm 1/3 tổng số điểm
của cả bài thi nhưng sự xuất hiện của những câu hỏi mở đã được dư luận xã
hội quan tâm, học sinh hứng thú bởi những câu hỏi mở đã kích thích tư duy
khích lệ những hiểu biết của mình vào trong bài làm, học sinh đã có điều kiện
nói ra những điều mình suy nghĩ, tránh được những bài làm giống nhau dập
khuôn máy móc, học sinh thể hiện tư duy năng lực sáng tạo, chính những câu
hỏi này đã tạo điều kiện giúp cho học sinh hình thành nhân cách, kỹ năng
sống kỹ năng ứng xử phù hợp với những vấn đề đặt ra trong cuộc sống
thường nhật. Đây cũng là cách để kéo văn chương về gần với cuộc sống hơn.
Qua khảo sát chương trình sách giáo khoa và các đề thi của cả hai kì thi
TNTHPT và ĐH, CĐ những năm gần đây, chúng tôi cũng thấy rằng việc đổi
10
mới đề thi theo hướng mở đã có những mạnh dạn và tích cực tuy nhiên mới
chỉ dừng lại ở các dạng đề nghị luận xã hội còn nghị luận văn học thì chưa
nhiều. Ở nghị luận văn học vẫn phổ biến chỉ là những câu hỏi tái hiện và cảm
thụ. Trước thực tế trên tôi nhận thấy việc đổi mới ra đề thi môn Ngữ văn theo
hướng mở là cần thiết, bởi nhiều lí do:
Thứ nhất, học sinh ở cấp THPT đều đã ở độ tuổi từ 15-18 đây là độ tuổi
phát triển mạnh cả về tâm- sinh lí. Đây là giai đoạn học sinh có nhu cầu có
khám phá tìm tòi hiểu biết chính mình và xung quanh và đặt biệt luôn có
mong muốn được khẳng định mình, việc ra đề theo hướng mở nhất là những đề
hay sẽ giúp cho học sinh có cơ hội tự bộc lộ mình nói ra những điều các em suy
nghĩ các em muốn. Chúng ta đều hiểu rằng ngôn ngữ là công cụ để tư duy, từ tư
duy sẽ dẫn đến hành động và đây là điều kiện thuận lợi để giáo viên nắm bắt uốn
nắn kịp thời tư tưởng tình cảm thái độ hành vi của học sinh điều chỉnh cách dạy và
cách học cho phù hợp. Hơn nữa, văn học bồi dưỡng cho học sinh năng lực cảm
thụ cái đẹp, thị hiếu thẩm mĩ vì vậy trước một tác phẩm văn học cụ thể nhất là các
tác phẩm văn học có giá trị thì học sinh qua tác phẩm ngoài việc nhận thức được
thế giới xung quanh, hiểu được giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ thì còn có cả giá
trị dự báo.
Thứ hai, chương trình SGK sau những lần biên soạn thay đổi đã có
hướng đổi mới tích cực, đưa những vấn đề có tính thời đại những văn bản có
tính nhật dụng vào trong chương trình, kể cả một số gợi ý về đề tập làm văn.
Điều này đã được thể hiện ở sách Ngữ văn từ lớp 6 cho đến lớp 12 của NXB
Giáo dục và thống nhất giảng dạy trong toàn quốc. Xu thế hội nhập đòi hỏi
người chủ tương lai của đất nước phải có quan niệm thái độ rõ ràng trước một
vấn đề nào đó đồng thời phải có năng lực tư duy sáng tạo độc lập. Chúng ta
đều biết ngôn ngữ là công cụ của tư duy, ra đề theo hướng mở học sinh sẽ có
cơ hội bộc lộ tư duy khả năng hiểu biết vốn sống và kỹ năng sống của mình
mà tất cả những điều ấy phải được thể hiện thông qua ngôn ngữ.
11
Việc ra đề kiểm tra phục vụ cho kiểm tra định kì, kiểm tra cuối năm, thi
hết cấp, thi tuyển sinh là một khâu rất quan trọng nó là kết quả của cả một
quá trình dạy và học đồng thời cũng thể hiện được năng lực chuyên môn của
người giáo viên và là kết quả của cả quá trình đổi mới. Nhưng như đã nói ở
trên vấn đề ra đề văn theo hướng mở ở nước ta hiện nay còn nhiều điều cần
phải trao đổi.
