Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh trung học phổ thông qua giờ văn học sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC




NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT



NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC
TỰ HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG QUA GIỜ VĂN HỌC SỬ


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học
(Bộ môn Ngữ văn)
Mã số : 60 14 10


Người hướng dẫn khoa học: GS. NGND. PHAN TRỌNG LUẬN







HÀ NỘI - 2010




Lời cảm ơn!

Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ, giảng viên trường Đại học
Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ tôi trong
khoá học và suốt quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trường
THPT Nguyễn Đức Cảnh, THPT Thái Phiên, THPT Ngô Quyền, Hải Phòng,
đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
GS. NGND Phan Trọng Luận - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên và giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Do những điều kiện khách quan và chủ quan, chắc chắn luận văn sẽ
không thể tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong muốn nhận được
những sự chỉ bảo, những ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn.
Trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, tháng 11 năm 2010
Tác giả


Nguyễn Thị Minh Nguyệt





MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
5
5. Giả thuyết khoa học của đề tài
5
6. Đóng góp của đề tài
5
7. Phương pháp nghiên cứu
6
8. Phạm vi và giới hạn của luận văn
6
9. Cấu trúc của luận văn
6
Chƣơng 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TỰ HỌC
7
1.1. Cơ sở thực tiễn
7
1.1.1. Khảo sát tình hình dạy và học VHS ở nhà trường THPT
7
1.1.2. Những kết luận rút ra qua khảo sát
10
1.2. Cơ sở lý luận

16
1.2.1. Quan niệm về năng lực tự học của học sinh THPT
16
1.2.2. Tự học - vấn đề mang tính chiến lược sư phạm hiện đại
21
1.2.3. Tự học trong giờ VHS ở nhà trường Trung học phổ thông
27
1.2.4. Đặc điểm tâm lý, khả năng rèn luyện năng lực tự học cho học
sinh Trung học phổ thông.

38
Chƣơng 2: NHỮNG BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ
HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUA GIỜ
VĂN HỌC SỬ


41
2.1. Hướng dẫn học sinh tự làm việc với sách giáo khoa
41
2.1.1. Quan điểm về sách giáo khoa trong phân môn văn học sử
41
2.1.2. Hướng dẫn học sinh sử dụng SGK trong phân môn văn học sử
41
2.2. Hướng dẫn học sinh thu thập, chọn lọc, sắp xếp tư liệu có liên quan
đến bài văn học sử

48
2.3. Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tranh luận và đề xuất thắc mắc
trong giờ văn học sử


51
2.4. Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh thuyết trình trong giờ VHS
56

2.5. Hướng dẫn cho học sinh viết những bài tập ngắn, những thu hoạch
nhỏ về kiến thức văn học sử mà các em đã thu nhận được

60
Chƣơng 3: THỂ NGHIỆM MỘT SỐ BÀI VĂN HỌC SỬ TRONG
CHƢƠNG TRÌNH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO HƢỚNG
RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TỰ HỌC


63
3.1. Mục đích thể nghiệm
63
3.2. Một số thiết kế thể nghiệm
63
3.2.1. Thiết kế thể nghiệm bài: Khái quát VHVN từ đầu thế kỷ XX đến
CM tháng 8 năm 1945 lớp 11 THPT …

63
3.2.2. Thiết kế thể nghiệm bài: Khái quát VHVN từ CM tháng 8 năm
1945 đến hết thế kỷ XX lớp 12 THPT

73
3.3. Thuyết minh thiết kế thể nghiệm
81
3.4. Tiến hành thể nghiệm đối chứng
85

3.4.1. Đối tượng thể nghiệm đối chứng
85
3.4.2. Địa bàn, thời gian thể nghiệm, đối chứng
85
3.4.3. Nguyên tắc tiến hành thể nghiệm
86
3.4.4. Biện pháp kiểm chứng
86
3.4.5. Tổng hợp tiến trình kết quả thể nghiệm, đối chứng
86
3.5. Những kết luận rút ra qua giờ học thử nghiệm, đối chứng
88
3.5.1. Vai trò quan trọng của sách giáo khoa
88
3.5.2. Giờ học thể nghiệm thể hiện một sự đổi mới về phương pháp dạy
văn học sử nói riêng, dạy văn học nói chung

88
3.5.3. Sau giờ học thể nghiệm kích thích hứng thú, ham học của HS
90
3.5.4. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình thể nghiệm
91
3.5.5. Những suy nghĩ sau thể nghiệm
91
KẾT LUẬN .
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
96
PHỤ LỤC


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH Công nghiệp hoá
CNTT Công nghệ thông tin
CM MN Cách mạng Miền Nam
CM Cách mạng
ĐHSP HN Đại học sư phạm Hà Nội
HS Học sinh
HĐH Hiện đại hoá
GV Giáo viên
KQGĐ Khái quát giai đoạn
NXBGD Nhà xuất bản giáo dục
SGK Sách giáo khoa
THPT Trung học phổ thông
VHS Văn học sử
VH Văn học
VHVN Văn học Việt Nam














1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tự học, tự nghiên cứu là một tư tưởng chiến lược của chương trình
phát triển giáo dục thời đại mới cũng như của khoa sư phạm hiện đại
Thế giới đã có sự thay đổi cả về chất và lƣợng để sẵn sàng có những
bƣớc tiến dài vào thiên niên kỷ mới, kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật thông
tin và công nghệ sinh học. Để có thể làm chủ đƣợc tri thức, không có con
đƣờng nào khác là con đƣờng phát huy nội lực bản thân để tự học, tự hoàn
thiện để vƣơn lên hoà nhập xã hội. Theo tiêu chuẩn giáo dục của thanh niên
thế giới khi bƣớc vào thế kỷ XXI, thì giới trẻ phải đạt đƣợc 10 kỹ năng ứng
dụng học vấn vào đời sống, trong đó “kỹ năng tự học, tự nâng cao trình độ cá
nhân trong mọi tình huống”, [3, tr.4] là có tính bao trùm và quan trọng hơn cả.
Ta thấy "Tự học là con đường tự khẳng định, là con đường sống, là con đường
thành đạt của mỗi con người muốn vươn lên đỉnh cao trí tuệ của thời đại"
[16]. Nhƣ vậy "Nếu kỷ nguyên tin học trước hết phải là một kỷ nguyên giáo
dục, thì kỷ nguyên giáo dục cốt lõi là kỷ nguyên tự học – tự đào tạo" [22].
Tại Hội nghị lần thứ II BCH TW Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VIII
đã thông qua Nghị quyết số 02 – NQ/HNTW "về chiến lược phát triển giáo
dục đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000" nêu rõ: "
Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều,
rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người HS, từng bước áp dụng các
phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong
toàn dân, nhất là trong thanh niên" [32]. Giáo sƣ Phan Trọng Luận đã khẳng
định "Tự học xét cho kĩ là một vấn đề then chốt của giáo dục đào tạo đồng
thời cũng là vấn đề có ý nghĩa văn hoá, khoa học, xã hội và chính trị sâu sắc.
Đề cao tự học trong bối cảnh hiện nay của đất nước và thế giới trước ngưỡng
cửa của thế kỷ XXI là một cách nhìn thực tế, vừa có ý nghĩa chiến lược" [15].
Nhƣ vậy, vấn đề đổi mới phƣơng pháp gắn liền với rèn luyện năng lực tự

học là một trong những mục tiêu, chiến lƣợc sƣ phạm hiện đại của giáo dục VN.

