Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Rèn kỹ năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh trung học phổ thông (vận dụng qua quá trình lịch sử thế giới cận đại lớp 10 chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 152 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





DOÃN THỊ HỒNG NHUNG



RÈN LUYỆN KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA
LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(VẬN DỤNG QUA KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI
CẬN ĐẠI LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ


CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
Mã số: 60 14 10


Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Côi


HÀ NỘI - 2012

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CMTS : Cách mạng tư sản
CNTB : Chủ nghĩa tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
HS : Học sinh
LS : Lịch sử
TBCN : Tư bản chủ nghĩa
THPT : Trung học phổ thông
GV : Giáo viên
SGK : Sách giáo khoa
KN : Kĩ năng



3
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1. Đất nước ta đang từng bước chuyển mình trên con đường thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác
định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội của Đại hội Đảng khóa XI đã nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt
Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ trách nhiệm công dân, có tri thức,
sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân
chính” [8, tr. 6].
Thực tế cho thấy trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay nếu
không giữ được bản sắc văn hóa dân tộc thì rất có thể bị “hòa tan”. Một dân
tộc không biết dựa vào lịch sử, xem nhẹ lịch sử thì không thể định hướng và

càng không thể tìm đâu là điểm tựa cho mình. Dù trong quá trình hội nhập,
khoa học kỹ thuật dần trở thành lực lượng sản xuất vật chất trực tiếp, song đất
nước muốn "hóa rồng" phải có điểm tựa văn hóa và lịch sử. Chính lịch sử và
văn hóa là kết cấu vững chắc, trở thành nội lực cho sự tồn tại và phát triển của
một dân tộc. Phải thấy, phải biết, phải thấu hiểu được những giá trị của lịch sử
thì dân tộc đó mới xây dựng được một chiến lược phát triển trong tương lai.
Như vậy lịch sử có tác dụng to lớn trong việc hun đúc cho thế hệ trẻ - những
chủ nhân tương lai của đất nước lòng tự tôn, tự hào dân tộc từ đó có thêm tinh
thần trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.
Để góp phần thực hiện mục tiêu chung của đất nước, bộ môn Lịch sử ở
trường phổ thông đã xác định mục tiêu cơ bản của mình là “cung cấp kiến
thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử phát triển hợp quy luật của dân tộc và xã
hội loài người, rèn luyện kĩ năng tư duy và thực hành qua học tập bộ môn.
Trên cơ sở đó giáo dục thái độ, tình cảm đúng với các sự kiện, nhân vật lịch

4
sử, bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào dân tộc, lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội” [23, tr. 69].
2. Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan
trong quá khứ. Vì vậy không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để
nhận thức lịch sử. Trong dạy học Lịch sử ở trường phổ thông, sách giáo khoa
có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó được xem là tài liệu học tập cơ bản giúp
HS nhận thức lịch sử. Sách giáo khoa Lịch sử cũng được coi là một công trình
nghiên cứu khoa học “Sách giáo khoa Lịch sử cũng như các Sách giáo khoa
của các môn học khác ở trường phổ thông là sự kết hợp của khoa học giáo
dục và khoa học cơ bản (sử học). Nó phải cung cấp cho HS những kiến thức
khoa học đạt được trình độ hiện đại nhất của việc nghiên cứu,… thể hiện
được mục tiêu, tính chất giáo dục” [11,tr. 25]. Do đó Chương trình giáo dục
phổ thông cấp THPT đã quy định phương pháp dạy học bộ môn phải “Tăng
cường năng lực làm việc với sách giáo khoa và tài liệu tham khảo, rèn luyện

năng lực tự học” [5, tr.541] .
Hiệu quả của việc dạy học lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào việc học sinh
biết làm việc với sách giáo khoa và nắm vững kiến thức chứa đựng trong nó.
Bởi lẽ sách giáo khoa có vai trò trong việc hình thành kiến thức mới, củng cố
ôn tập, và rèn luyện các kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh. Sách giáo khoa nói
chung, sách giáo khoa Lịch sử nói riêng là một nguồn kiến thức quan trọng
đối với học sinh trong học tập bộ môn.
3. Tuy nhiên thực trạng hiện nay cho thấy học sinh còn chưa biết cách
làm việc với sách giáo khoa một cách khoa học và hiệu quả. Các em còn lúng
túng trong việc sử dụng những kiến thức lịch sử được cung cấp trong sách
giáo khoa để khai thác kiến thức mới, củng cố ôn tập kiến thức cũ và tận dụng
sách giáo khoa làm nguồn tài liệu hỗ trợ trong kiểm tra đánh giá. Bên cạnh đó
giáo viên vẫn chưa chú ý rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sử dụng sách