Gần đây khi ý thức được vai trò và tác dụng của việc ra đề mở, cơ quan
chủ quản là Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những văn bản chỉ thị định hướng
về việc ra đề theo hướng mở. Cụ thể là chỉ thị năm học đối với cấp học từ
năm học 2006 đến nay.
“Triển khai dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Tập trung chỉ đạo đổi mới phương pháp giảng dạy các
môn Ngữ Văn, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức, Giáo dục công dân, gắn kết chặt chẽ
với việc mỗi trường nhận chăm sóc và phát huy giá trị một di tích văn hoá,
lịch sử, cách mạng. Tiến hành kiểm tra, đánh giá theo hướng khuyến khích
tinh thần tự học và ý thức sáng tạo của học sinh, giảm yêu cầu học thuộc lòng,
nhớ nhiều sự kiện, không làm bài rập khuôn theo bài mẫu; tổ chức dạy học
các môn Mỹ thuật, Âm nhạc, Thủ công, Kỹ thuật, Thể dục, Giáo dục công
dân, Công nghệ và các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp với thực tế địa
phương và điều kiện nhà trường; coi trọng việc thực hành vận dụng, tổ chức
hình thức dạy học linh hoạt theo hướng tích hợp; đánh giá sâu môn Thủ công,
Kỹ thuật (ở cấp tiểu học) và môn Giáo dục công dân (ở cấp trung học)”. (Chỉ
thị về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo
dục thường xuyên, giáo dục chuyên nghiệp năm học 2008 – 2009).
Điều đó cũng được thể hiện rất rõ ở thông báo số 287/TB – BGDĐT
ngày 05/05/2009 của Bộ Giáo dục và đào tạo, thông báo số 300/TB - BGDĐT
ngày 8/5/2009 về kết luận hội thảo đổi mới phương pháp dạy học.
Gần đây, dạng đề mở đã xuất hiện ngày càng nhiều trong các tiết kiểm
tra môn Ngữ văn ở các bậc học nhất là cấp THCS và THPT đặc biệt đề thi mở
12
đã góp mặt trong những kì thi quan trọng như: thi tuyển sinh lớp 10, thi tốt
nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào Cao đẳng, Đại học.
Ví dụ như trong kì thi THPT năm 2009 vừa qua, câu 2 phần chung cho
tất cả các thí sinh được mở ra theo hướng mở: Anh (chị) hãy viết một bài văn
ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác dụng của việc đọc sách.
Ở các kì thi tuyển sinh vào các trường Đại học, Cao đẳng năm 2009
phần chung của đề thi ở cả hai khối C, D của môn Ngữ Văn ở câu 2 thuộc
dạng đề mở.
Từ một câu trong lá thư của một danh nhân gửi cho thầy giáo của con
trai “xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian
lận trong khi thi”;
Đề thi khối C yêu cầu thí sinh viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ)
trình bày suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và cuộc sống.
Gần đây một số tác giả đã cho xuất bản những tuyển tập đề văn nghị
luận xã hội có hướng ra mở như cuốn:
199 bài văn nghị luận xã hội ngắn của Lê Anh Xuân, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận (2 tập) của Nguyễn Văn Tùng và
Thân Phương Thu - NXB Giáo dục Việt Nam.
Cuộc thi viết về đề văn theo hướng mở trên Văn học và tuổi trẻ do tạp
chí văn học và tuổi trẻ phát động đã thu hút đông đảo các nhà giáo đang trực
tiếp giảng dạy tham gia…
Trên thế giới, việc xuất hiện các đề thi đề kiểm tra theo hướng mở
không còn xa lạ. Ví dụ như các đề thi của các nước có nền giáo dục phát triển
như Anh, Pháp, Mĩ, Trung Quốc. Ở đây chỉ xin lấy một ví dụ đề thi trên toàn
Trung Quốc:
“Hiện nay, lượng người đọc sác ở Trung Quốc ngày một giảm: năm
1999 là 60%, 2001 là 52%. Nguyên nhân đọc ít: người đứng tuổi nói không
có thời gian, thanh niên nói không có thói quen, có người nói đọc sách không
“vào” nổi. Ngược lại, số người đọc trên mạng ngày một tăng: năm 1999 là
13
3,7%, năm 2003 là 18,3%. Hãy trình bày một cách nhìn của bạn về vấn đề
trên, số chữ 800”. (Theo Văn nghệ)
Với những căn cứ trên, chúng tôi thấy việc ra đề văn theo hướng mở là
cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm và chỉ ra được những thành tựu, mặt tích cực, những tồn tại và
hạn chế của cách ra đề văn truyền thống.