2
1.2. Một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra cho nền giáo dục nước ta là:
phải hiện đại hoá nội dung và phương pháp dạy học.
Hiện nay, việc vận dụng phƣơng pháp mới vào giảng dạy VHS ở nhà
trƣờng THPT chƣa thực sự hiệu quả bởi vẫn tồn tại lối dạy học thông báo kiến
thức, đặt ra nhiều thử thách đối với giáo viên và học sinh: Kiến thức đƣa vào
SGK mới và quá nhiều mà thời gian học trên lớp có hạn, tài liệu tham khảo
quá rộng mà hiểu biết của HS còn hạn chế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nƣớc ta
đã đƣa ra chiến lƣợc phát triển ngành giáo dục bằng cách thay đổi phƣơng
pháp dạy học tối ƣu nhất. Ngƣời GV phải thay đổi phƣơng pháp dạy học giúp
HS có những kỹ năng tự học để rút ngắn thời gian học tập trên lớp mà vẫn đạt
hiệu quả cao.
1.3. Những thành tựu mới về não học CNTT càng tạo tiền đề cho việc coi
trọng tự học
Khoa học và công nghệ phát triển với sức thần tốc kỳ diệu đó là sự ra
đời của Máy tính và Internet. Nhƣng từ thời xa xƣa, Khổng Tử đã rất ý thức
tiềm năng vô tận của bộ não, ông từng nói "Bởi thừa nhận tính hơn hẳn của
cái đầu đối với phần còn lại của cơ thể". Bộ não là một phần lãnh thổ lớn nhất
chƣa đƣợc khám phá hết trên thế giới. Hàng ngày chúng ta không tự rèn luyện
những năng lực, kỹ năng tự học thì bộ não chúng ta sẽ bị lãng quên.
Chúng ta thấy thế giới đặc biệt coi trọng việc phát huy tiềm năng của
não bộ. Đã có biết bao tài năng đƣợc khẳng định bởi họ biết cách đánh thức và
sử dụng hiệu quả não bộ để học hỏi và nghiên cứu. Đúng nhƣ Giáo sƣ
Pierpaolo Donati, nhà xã hội học nổi tiếng của Bolonia đã khẳng định "Sự
hoàn hảo của trí não và trí nhớ tốt là cơ sở thành công trong mọi lĩnh vực".
Một trong những nhiệm vụ chiến lƣợc của ngành giáo dục là khai thác
và phát huy tiềm năng kì diệu của não bộ. Bộ não giúp chúng ta học tập suốt
đời, từ khi sinh ra cho đến khi không còn có mặt trên trái đất này.

Trên đây là những lý do để tác giả luận văn đặt vấn đề rèn luyện năng
lực tự học cho học sinh Trung học phổ thông qua giờ văn học sử.

3
2. Lịch sử vấn đề
Hơn nửa thập kỷ qua, phong trào đổi mới phƣơng pháp DH nói chung
và VH nói riêng đƣợc bàn luận sôi nổi và đã đạt đƣợc một số thành tựu nhất
định. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị đề cập đến vấn
đề nâng cao chất lƣợng dạy và học, phƣơng pháp chú trọng đến việc xem HS
là chủ thể nhận thức.
Vấn đề rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS không còn
là vấn đề mới mẻ. Năm 1947, khi nói về công tác huấn luyện Hồ Chí Minh đã
nói "lấy tự học làm nòng cốt". Hồ Chí Minh là ngƣời luôn nêu cao vấn đề tự
học. Năm 1956, trong buổi nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khoá I của
trƣờng Đại học nhân dân Việt Nam, Ngƣời đã dặn dò: "Học hỏi là một việc
làm phải tiếp tục suốt đời, suốt đời phải gắn liền với lí luận và thực tiễn,
không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi. Thế giới ngày một đổi mới, nhân
dân ta càng tiến bộ, chúng ta phải tiếp tục học hành để tiến bộ kịp nhân dân".
Tháng 11 năm 1997, Vũ Quốc Anh – vụ THPT – Bộ Giáo dục và Đạo
tạo có bài viết: "Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của HS THPT". Giáo sƣ
Phan Trọng Luận có bài: "Dạy học để HS tự học văn". Đến năm 1998 đã có cả
một cuộc hội thảo về tiêu đề: "nghiên cứu và phát triển tự học - tự đào tạo".
Trong đó bà Nguyễn Thị Bình – Bộ trƣởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nói:
"năng lực tự học – tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con người, nếu biết kết
hợp quá trình đào tạo ở nhà trường, lớp với quan tâm tự học tự đào tạo thì đó
là con đường ngắn nhất để tạo ra “nội lực” cần thiết cho sự phát triển một
con người cho đất nước". Ngay sau đó là tháng 12 /1998 Giáo sƣ Phan Trọng
Luận có bài viết: "Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục". Và "Vì năng lực tự
học sáng tạo của người HS" của Nguyễn Nghĩa Dân. Giáo sƣ Nguyễn Cảnh
Toàn có rất nhiều bài đúc kết kinh nghiệm quí báu về tự học trong đó có: "Vài

kinh nghiệm tự học - tự nghiên cứu" [Tạp chí tự học số 7/3/2000]. Và đặc biệt
trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho ra mắt bạn đọc một tạp chí:
“Tự học”. Đến năm 2001 Giáo sƣ Nguyễn Cảnh Toàn cho ra đời hai cuốn