5
giáo khoa trên lớp và ở nhà, do đó học sinh chưa nhận thức được tầm quan
trọng của sách giáo khoa lịch sử.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Rèn luyện kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh trung học phổ thông
(Vận dụng qua khóa trình lịch sử thế giới cận đại lớp 10 chương trình
chuẩn)” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do SGK có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống giáo dục
quốc dân nên từ lâu nó đã trở thành mối quan tâm của các nhà lý luận dạy
học, các nhà giáo dục và nhiều giáo viên. Cho tới nay đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về sách giáo khoa nói chung và sách giáo khoa Lịch sử nói
riêng liên quan đến đề tài:
2.1 Tài liệu nước ngoài viết về sách giáo khoa và phương pháp sử dụng
sách giáo khoa.
Phương pháp sử dụng sách giáo khoa đã được các nhà nghiên cứu giáo

dục tiến hành từ những năm 20 của thế kỉ XX. Đi đầu là những nghiên cứu
của các nhà giáo dục người Nga, Anh, Mĩ… Thông qua nguồn tài liệu dịch
thuật, chúng tôi đã tiếp cận được các công trình sau:
Có thể kể đến đầu tiên là M.N Xcatkin (1980) [29, tr. 28] cho rằng:
“Công việc với sách giáo khoa có thể là phương pháp giải thích minh họa
khi mà học sinh đọc sách giáo khoa, là phương tiện tái hiện khi mà học
sinh luyện tập theo một đoạn nào đó, là phương pháp nghiên cứu nếu học
sinh giải quyết theo sách giáo khoa những nhiệm vụ không phải là mẫu
quen biết đối với chúng”.
Hoặc T.A Ilina trong giáo trình “Giáo dục học” đã đề cập và đánh giá
phương pháp làm việc với sách giáo khoa. Tác giả cho rằng đây là phương
pháp dạy học có nhiều ưu điểm: “Vấn đề mở rộng phạm vi học tập của học
sinh theo sách và tài liệu tham khảo xem như là phương tiện để học sinh độc

6
lập thu nhận các kiến thức trong nhà trường và để chuẩn bị cho họ tự bồi
dưỡng và học tập ở các trường đại học và chuyên nghiệp là vấn đề rất bức
thiết” [36,tr. 80]. Tác giả đã khái quát quá trình làm việc của học sinh với
sách giáo khoa thành quy tắc: xem qua những gì ghi chép, đồng thời nhớ lại
những điều giảng giải của giáo viên, nếu tài liệu không giảng trong lớp thì
đọc tất cả tài liệu cần đọc trong sách giáo khoa nhằm mục đích nắm toàn bộ
nội dung, để phân tích những chỗ khó Sau khi nắm vững tài liệu lý thuyết
học sinh bắt tay vào làm bài tập viết. [36, tr. 83].
Đặc biệt phải kể đến cuốn “Phát huy tính tích cực của học sinh như thế
nào” của I.F.Kharlamov đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể và đề xuất “nhiều
phương án trong công tác tự lực với sách giáo khoa”. Trong đó ông đã lí giải
những vấn đề quan trọng như: giáo viên ít chú ý dạy cho học sinh kĩ xảo làm
việc với sách giáo khoa thì sẽ dẫn tới hiện tượng học sinh học vẹt ít chuẩn bị
bài ở nhà, không biết nêu những vấn đề chủ yếu của bài học trong sách giáo
khoa [34, tr. 39-40]; hay tại sao đọc sách giáo khoa sau khi nghe giáo viên

giảng bài lại là phương tiện quan trọng để phát huy tính tích cực hoạt động tư
duy của học sinh để hiểu và lĩnh hội sâu sắc hơn đề tài mới; hoặc đưa ra các
phương pháp có thể áp dụng được khi học sinh nghiên cứu sách giáo khoa
trong giờ lên lớp. Ngoài ra trong tác phẩm của mình ông cũng nhấn mạnh vai
trò của việc nghiên cứu sách giáo khoa trong giờ lên lớp của học sinh và nhấn
mạnh việc giáo viên tổ chức đúng đắn cho học sinh làm việc với sách giáo
khoa trong tiếp thu kiến thức mới và ôn tập kiến thức cũ: “Việc tổ chức một
cách đúng đắn cho học sinh nghiên cứu sách giáo khoa có ý nghĩa to lớn trong
việc lĩnh hội những kiến thức vững chắc và sâu sắc và vận dụng chúng trong
thực tiễn. Dưới dạng này hay dạng khác việc học sinh nghiên cứu sách giáo
khoa phải có một vị trí trong mỗi giờ lên lớp…” [34, tr. 63]. Như vậy có thể
thấy I.F.Kharlamov rất đề cao vai trò của giáo viên trong tổ chức cho học sinh
các hoạt động học tập với sách giáo khoa.