- Những ưu điểm của việc ra đề văn theo hướng mở, từ đó đề xuất phương
án tối ưu trong việc ra đề mở môn Ngữ văn đối với cấp THPT hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tại các trường THPT của Hà Nội.
- Chỉ xem xét các vấn đề về việc ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ Văn
trên cơ sở SGK và phương pháp giảng dạy hiện nay ở cấp THPT.
5. Giả thuyết khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, bằng việc đề xuất các
phương án ra đề làm văn theo hướng mở sẽ góp phần vào việc đổi mới dạy và
học văn hiện nay.
6. Đóng góp của đề tài
Đề xuất phương án ra đề làm văn theo hướng mở.
Góp phần đổi mới việc dạy và học văn hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, thống kê phân loại.
- Phương pháp so sánh phân tích tổng hợp lí giải.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, luận
văn được trình bày trong 3 chương:
Chương1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Đề xuất các hướng ra đề môn Ngữ văn theo hướng mở
Chương 3: Thiết kế thực nghiệm
14
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1.Thế nào là một đề làm văn
Trước khi đi vào vấn đề thế nào là một đề văn, chúng ta cần phải xác
định rõ dạy học là cả một quá trình gồm có nhiều khâu nhiều công đoạn trong
đó có khâu kiểm tra, đánh giá. Kiểm tra đánh giá được coi là khâu cuối cùng
nhưng là khâu quan trọng nhất. Kiểm tra, đánh giá là đánh giá kết quả học tập
của học sinh và quá trình giảng dạy của các thầy cô, việc thực hiện chương
trình mục tiêu giáo dục của các nhà trường cũng như chương trình sách giáo
khoa đồng thời nhằm theo dõi quá trình học tập của học sinh. Từ đó đưa ra
các giải pháp kịp thời nhằm điều chỉnh phương pháp giảng dạy của thầy,
phương pháp cách thức con đường học tập của trò giúp học sinh tiến bộ và đạt
được mục tiêu giáo dục và cũng là những căn cứ để biên soạn điều chỉnh
chương trình sách giáo khoa cho phù hợp thực tế và xu thế chung của thời đại.
Theo từ điển Tiếng Việt, kiểm tra được hiểu là: “xem xét thực chất thực tế”
ví dụ như: kiểm tra chất lượng; kiểm tra sức khoẻ; kiểm tra sổ sách. [16, tr. 843]
Theo cách hiểu thông thường, với nghĩa chung nhất, đánh giá có nghĩa
là định giá trị cho một đối tượng nào đó theo một tiêu chuẩn nhất định với
một mức độ và phạm vi nhất định. Có hoạt động tất yếu phải có đánh giá để
xác định giá trị về hoạt động đó.
Như vậy, việc kiểm tra, đánh giá sẽ cung cấp những dữ liệu, thông số
những thông tin cần thiết làm cơ sở để thấy được kết quả hoạt động học của
học sinh.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng:
“Kiểm tra là thuật ngữ chỉ cách thức hoặc hoạt động của giáo viên sử
dụng để thu tập thông tin về biểu hiện kiến thức kĩ năng và thái độ học tập
của học sinh trong học tập nhằm cung cấp dữ liệu làm cơ sở cho việc đánh
giá”. [19, tr.2]
15
“Kiểm tra được hiểu theo nghĩa rộng như là theo dõi quá trình học tập
và cũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là công cụ kiểm tra hoặc một bài
kiểm tra trong các kì thi.” [19, tr. 2]
“Việc kiểm tra cung cấp dữ kiện, những thông tin làm cơ sở cho việc
đánh giá”. [19, tr. 2]
Trong giáo dục, từ xưa đến nay, người ta vẫn dùng thi cử và
điểm của bài thi theo một thang đánh giá nào đó để đánh giá kết quả học tập
của người học (đỗ hay trượt, giỏi hay yếu, đạt hay không đạt). Cách đánh giá
như vậy thực ra mới dừng ở mức đo đạc và xếp loại kết quả học tập. Thi và
đánh giá là hai cấp độ khác nhau. Thi là một hình thức cụ thể của đánh giá
dùng để phân loại hoặc tuyển chọn người học theo những yêu cầu khác nhau
nói chung. Thi chỉ kiểm tra được một phạm vi kiến thức nhất định của người
học vì thi thường diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và còn tuỳ
thuộc vào mục đích của từng kỳ thi. Đánh giá là xem xét lại quá trình dạy và
học quá trình nhận thức của học sinh. Tuy nhiên, có không ít người đã đồng
nhất đánh giá với cho điểm, xếp loại. Nghĩa là đánh giá kết quả học tập được
bao nhiêu điểm, xếp loại gì, thứ bậc nào qua kết quả làm bài.