4
sách quí giá: “Học và dạy cách học” và “Tuyển tập tác phẩm tự giáo dục, tự
học” tập 1 và tập 2 do trƣờng ĐHSP HN1 – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ
Đông Tây xuất bản – 2001. Hai cuốn sách trên có thể coi là cẩm nang quí giá
cho những ngƣời có ý thức tự học, tự vƣơn lên.
Trong môn VH ở nhà trƣờng THPT thì phân môn VHS giữ một vị trí
quan trọng song chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Số công trình nghiên cứu về
vấn đề này còn quá khiêm tốn, chỉ có “Mấy vấn đề giảng dạy VHS ở trường
phổ thông cấp III” của Giáo sƣ Phan Trọng Luận và một số nghiên cứu khác
nhƣng không có ảnh hƣởng cao. Từ đó đã có rất nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề tự họ nhƣng vẫn còn thiếu vắng một công trình, một
chuyên luận vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn sát thực với HS
THPT ở địa phƣơng.
Từ 1995 trở lại đây đã có một số luận văn thạc sĩ theo hƣớng khai thác
đề tài tự học, tự nghiên cứu đã đƣợc hoàn thành xuất sắc nhƣ: “Những hình
thức tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong giờ VHS ở trường
THPT” của Đào Văn Phán và “Hình thành năng lực nghiên cứu tự học cho HS
THPT qua giờ VHS” của Lê Khánh Toàn, đặc biệt là luận án tiến sĩ của Phạm
Kim Xuyến: “Rèn luyện năng lực tự học cho HS THPT qua giờ VHS”.
Về vấn đề rèn luyện kỹ năng tự học cho HS THPT qua giờ VHS đƣợc
vận dụng vào địa phƣơng cụ thể còn là vấn đề mới mẻ và tƣơng đối phức tạp.
Chính vì vậy tác giả luận văn đặt ra vấn đề rèn luyện những năng lực tự học
cho HS THPT qua giờ VHS. Tác giả cho đó là vấn đề thiết thực, góp phần
thực thi việc đổi mới phƣơng pháp DH VH nói chung và phân môn VHS nói
riêng trong nhà trƣờng THPT hiện nay, đặc biệt là ở thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Cùng với xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp DH nói chung, DH Ngữ
văn nói riêng, luận văn góp phần xây dựng cơ sở lí luận và khảo sát thực tế giờ
dạy - học VHS tạo tiền đề cho vấn đề tự học ở THPT và khẳng định tầm quan
trọng của tự học trong chiến lƣợc giáo dục.

5
- Luận văn mạnh dạn đƣa ra một trong những phƣơng pháp DH tích cực
và hiệu quả nhất đó là hƣớng dẫn HS tự làm việc, tự tiếp cận để chiếm lĩnh tri
thức VHS một cách chủ động, góp phần giải quyết những tồn tại trong lối DH
thông báo kiến thức, đặt ra nhiều thử thách đối với GV và HS: kiến thức đƣa
vào SGK mới và quá lớn mà thời gian học lại ít, tài liệu quá rộng mà hiểu biết
HS có hạn.
- Để nâng cao chất lƣợng giờ học VHS, biến quá trình DH thành quá trình
tự học, luận văn muốn khẳng định khả năng vận dụng tự học trong giờ học VHS,
đóng góp một phần cùng với môn Ngữ văn chuẩn bị cho HS một hành trang
vững chắc cả về tri thức lẫn phƣơng pháp, kỹ năng để các em có thể tự bổ sung
cập nhật kiến thức, tự hoàn thiện vững vàng tự tin bƣớc vào đời.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy và học VHS ở nhà trƣờng THPT.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Các bài học VHS ở nhà trƣờng THPT
5. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu nâng cao đƣợc năng lực tự học cho HS THPT thì hiệu quả giờ học
VHS ở nhà trƣờng THPT sẽ đƣợc nâng cao một cách vững chắc. Đồng thời
hình thành và rèn luyện cho bản thân HS một năng lực quan trọng để học tập,
nghiên cứu lên bậc Đại học cũng nhƣ trong đời sống
6. Đóng góp của đề tài
Khẳng định trên cơ sở lý luận và thực tiễn tầm quan trọng của tự học và
yêu cầu rèn luyện năng lực tự học cho học sinh THPT qua giờ học VHS.
Luận văn góp phần nâng cao hiệu quả DH VHS ở nhà trƣờng THPT nói
riêng và VH nói chung.

Đặt vấn đề hình thành những biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho
học sinh Trung học phổ thông qua giờ văn học sử, luận văn góp phần thực
hiện hoá một bƣớc tƣ tƣởng đổi mới phƣơng pháp DH văn nói chung, phân
môn VHS nói riêng đang đặt ra hiện nay.


6
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp khảo sát thức tế (dự giờ dạy và học VHS của GV và HS).
7.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.3. Phương pháp tổng hợp và vận dụng lý luận như: phân tích, tổng hợp, so
sánh … khái quát một số phương diện thuộc về rèn luyện năng lực tự học
7.4. Phương pháp thể nghiệm và kiểm chứng giả thuyết của luận văn: soạn
và dạy 2 bài: Khái quát VH Việt Nam giai đoạn 1930-1945 và Khái quát VH
Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 để minh họa.
8. Phạm vi và giới hạn của luận văn
8.1. Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề DH các bài VHS ở nhà trƣờng THPT.
8.2. Giới hạn khách thể điều tra: Các giờ dạy và học VHS ở nhà trƣờng
THPT
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc trình
bày trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở thực tiễn và lý luận của tự học
Chƣơng 2: Tự học trong giờ học văn học sử ở nhà trƣờng Trung học
phổ thông
Chƣơng 3: Thể nghiệm một số bài văn học sử trong chƣơng trình Trung
học phổ thông theo hƣớng rèn luyện năng lực tự học











7
Chƣơng 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TỰ HỌC
1.1. Cơ sở thực tiễn
1.1.1. Khảo sát tình hình dạy và học VHS ở nhà trường THPT
1.1.1.1. Phần khảo sát
Địa bàn khảo sát: Tiến hành dự giờ dạy và học, ra đề khảo sát khả năng
phát hiện luận điểm, khả năng lập dàn ý của HS thuộc địa bàn Hải Phòng.
+ Trƣờng THPT Nguyễn Đức Cảnh – Hải Phòng
+ Trƣờng THPT Thái Phiên – Hải Phòng
+ Trƣờng THPT Ngô Quyền – Hải Phòng
Đối tƣợng khảo sát: HS 2 khối 11 và 12, do GV của 3 trƣờng trên giảng dạy.
Số lƣợng giờ dự: 2 bài tƣơng đƣơng 4 tiết: Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến Cách Mạng tháng 8/1945 và Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX.
Thời gian khảo sát: Năm học 2007 - 2008 và 2009 – 2010
1.1.1.2. Một vài số liệu và kết quả thu hoạch rút ra qua khảo sát
Bảng 1.1: Tỉ lệ thời gian GV sử dụng trong giờ học
S
TT
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp

Thời gian
GV sử dụng
Tên
Trƣờng
Giáo
viên
Phút
%
1
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B3
72
80%
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
Lƣơng
Thị Vui
2
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B2
70
77%
THPT Thái

Phiên
Trần Thị
Hậu
3
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B1
71
82%
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
Nguyễn
Thị Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B4
70
77%
THPT
Nguyễn
Đức Cảnh
Vũ Thị
Hợp
5

Khái quát VH Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B5
72
80%
THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hƣng
6
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
2
12A1
72
80%
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố
Nga

8
thế kỉ XX
7
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
thế kỉ XX

2
12A2
69
75%
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
8
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
thế kỉ XX
2
12A8
70
77%
THPT Thái
Phiên
Nguyễn
Thị
Hƣơng
9
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
thế kỉ XX
2
12A7
68
74%
THPT Thái

Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10
Khái quát VH Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết
thế kỉ XX
2
12A3
71
78%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
Tỷ lệ trung bình: 86%
Bảng 1.2: Tỷ lệ thời gian HS sử dụng trong giờ học
STT
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp
Thời gian GV
sử dụng
Tên
Trƣờng
Giáo
viên
Phút
Tỷ lệ %



1
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B3
18
20%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Lƣơng
Thị Vui
2
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B2
5
23%
THPT Thái
Phiên
Trần Thị
Hậu
3
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM

tháng 8/1945
1
11B1
5,5
18%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Nguyễn
Thị Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B4
6,5
23%
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Vũ Thị
Hợp
5
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B5
5

20%
THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hƣng
6
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
2
12A1
18
20%
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố
Nga
7
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A2
4,5
25%
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm

8
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
1
12A8
6,5
23%
THPT Thái
Phiên
Nguyễn
Thị

9
hết thế kỉ XX
Hƣơng
9
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A7
5,5
24%
THPT Thái
Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến

hết thế kỉ XX
1
12A3
6,5
22%
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ
Tỷ lệ trung bình: 14%
Bảng1.3: Số lƣợng câu hỏi nêu ra trong mỗi giờ học
STT
Tên bài giảng
Số
tiết
Lớp
Số lƣợng
câu hỏi
Tên Trƣờng

Giáo viên

1
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
2
11B3
8 câu
THPT

Nguyễn Đức
Cảnh
Lƣơng Thị
Vui
2
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B2
8 câu
THPT Thái
Phiên
Trần Thị
Hậu
3
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B1
7 câu
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Nguyễn Thị
Ánh
4
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM

tháng 8/1945
1
11B4
7 câu
THPT
Nguyễn Đức
Cảnh
Vũ Thị Hợp
5
Khái quát VH Việt Nam
từ đầu thế kỉ XX đến CM
tháng 8/1945
1
11B5
7 câu
THPT Ngô
Quyền
Đồng
Hoàng
Hƣng
6
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
2
12A1
8 câu
THPT Ngô
Quyền
Cao Tố Nga

7
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A2
6 câu
THPT Ngô
Quyền
Vũ Thị
Châm
8
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A8
6 câu
THPT Thái
Phiên
Nguyễn Thị
Hƣơng
9
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A7
7 câu
THPT Thái

Phiên
Vũ Bích
Thuỷ
10
Khái quát VH Việt Nam
từ CM tháng 8/1945 đến
hết thế kỉ XX
1
12A3
8 câu
THPT Thái
Phiên
Cao Thu
Thuỷ

10
1.1.2. Những kết luận rút ra qua khảo sát
1.1.2.1. Về hoạt động giảng dạy của GV
Thực tế khảo sát chúng ta thấy, các bài KQGĐ VHS còn gây cho chúng
ta nhiều trăn trở về quá trình giảng dạy của GV và chất lƣợng học tập của HS.
Hầu hết các giờ dạy VHS còn nằm ngoài quỹ đạo của công cuộc đổi mới
phƣơng pháp DH. Phƣơng pháp giảng dạy mà GV sử dụng trong các giờ học
rất đơn điệu, chủ yếu vẫn là phƣơng pháp thuyết trình, HS rất thụ động,
phƣơng pháp hỏi đáp có sử dụng nhƣng với số lƣợng thời gian rất ít. Đƣợc
biểu hiện cụ thể là:
* GV lạm dụng phương pháp diễn giảng
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy hầu hết GV sử dụng phƣơng pháp
cũ, GV vẫn là chủ thể của mọi hoạt động, HS là khách thể. Phƣơng pháp diễn
giảng đƣợc sử dụng với thời gian rất lớn tới 87%. Ngƣời GV làm việc rất vất
vả, hoạt động liên tục, một mình diễn trên bục giảng. Trong khi kiến thức các

bài VHS rất dài khiến GV phải chạy đua với thời gian.
Tâm lý GV là trình bày cho HS trọn vẹn kiến thức SGK. Việc GV chọn
lọc và định hƣớng kiến thức chƣa dụng công, chƣa hợp lý, GV ít chú ý đến
việc mở rộng kiến thức cho HS. Phƣơng pháp diễn giảng kiến thức SGK trong
bài học VHS nhƣ đóng khung dẫn tới không khí tiết học trầm lắng, tạo cảm
giác mệt mỏi HS, thậm chí nhiều HS còn nằm ngủ, không có hứng thú học tập.
Phƣơng thức thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe vẫn diễn ra trong
các giờ VHS. HS không tự mình tìm hiểu, không tự mình nghiên cứu tài liệu
có liên quan đến bài học. Thậm chí có giờ học GV còn đọc nhiều đoạn trong
SGK cho các em chép, một số em không chép mà gạch chân SGK. Phƣơng
pháp này cho thấy các GV chỉ chú trọng tới việc làm sao trình bày đƣợc hết
khung kiến thức SGK mà quên không chú ý tới năng lực tiếp nhận và đặc
điểm tâm lý của HS. Vì thế mà kiến thức VHS của HS sơ sài và nghèo nàn,
các em có thái độ dửng dƣng, thờ ơ, coi thƣờng các bài học VHS. Trong khi
kiến thức khái quát của VHS là kiến thức cơ bản, quan trọng làm cơ sở, nền
tảng để nhìn nhận, đánh giá cả một giai đoạn văn học cụ thể.