Có nhiều khái niệm về đánh giá, được nêu trong nhiều tài liệu khác
nhau. Theo Từ điển TiếngViệt: “đánh giá được hiểu là là nhận định giá trị”.
Dưới đây là một số khái niệm thường gặp trong các tài liệu về đánh giá kết
quả học tập của học sinh:
“Đánh giá là quá trình thu thập và xử lí kịp thời có hệ thống thông tin
về hiện trạng khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và hiệu quả giáo dục
căn cứ vào mục tiêu giáo dục làm cho những chủ trương biện pháp và hành
động giáo dục tiếp theo nhằm phát huy kết quả khắc phục thiếu sót”.[19, tr. 3]
“Đánh giá kết quả học tập của học sinh là quá trình thu thập và xử lí
thông tin về trình độ, khả năng đạt được mục tiêu học tập mà học sinh cùng
với tác động và nguyên nhân của tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những
quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường để học sinh ngày một học tập
tiến bộ hơn”. [19, tr. 3]
16
“Đánh giá có nghĩa là thu thập một tập hợp thông tin đủ, thích hợp có
giá trị và đáng tin cậy và xem xét mức độ phù hợp thông tin này và một tập
hợp tiêu chí phù hợp với các mục tiêu định ra ban đầu hay điều chỉnh trong
quá trình thu thập thông tin nhằm ra một quyết định”. [19, tr. 3]
“Đánh giá được hiểu là quá trình hình thành những nhận định phán
đoán về kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được đối
chiếu với mục tiêu tiêu chuẩm đã đề nhằm đề xuất những quyết định thích
hợp để cải thiện thực trạng điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công
tác giáo dục”. [19, tr. 3]
Như vậy, có thể có những cách định nghĩa khác nhau về kiểm tra, đánh
giá nhưng bản chất của nó có những điểm chung. Đến đây chúng ta có thể rút
ra một kết luận là: đánh giá gồm 3 khâu chính là thu thập, xử lí thông tin và ra
quyết định. Đánh giá là một quá trình bắt đầu khi chúng ta định ra một mục
tiêu phải theo đuổi và kết thúc khi đưa ra quyết định liên quan đến mục tiêu
đó đồng thời lại mở đầu cho một chu trình tiếp theo. Khâu kiểm, tra đánh giá
là khâu cuối cùng trong dạy và học. Đây là khâu then chốt, ở khâu này việc ra
đề kiểm tra, đánh giá như thế nào cho phù hợp với mục tiêu chương trình là
một vấn đề hết sức quan trọng từ đó sẽ quyết định mục tiêu chương trình,
cách học cách dạy. Ra đề như thế nào sẽ quyết định cách dạy và cách học như
thế. Vậy là việc ra đề là khâu quyết định quan trọng. Tuy nhiên việc đánh giá
phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Đảm bảo tính khách quan, chính xác
Phản ánh chính xác kết quả như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục
tiêu đề ra, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá.
2. Đảm bảo tính toàn diện
Đầy đủ các khía cạnh, các mặt cần đánh giá theo yêu cầu và mục đích.
3. Đảm bảo tính hệ thống
Tiến hành liên tục và đều đặn theo kế hoạch nhất định, đánh giá thường
xuyên, có hệ thống sẽ thu được những thông tin đầy đủ, rõ ràng và tạo cơ sở
để đánh giá một cách toàn diện.
17
4. Đảm bảo tính công khai và tính phát triển
Đánh giá được tiến hành công khai, kết quả được công bố kịp thời, tạo
ra động lực để thúc đẩy đối tượng được đánh giá mong muốn vươn lên, có tác
dụng thúc đẩy các mặt tốt, hạn chế mặt xấu.
5. Đảm bảo tính công bằng
Đảm bảo rằng những học sinh thực hiện các hoạt động học tập với
cùng một mức độ và thể hiện cùng một nỗ lực sẽ nhận được kết quả đánh
giá như nhau.
Ở đây chúng ta cần phải hiểu thế nào về một đề văn, hiểu một cách
thấu đáo cặn kẽ.
Đề thi, đề kiểm tra môn học nào cũng phải có yêu cầu sáng tạo nhưng
đề thi đề kiểm tra môn Ngữ văn thì yêu cầu sáng tạo lại càng phải được chú ý
vì đây là là sáng tạo trong thưởng thức nghệ thuật. Sáng tạo là đổi mới nhưng
đổi mới phải dựa trên những căn cứ những tiêu chí và phải bám sát mục tiêu
môn học.
Ra đề là một hoạt động chuyên môn thường nhật, thường niên của
người giáo viên Ngữ văn, việc ra đề làm văn sẽ thể hiện được năng lực
chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp, sự đam mê tìm tòi sáng tạo của
người giáo viên.
Trong quá trình đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục THCS,
THPT nói riêng, việc đổi mới được tiến hành từ từ mục tiêu, nội dung,
phương pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội đang phát triển,
xu thế hội nhập, giao lưu rộng rãi.
Việc đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng và xem như một
khâu đột phá quan trọng trong quá trình đổi mới giáo dục. Đổi mới phương
pháp dạy học cần hình thức kiểm tra tương xứng với nó để tạo ra động lực
thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy
học. Để đáp ứng những mục tiêu mới của giáo dục, việc kiểm tra, đánh giá
cũng phải đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
18
nhằm phát triển trí thông minh, sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng
linh hoạt kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ
những cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề được đặt ra trong
cuộc sống phức tạp biến động nhanh chóng hiện nay.
Kiểm tra, đánh giá có vai trò ý nghĩa đối với cả học sinh và giáo viên vì
qua KTĐG sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy, các nhà quản lý giáo dục và bản
thân học sinh có những thông tin xác thực để có tác động kịp thời nhằm điều
chỉnh và bổ sung phương pháp trong quá trình dạy và học điều chỉnh kĩ năng
con đường cách thức tiếp nhận. Không đổi mới kiểm tra đánh giá thì tất cả trở
nên vô nghĩa.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một mắt xích quan
trọng trong quá trình giáo dục và đào tạo. Kiểm tra đánh giá có hệ thống và
thường xuyên sẽ cung cấp kịp thời những thông tin cần thiết giúp học sinh tự
điều chỉnh hoạt động học, giúp giáo viên có thông tin phản hồi để điều chỉnh
và hoàn thiện quá trình dạy để từ đó nâng cao chất lượng dạy học của nhà
trường phổ thông.
Do yêu cầu đặc trưng bộ môn nên kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ
văn nhằm mục đích đánh giá học sinh một cách toàn diện và rèn luyện cho
học sinh về hai kỹ năng rất cơ bản là năng lực đọc hiểu văn bản và tạo lập
văn bản, tạo điều kiện cho HS phát triển toàn diện các kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết và xúc cảm thẩm mĩ. Những năng lực này đã được cụ thể hóa trong
chuẩn chương trình môn học với những yêu cầu cần đạt trên cả ba mặt kiến
thức, kỹ năng và thái độ.
Trong đánh giá môn Ngữ văn, cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Việc đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn trước
hết cần phải bám sát mục tiêu môn học, và chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đánh
giá. Ở đây cũng cần phải hiểu đúng về chuẩn kiến thức kĩ năng, chuẩn kiến
thức kĩ năng tức là yêu cầu tối thiểu phải đạt được, thế nên trong quá trình dạy
và học, kiểm tra, đánh giá phải căn cứ vào đối tượng vào đặc trưng cơ bản của
19
vựng min nõng chun ỏp ng c yờu cu ca hc sinh v ũi hi ca
xó hi ngha l chng trỡnh khi biờn son phi lm sao m bo hc sinh
tt c cỏc vựng min trong c nc u cú th tip thu lnh hi. Tuy nhiờn, cỏc
chun trong chng trỡnh cha phi l chun ỏnh giỏ vỡ chun ỏnh giỏ c
hiu l biu hin c th nhng yờu cu c bn, ti thiu ca mc tiờu giỏo
dc m ngi hc phi t c. Vỡ th trc khi ra quyt nh kim tra, cn
hin thc hoỏ cỏc mc tiờu v chun yờu cu cn t về kiến thức - k nng t
3 mch ni dung Vn hc, Ting Vit, Lm vn (chun chng trỡnh) và có
khi là cả thái độ xác định cho mỗi nội dung học tp ca mụn hc thnh cỏc
tiờu chớ ỏnh giỏ c th, cú th o m c, phự hp vi nng lc hc tp
Ng vn chung ca hc sinh v cú th thc hin c trong thc t vi mt
khong thi gian nht nh. Vic xỏc nh chun ỏnh giỏ s l c s nh
ra ni dung v hỡnh thc kim tra trong mụn hc, cng l cn c cú th o
mt cỏch chớnh xỏc cỏc mc nhn thc v vn dng ca hc sinh.