11
Phƣơng pháp dạy thông báo, phát tin này đi ngƣợc với lý thuyết tiếp
nhận và cảm thụ đó là "Coi HS vừa là mục tiêu vừa là phương tiện, phương
thức truyền đạt đến mục tiêu trong sự thống nhất biện chứng" [3, tr.33], làm
cho HS mất dần khả năng tự thân vận động để tìm hiểu, nghiên cứu bài giảng,
không tự học, tự khám phá để mở rộng tầm hiểu biết.
Từ thực tế khảo sát cho chúng ta thấy, hầu hết các giờ học VHS GV
chƣa phát huy đƣợc chủ thể, chƣa phát triển đƣợc tiềm năng sáng tạo của HS,
chƣa huy động đƣợc hiểu biết sẵn có của HS, chƣa rèn luyện cho HS kỹ năng
tự học tập tích cực, nhƣ việc tạo dựng một hứng thú ham học để tự học, tự
vƣơn lên, nắm vững các tri thức khoa học mới bằng con đƣờng tự nghiên cứu,
tự học. Đó cũng là một trong những kỹ năng tự học những bài KQGĐ VHS.
* Phương pháp đặt câu hỏi của giáo viên chưa logic, chưa hệ thống, nặng về

câu hỏi tái hiện.
Từ khảo sát cho thấy, GV có sử dụng phƣơng pháp này nhƣng chỉ dừng
lại ở mặt hình thức. Câu hỏi mang tính tái hiện nhiều, câu hỏi dài ngắn không
lôgic, không hệ thống nên chƣa đạt hiệu quả giảng dạy cao.
Theo thống kê của chúng tôi, trung bình mỗi giờ học giáo viên sử dụng
8-9 câu hỏi. Phần lớn câu hỏi đƣa ra rất dài HS thƣờng đọc SGK thay trả lời.
Có tới 2/3 số câu hỏi mang tính chất chiếu lệ, hình thức và mang tính tái hiện,
rất hiếm câu hỏi có giá trị nêu vấn đề kích thích HS động não suy nghĩ.
Các câu hỏi không có quan hệ liên kết, không lôgic, không xuyên suốt
giữa các phần trong nội dung bài KHGĐ VH nhƣ dạng câu hỏi “VHVN 1945 –
1975 phát triển theo hướng nào?” hay “VH thời kì này có những cảm hứng
nào?”.Qua các giờ khảo sát cho thấy các câu hỏi đặt ra trong các giờ học VHS
không hệ thống. Giáo viên rất tuỳ hứng, không có chuẩn bị trƣớc, không thể
hiện sự tìm tòi sáng tạo của GV và điều trọng là câu hỏi không mang tính nêu
vấn đề. Mỗi câu hỏi gợi hứng thú tìm tòi cho HS là mỗi câu hỏi tạo một cái
mốc trong quá trình khám phá bài học, câu sau bổ sung cho câu trƣớc làm
thành một chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống diễn biến nội

12
dung bài học, ẩn chứa những mâu thuẫn, còn câu hỏi mà các GV đƣa ra ở đây
chủ yếu tái hiện lại nội dung SGK. Ví dụ trong bài Khái quát VHVN từ đầu
thế kỉ XX đến CM tháng 8-1945 giáo viên giảng dạy Trần Thị Hậu trƣờng
THPT Thái Phiên, một giờ dạy theo khảo sát của chúng tôi, GV đã đƣa ra
trong bài khá nhiều câu hỏi cho HS, hệ thống câu hỏi nhƣ sau:
Câu hỏi 1: Quan sát SGK, tr.82-87, nêu nội dung những đặc điểm cơ
bản của VHVN từ đầu thế kỉ XX đến CM tháng 8-1945?
Câu hỏi 2: Những bản chất của khái niệm HĐH là gì? Nội dung và tiến
trình HĐH VHVN trong thời kì này diễn biến nhƣ thế nào?
Câu hỏi 3: Vì sao VH thời kì này có đặc điểm công khai và không công
khai, sự phân hoá thành nhiều xu hƣớng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung

cho nhau để cùng phát triển? Căn cứ vào đâu để phân chia nhƣ vậy?
Câu hỏi 4: Hai truyền thống lớn của VHVN là gì? Trong thời kì này
VHVN đóng góp thêm đƣợc truyền thống gì?
Câu hỏi 5: Nêu các thành tựu về thể loại và ngôn ngữ của VH thời kì này?
Câu hỏi 6: Em hãy nêu những thành tựu nghệ thuật thơ thời kì này?
Câu 7: Em hãy rút ra kết luận chung gì sau khi học bài này?
Bài học trong 90 phút mà GV đƣa ra 7 câu hỏi, cho thấy các câu hỏi rất
bám sát SGK, nhằm tái hiện những luận điểm trong SGK, GV đọc tái hiện các
câu hỏi trong SGK. Riêng câu hỏi thứ 7 cần kỹ năng khái quát thì HS lại
không làm đƣợc, tốn đến 5 phút.
Hay trong bài Khái quát VHVN từ CM tháng 8-1945 đến hết thế kỉ XX,
GV Vũ Bích Thuỷ trƣờng THPT Thái Phiên. GV đƣa ra 10 câu hỏi nhƣ sau:
Câu hỏi 1: Hãy tóm tắt những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hoá
có ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển của VHVN giai đoạn 1945-1975?
Câu hỏi 2: VHVN 1945-1975 phát triển qua mấy chặng?
Câu hỏi 3: Những tác phẩm đáng chú ý trong năm độc lập đầu tiên?
Cảm hứng chung? Sự kiện lịch sử nào đánh dấu sự chuyển biến lớn của VH ở
cuối năm 1946?

13
Câu hỏi 4: Trong văn xuôi những thể loại nào đóng vai trò tiên phong
của VH kháng chiến chống Pháp? Thử lí giải vì sao từ 1950 trở đi, văn xuôi
tạo đƣợc bƣớc phát triển mới?
Câu hỏi 5: Nêu một số nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội chặng
1955-1964?
Câu hỏi 6: Nêu một số nét chính về hoàn cảnh lịch sử, xã hội chặng
1965-1975?
Câu hỏi 7: Cho HS đọc SGK và tóm tắt những đóng góp của xu hƣớng
VH tiến bộ, yêu nƣớc và CM MN. Nhìn một cách bao quát VHVN từ CM
tháng 8/1945 đến hết thế kỉ XX mang những đặc điểm nào?

Câu hỏi 8: Yêu cầu HS đọc thầm SGK và phát biểu về những phƣơng
diện thể hiện của khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng mạn? Lấy một số tác
phẩm các em đã học để minh hoạ.
Câu hỏi 9: Hãy tóm tắt những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn
hoá đã thúc đẩy đổi mới VHVN giai đoạn 1986 đến hết TK XX?
Câu hỏi 10: Nêu những thành tựu nổi bật và một số biểu hiện hạn chế
của VH VN 1945-1975?
Với thực tế khảo sát 10 tiết học trên, chúng ta thấy sự cố gắng của GV
trong quá trình tiếp cận với phƣơng pháp dạy học mới. Đã có rất nhiều GV
thành công trong giờ dạy của mình. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể né
tránh sự thật là chất lƣợng giờ học VHS còn rất kém. Chỉ nhìn vào hệ thống
câu hỏi trong các bài học trên thì thấy bản thân GV cũng chƣa thực sự dụng
công trong các giờ VHS. GV chƣa có sự định hƣớng cho HS chuẩn bị bài ở
nhà và cũng chƣa định hƣớng kiến thức giảng dạy trên lớp. GV chỉ cố gắng
truyền đạt cho hết kiến thức trong SGK, không còn thời gian rèn luyện các kỹ
năng khác cho HS. Các câu hỏi GV đƣa ra HS chỉ vội liếc SGK xem ở đâu để
trả lời chứ không có suy nghĩ, không có ý kiến cá nhân, không có cảm nhận,
không có cảm xúc, không có sự sáng tạo. Các câu hỏi GV đƣa ra có tính chất
tái hiện đó thực sự không làm cho HS nhập cuộc, chƣa làm HS làm việc với

14
SGK, chƣa làm HS có hứng thú với bài học. Với hệ thống câu hỏi trên GV có
thể tạo cho HS những kỹ năng suy nghĩ lôgic, tự làm việc với SGK, tự tìm
hiểu bài học qua những tƣ liệu có liên quan đến bài học. Vì vậy GV khó hình
thành cho HS ý thức tự học, tự nghiên cứu tài liệu bằng khả năng của mình
một cách khoa học và hệ thống.
Cội nguồn của kết quả này là các GV chƣa khơi gợi đƣợc nhu cầu và
nguyện vọng của HS, chƣa lôi cuốn HS vào cuộc. Theo GS Phan Trọng Luận
giờ học nhất thiết phải có các câu hỏi nêu vấn đề vì “Câu hỏi nêu vấn đề là
loại câu hỏi đặt ra cho chủ thể HS và được HS tiếp nhận nó một cách có ý

thức không phải từ ngoài vào mà là do yêu cầu khám phá tìm hiểu của bản
thân” [17, tr.230]. Có câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học VHS mới phát huy
đƣợc hết nội lực của HS trong việc rèn luyện tƣ duy sáng tạo và ý thức học
tập. Nếu các GV vẫn giữ cách giảng dạy nhƣ trên thì HS tốt nghiệp vẫn không
có kiến thức vững chắc, không có năng lực tự học hỏi để vƣơn lên, không có
bản lĩnh tự tin vào chính mình.
1.1.2.2. Hoạt động nghe và chép của HS là chủ yếu
Qua các giờ khảo sát, chúng ta thấy các giờ học VHS còn tồn đọng các
khuyết điểm sau:
Một là trong các giờ VHS hoạt động chủ yếu của HS là nghe và chép.
Trung tâm giờ học vẫn là GV, là ngƣời truyền đạt kiến thức, là ngƣời thuyết
trình, diễn giảng còn HS là khách thể, lắng nghe, chép bài một cách thụ động.
Qua tìm hiểu tâm tƣ nguyện vọng của HS, chúng ta thấy các em chán học, coi
thƣờng giờ học văn nói chung và VHS nói riêng. Trong suốt giờ học VHS HS
chủ yếu nghe và ghi chép, một số HS làm việc riêng, thậm tệ một số em còn
nằm ngủ, không khí giờ học VHS hết sức buồn tẻ, rời rạc. Hoạt động chủ yếu
là GV đƣa ra câu hỏi và chỉ định, HS miễn cƣỡng đứng lên trả lời nên thƣờng
là trả lời chống đối. Khi chúng tôi tiến hành kiểm tra vở soạn của HS lớp 11B3
trƣờng THPT Nguyễn Đức Cảnh và 12A8 trƣờng THPT Thái Phiên phát hiện
một số em soạn bài bằng cách chép đề mục trong SGK rồi lại truyền tay cho

15
các HS khác chép lại. Còn kiểm tra vở ghi đến 2/3 HS trong lớp chép đầy đủ
các đề mục thầy cô ghi trên bảng, không có sàng lọc kiến thức bài giảng của
thầy cô.
Hai là khả năng phát hiện luận điểm của HS rất chậm, diễn đạt lủng
củng. Trả lời câu hỏi HS chỉ việc đọc nội dung tƣơng ứng trong SGK không
biết diễn đạt bằng hành văn của mình. Có HS tự diễn đạt thì câu cú lủng củng,
từ ngữ thiếu chính xác, ý nghĩa luận điểm bị thay đổi hoặc lan man, dài dòng,
không cô đọng. Trong khi kiến thức của các bài khái quát VHS đƣợc vận dụng

nhiều trong quá trình HS chiếm lĩnh các tác phẩm văn chƣơng.
Trong nhà trƣờng, quan điểm dạy và học VHS thực sự đã có tác động
mạnh mẽ đối với các cấp học nhất là THPT. Chất lƣợng dạy và học VHS thực
sự đã có tiến bộ rõ rệt. Tuy vậy, sự vận dụng phƣơng pháp DH mới chỉ dừng
lại trong các giờ dạy tác phẩm VH. Còn VHS là một phân môn nằm ngoài
những biến động của cuộc đổi mới về phƣơng pháp DH. Hơn nữa, việc cải
tiến phƣơng pháp giảng dạy văn hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc tổ chức cho
HS chủ động phát huy năng lực tƣ duy để nắm vững bài học, rèn luyện năng
lực tự học cho HS trong giờ học văn, đặc biệt là giờ học VHS còn rất mới mẻ.
Muốn học tốt môn Ngữ văn phải học tốt phân môn VHS. Vì VHS chứa
lƣợng kiến thức vừa mang tính tổng hợp, khái quát vừa mang tính lý luận.
Kiến thức VHS là tiền đề để hiểu và khám phá kiến thức giảng văn, tập làm
văn, lý luận … Tuy vậy, việc giảng dạy VHS ở nhà trƣờng THPT hiện nay
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm cả về phƣơng pháp giảng dạy của GV và
chất lƣợng học tập của HS.
Có thể nói, ngƣời GV có trách nhiệm nghề nghiệp là khi lên lớp phải có
sự chuẩn bị kỹ lƣỡng thiết kế giáo án. Qua kiểm tra một số gíáo án của GV,
chúng ta thấy thiết kế giáo án của GV thực chất còn là một đề cƣơng nội dung
bài VHS. Dựa vào SGK và sách hƣớng dẫn, GV tóm tắt những luận điểm
chính cần truyền đạt cho HS. Đối tƣợng HS là chủ thể và các hoạt động của
HS không có mặt trong giáo án. Với thiết kế giáo án nhƣ vậy, việc dạy và học