Th hai: i mi ỏnh giỏ kt qu hc tp mụn Ng vn ca hc sinh
c cn c trờn nhng i mi v ni dung chng trỡnh v sỏch giỏo khoa
Ng vn THCS, THPT. i vi b mụn Ng vn trng THPT ỏnh giỏ
hc sinh 3 cp : Nhn bit, Thụng hiu, Vn dng (trong vn dng thỡ cú
vn dng thp v vn dng cao). C th nh sau:
+ Theo quan im tớch hp, bao gm 3 xu th: tớch hp ni dung kin
thc, k nng ca ba mch kin thc Vn hc, Ting Vit, Lm vn; tớch hp
dy kin thc Ng vn vi rốn luyn cỏc k nng nghe, núi, c, vit; tớch hp
kin thc liờn mụn vo tng bi hc, cú liờn thụng v lp li cỏc bi hc khỏc
giỏo dc ý thc cụng dõn, giỏo dc thỏi k nng sng giỏo dc mụi trng.
+ Chỳ trng hỡnh thnh, phỏt trin v hon thin c 4 k nng nghe,
núi, c, vit c bit l qua 4 k nng ny hỡnh thnh nng lc cm th,
nng lc bc l, biu t t tng, tỡnh cm bng ngụn ng núi, vit Ting
Vit cho hc sinh; quan tõm hn n vic hỡnh thnh nng lc c vn (c
hiu vn bn) v nng lc lm vn (to lp, sn sinh vn bn).
20
+ Chú trọng giảm kiến thức lý thuyết hàn lâm, tăng những kiến thức, kỹ
năng có ý nghĩa và ích dụng cho cuộc sống, dành thời gian cho những vấn đề
có tính địa phương, có tính toàn cầu, tăng thời lượng cho việc thực hành nói
và viết Tiếng Việt gắn với những vấn đề của thực tiễn đời sống, phù hợp với
nhu cầu và khả năng tiếp nhận của HS.
+ Theo tinh thần phát triển các năng lực thiết yếu ở người học như
năng lực tự học, năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp, năng lực tự khẳng
định một chiến lược sư phạm chú trọng tới việc tích cực hóa hoạt động học
tập của người học và xuất phát từ quyền lợi và mong muốn của người học sau
khi kết thúc chương trình học tập môn Ngữ văn.
Thứ ba: Mở rộng phạm vi kiến thức kỹ năng được kiểm tra qua mỗi lần
đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh. Trong đánh giá, coi
trọng sự đánh giá toàn diện về các mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ dựa trên kết
quả thực hành vận dụng 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh - không có
nghĩa là đề cao kỹ năng, coi nhẹ đánh giá thái độ và trình độ nhận thức có tính
khoa học. Ngay cả việc đánh giá năng lực cảm thụ của học sinh cũng không
thể chỉ căn cứ vào các bài kiểm tra viết (làm văn) theo định kỳ mà không dựa
trên kết quả kiểm tra thường xuyên của cả 4 kỹ năng này. Kết hợp với sự thể
hiện, bộc lộ các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong học tập các môn học khác
và trong những hoạt động khác ở lớp học, trong nhà trường, ngoài xã hội.
Với nguyên tắc này, các bài kiểm tra chỉ yêu cầu học sinh nhớ, tái hiện
kiến thức (mức độ tư duy nhận biết) được giảm thiểu, những câu hỏi bài tập
thử thách tư duy sáng tạo (mức độ tư duy thông hiểu), năng lực vận dụng linh
hoạt các tri thức kĩ năng đã học để giải quyết hợp lí những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn (mức độ tư duy vận dụng) được tăng cường. Mặt khác, mỗi bài kiểm
tra có thể sử dụng nhiều loại câu hỏi khác nhau nhằm phân hoá các đối tượng
học sinh, giúp giáo viên có được những thông tin đầy đủ về việc học tập Ngữ văn
của từng đối tượng học sinh trong lớp và từ đó có những quyết định sư phạm
chính xác, kịp thời giúp từng học sinh tiến bộ thực sự.