16
VHS sẽ trở nên đơn điệu, một chiều. GV là chủ thể hoạt động, HS là khách thể
bị động, GV chuyển tải lƣợng kiến thức một cách nhanh chóng để kịp thời
gian vì lƣợng kiến thức SGK quá lớn. Tạo không khí giờ học nặng nề, trầm
lắng, không phát huy đƣợc nội lực, hiểu biết sẵn có và lòng say mê học tập của
các em.
Những năm gần đây, phân môn VHS đƣợc lƣu tâm vì có những câu hỏi
nhỏ trong các kì thi, nhƣng mới chỉ xoay quanh những tác phẩm cụ thể. Với

tính chất đó, HS chƣa ý thức đƣợc tầm quan trọng của kiến thức VHS trong bộ
môn văn. HS chƣa thiết lập đƣợc mối quan hệ khăng khít giữa kiến thức VHS
với giảng văn và giảng văn với Tiếng Việt, VHS với tập làm văn và VHS với
lý luận. HS chƣa phát huy đƣợc hết lợi thế của kiến thức VHS trong việc tìm
hiểu các tri thức giảng văn, lý luận … Từ đó dẫn đến thực trạng HS tốt nghiệp
THPT mà không nhớ nổi các giai đoạn VH nƣớc nhà, không nhớ nổi tác giả
thuộc giai đoạn VH nào? Làm sao giáo dục đƣợc tâm hồn Việt Nam và lòng
yêu nƣớc ở các em.
Trên đây là một vài kết luận rút ra qua các giờ khảo sát giảng dạy VHS
nói riêng VH nói chung. Chúng ta đã bƣớc vào thế kỷ XXI thế kỷ của công
nghệ thông tin của tiến bộ khoa học kỹ thuật, mỗi con ngƣời cần phải nỗ lực tự
học, tự sáng tạo để vƣơn lên. Đặt vấn đề rèn luyện kỹ năng tự học cho HS
trong nhà trƣờng THPT, đặc biệt qua giờ học VHS là một bài học có nhiều
tiềm năng. Điều đáng quan tâm là các GV cần phải dụng công trong thiết kế
giáo án để có đƣợc một bài dạy và học theo phƣơng pháp đổi mới phù hợp với
từng phân môn, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Quan niệm về năng lực tự học của HS THPT
Ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, vấn đề tự học vừa có
tính truyền thống vừa có tính phổ biến. Vì thế, đặt vấn đề rèn luyện tự học với
HS THPT liệu có phải là một việc làm quá sức và không phù hợp không? Trên
thực tế, vấn đề này dƣờng nhƣ còn mới mẻ đối với hệ thống nhà trƣờng

17
THPT. Nhƣng thực tế giáo dục hiện đại đã đặt ra vấn đề rèn luyện năng lực tự
học ở lứa tuổi HS THPT từ mấy thập kỷ nay trên toàn thế giới. Để tiến kịp với
khoa học và công nghệ phát triển nhƣ vũ bão của nhân loại, vấn đề rèn luyện
năng lực tự học càng đƣợc quan tâm nhiều hơn vì HS THPT cần đƣợc tiếp
xúc, làm quen và hình thành những năng lực tự học ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trƣờng THPT, bƣớc đầu tạo dựng nền tảng cho việc học Đại học và

quá trình công tác suốt đời.
Từ thời xa xƣa, khi chƣa có chữ viết con ngƣời đã phải tự học bằng
cách ghi lại hình dạng trên lá cây, trên đá để đúc kết kinh nghiệm truyền lại
cho đời sau. Đến thời Khổng Tử, ông rất ý thức đƣợc tầm quan trọng của việc
tự học, ngày đêm miệt mài học tập, nghiên cứu, khám phá. Khổng Tử đã đi
khắp nơi trên đất nƣớc Trung Quốc để dạy học và đúc kết những bài học đó
thành sách. Ông đã dạy đƣợc 3000 học trò trong đó có đến 72 ngƣời nổi tiếng.
Khổng Tử là ngƣời đã chỉnh lí các sách nhƣ Kinh thi, Kinh lễ, Kinh thƣ, Kinh
nhạc. Có đƣợc thành quả đó là do ông luôn luôn học hỏi, tìm tòi, khám phá, tự
bồi dƣỡng bản thân và có cách học khoa học nhất. Khổng Tử cho rằng để việc
tự học đạt kết quả tốt nhất là phải biết học cái gì, học ở mọi nơi mọi lúc, ở mọi
ngƣời bằng ý chí và nghị lực cùng với niềm say mê.
Ở Việt Nam, những tấm gƣơng tự học đó là Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Bác Hồ… Theo Bác tự học chính là sự nỗ lực của bản thân ngƣời học,
sự làm việc của bản thân ngƣời học một cách có kế hoạch trên tinh thần tự
động học tập. Ngƣời từng nói: "Còn sống thì còn phải học".
Nhƣ vậy, tự học là khả năng tự tìm tòi, tự học hỏi, tự nghiên cứu những tài
liệu, những thông tin để biến tri thức của nhân loại thành tri thức của riêng mình
để tự phát triển trình độ, khả năng hiểu biết của mình về mọi lĩnh vực trong cuộc
sống: "Tự học, tự nghiên cứu là một quá trình, trong đó mỗi con người tự suy
nghĩ, tự sử dụng các năng lực trí tuệ và các phẩm chất của bản thân, tự khai thác
vận dụng những điều kiện vật chất có thể để biến kiến thức nào đó của người
khác để làm cho công việc của bản thân có hiệu quả hơn" [26].

18
Trong cuốn “Tự học như thế nào” của Rubakin, ông kết luận: "Hãy
mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình tìm lấy câu trả lời đó là phương
pháp tự học". Tự học không phải là xem sách mà phải biết so sánh cái viết
trong sách với thực tế cuộc sống.
Theo Giáo sƣ Nguyễn Cảnh Toàn: "Tự học là tự mình dùng các giác

quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng các năng lực trí tuệ
(quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp) và có khi cả cơ bắp (phải sử dụng
công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh được một lĩnh vực hiểu biết nào đó,
một số kỹ năng nào đó, một số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng
biến chúng thành sở hữu của mình. Phát minh ra cái mới cũng có thể coi là
một hình thức tự học cao cấp" [29,tr.407], và giáo sƣ chia làm 3 cấp độ học:
Một là tự học mà không có thầy hoặc có thầy nhƣng không gặp mặt
thầy trong phần lớn thời gian học tập.
Hai là tự học có hƣớng dẫn, tức là học không giáp mặt thầy nhƣng nhận
đƣợc sự giúp đỡ hƣớng dẫn chỉ bảo của thầy từ xa.
Ba là tự học, học mà không có thầy.
Giáo sƣ Nguyễn Cảnh Toàn quan niệm tự học là một quá trình con
ngƣời phải tự vƣơn lên để vƣợt qua chính mình, tự vận động với tất cả ý chí và
nghị lực, phẩm chất tƣ duy, phẩm chất nhân cách, tâm hồn, bản lĩnh văn hoá,
khát vọng và mục đích sống cao đẹp, tự biết so sánh, đối chiếu, phê bình và tự
phê bình, tự sửa chữa để chiếm lĩnh tri thức. Tự học phải diễn ra ở mọi lúc,
mọi nơi, trong bất cứ hoàn cảnh nào và thời gian nào. Hiệu suất công việc là
thƣớc đo chuẩn mực cho việc đánh giá hiệu quả tự học. Nhƣ vậy tự học vô
cùng đa dạng và phong phú.
Còn theo Nguyễn Kỳ, tự học của HS THPT có bốn đặc trƣng cơ bản:
Thứ nhất ngƣời HS phải biết tìm ra kiến thức bằng chính hành động của mình.
Thứ hai là ngƣời học tự thể hiện mình, đặt mình vào tình huống, tự trình bày
bảo vệ sản phẩm của mình, tỏ rõ thái độ của mình truớc những cƣ xử của môi
trƣờng xung quanh, tập giao tiếp với mọi ngƣời trong quá trình tìm ra tri thức.

19
Thứ ba ngƣời thầy là ngƣời tổ chức hƣớng dẫn cho HS tự nghiên cứu
tìm ra tri thức và thể hiện mình trƣớc tập thể, trƣớc cộng đồng. Nhƣng phải có
thầy là trọng tài cố vấn, kết luận trong các cuộc tranh luận đối thoại (thầy – trò

– trò - trò) để khẳng định tri thức do trò tìm ra.
Thứ tƣ là ngƣời học tự đánh giá, tự kiểm tra là kiến thức sau khi đã trao
đổi với bạn bè và dựa vào kết luận của thầy cô, tự mình sửa chữa, tự mình
điều chỉnh tự mình hoàn thiện và tự mình rút ra đƣợc kinh nghiệm về cách
học, cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình.
Từ các kết luận trên, vấn đề tự học của HS có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: HS tự phát hiện vấn đề, định hƣớng cách giải quyết vấn đề,
thu thập thông tin, xử lý thông tin và ghi lại những nghiên cứu ban đầu.
Giai đoạn 2: HS tự thể hiện đƣợc bằng văn bản, trình bày và bảo vệ
đƣợc ý kiến của mình, ghi lại những ý kiến của bạn bè thầy cô.
Giai đoạn 3: Biết so sánh đối chiếu các kết luận của thầy cô, bạn bè với
ý kiến của mình, tự sửa chữa điều chỉnh, tự rút ra kinh nghiệm và cách học,
cách xử lý tình huống, cách giải quyết vấn đề.
Có thể nói, tƣơng ứng với 3 giai đoạn tự học của HS là 3 giai đoạn dạy
tự học của GV:
Giai đoạn 1: Hƣớng dẫn HS thông qua những tình huống đề ra nhiệm vụ
học tập của HS.
Giai đoạn 2: Tổ chức các hoạt động trao đổi thảo luận, trình bày.
Giai đoạn 3: Làm trọng tài kiểm tra đánh giá nhận thức của HS.
Nhƣ vậy, kiến thức mà HS tự học không chỉ có trong SGK mà ở các
sách tham khảo, ở ngoài xã hội, ở mọi lúc mọi nơi. Để phát huy đƣợc nội lực
tự học của HS THPT thì vai trò nhiệm vụ của ngƣời HS là vô cùng quan trọng.
Ngƣời GV có nhiệm vụ hƣớng dẫn HS từ cách tự mình nghiên cứu đến cách
xử lý, điều chỉnh kiến thức mà các em nhận đƣợc đến sự biến đổi về chất là vô
cùng quan trọng. Qua đó ngƣời GV hình thành cho HS một kỹ năng tự học với
cách suy nghĩ tìm tòi để có thể tự đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề, tự nghiên

20
cứu. Những định hƣớng của ngƣời GV có tác dụng vô cùng to lớn là phát huy
tính năng động, sự tự giác và lòng ham mê học hỏi trong quá trình học tập của

học sinh.
Từ cách hiểu về năng lực tự học nhƣ trên, chúng ta có thể xác định đƣợc
năng lực tự học với HS THPT nhƣ sau: Trƣớc tiên, năng lực tự học luôn gắn
liền với hoạt động tích cực, chủ động của từng chủ thể HS mà chúng ta có thể
gọi là “tự mình”. Nói một cách chính xác hơn, năng lực nghiên cứu của HS
THPT có nghĩa là các em phải tự mình phát hiện kiến thức, tự mình nắm bắt
kiến thức và tự mình vận dụng kiến thức. Điều đó không chỉ có giá trị đối với
bản thân mà còn giá trị đối với xã hội, đối với nhân loại. Năng lực tự học đối
với HS THPT còn tạo ra sự biến đổi về mặt nhận thức mà thực chất là sự “biến
đổi về chất” đƣa lại một ý nghĩa lớn hơn là hình thành thói quen tự học với
những suy nghĩ tìm tòi để đặt vấn đề, tự giải quyết vấn đề. Đó là những hoạt
động có tác dụng rèn luyện, phát triển tƣ duy logic đồng thời cũng là một dấu
hiệu biểu đạt mức độ của sự phát triển trí tuệ.
Năng lực tự học của HS THPT là một hoạt động ở trình độ thấp với
những hình thức đơn giản, không giống với quá trình nhận thức của các nhà
khoa học. Thực chất năng lực tự học của HS THPT chủ yếu là nghiên cứu
những bài học cụ thể trong SGK, những tƣ liệu có liên quan để đối chiếu, so
sánh, mở rộng. Đây chính là những bƣớc đi đầu tiên, cơ bản tạo tiền đề cho
các em tiếp xúc với các hoạt động nghiên cứu ở mức độ cao hơn. Hơn nữa,
yêu cầu quan trọng đƣợc đặt ra trong quá trình học tập nhận thức của HS phải
phát huy một cách tối đa tính tích cực, độc lập, tự giác để nắm vững những tri
thức mà loài ngƣời đã và đang tích luỹ, phải biến nó thành tài sản, thành vốn
hiểu biết riêng của bản thân. Dù sau này, ở bất cứ địa vị nào trong xã hội đều
phải có kỹ năng tự học mới nắm bắt, chiếm lĩnh, và ứng dụng, xử lý khối
lƣợng tri thức khổng lồ của nhân loại.

×