7
Giáo sư tiến sĩ giáo dục học B.P.Exipốp trong giáo trình “Những cơ sở
lí luận dạy học tập II” cũng đã đề cập đến ý nghĩa của việc đọc sách ngoài giờ
lên lớp, ý nghĩa của việc làm việc với tranh ảnh minh họa trong sách: “giúp
học sinh hiểu sâu hơn và lĩnh hội rành mạch, vững chắc nội dung của lời văn
vì tranh minh họa tạo ra ở học sinh những biểu tượng nhất định….” [4,
tr.180], trong đó tác giả cũng nhấn mạnh: “đòi hỏi một sự kết hợp đúng đắn
giữa sự chỉ đạo của giáo viên và tính tự lập của học sinh” [4, tr.182].
Đặc biệt trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào” [28] của tiến
sĩ N.G.Đairi, cuốn sách này được xuất bản năm 1969 ở Mát-xcơ-va đã có một
tiếng vang rất lớn, được các cán bộ giáo viên Lịch sử Liên Xô ưa thích và được
xuất bản ở Hà Nội vào năm 1973. Trong đó N.G.Đairi đã trình bày với độc giả
một vấn đề rất quan trọng của việc dạy và học bộ môn Lịch sử: vấn đề giờ học
lịch sử. Cái mới của cuốn sách này ở chỗ tác giả đã đề ra phương thức giải quyết
giờ học lịch sử theo hướng mới của lý luận dạy học Xô Viết: chuẩn bị giờ học
nhằm phát huy óc suy nghĩ độc lập và tính tích cực trong hoạt động nhận thức

của học sinh. Đặc biệt để một giờ học có hiệu quả và phát huy được suy nghĩ
độc lập của học sinh, tác giả đã quan tâm đến vị trí, vai trò của sách giáo khoa và
sử dụng sách giáo khoa như thế nào cho có hiệu quả trong giờ học lịch sử. Trên
cơ sở đó ông đưa ra sơ đồ xác định vị trí của sách giáo khoa với tài liệu khác,
giữa vị trí của bài giảng và bài viết của sách giáo khoa để có thể khai thác tốt nội
dung sách giáo khoa trong một giờ học của giáo viên và học sinh.
Tóm lại, nhiều tác giả đã khẳng định tầm quan trọng của sách giáo
khoa và tầm quan trọng của việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử
sao cho có hiệu quả trong việc tiếp thu kiến thức mới hoặc ôn tập kiến thức
cũ.
2.2 Tài liệu trong nước viết về sách giáo khoa và phương pháp sử dụng
sách giáo khoa.

8
Trong cuốn “Giáo dục học tập I” của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt đã
trình bày ý nghĩa của việc sử dụng sách giáo khoa: “Nếu sử dụng đúng
phương pháp, sách sẽ có tác dụng lớn như: mở rộng, đào sâu vốn hiểu biết
của mình một cách có hệ thống và sinh động, rèn luyện kĩ năng thói quen sử
dụng sách giáo khoa, bồi dưỡng vốn ngữ pháp, kinh nghiệm viết văn, óc nhận
xét, phê phán bồi dưỡng hứng thú học tập, tình cảm và tư tưởng”. [30, tr. 32]
Bên cạnh đó một số tác giả như Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức trong
cuốn “Hoạt động dạy học ở trường THCS” [12]; “Giáo dục học đại cương”
của tác giả Phạm Viết Vượng [39],… không chỉ đề cập đến vị trí vai trò của
sách giáo khoa mà còn đề cập các kĩ năng làm việc với sách giáo khoa như kĩ
năng đọc, kĩ năng ghi chép, kĩ năng phân tích hình vẽ, biểu đồ,…
Giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” dùng cho các trường sư
phạm xuất bản vào các năm 1966, 1976, 1992, 1998, 2002 đã đề cập đến vấn
đề sử dụng sách giáo khoa để phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy
học lịch sử. Tuy nhiên trong những lần xuất bản đầu các tác giả mới đề cập
khái quát qua về vị trí của sách giáo khoa lịch sử và phương pháp sử dụng

trong đó chủ yếu là các phương pháp giáo viên chú ý khi sử dụng sách giáo
khoa dựa theo sơ đồ Đai-ri. Đặc biệt trong lần xuất bản gần đây nhất vào năm
2002 và tái bản có sửa chữa bổ sung năm 2009, các tác giả mới trình bày rõ
hơn về vị trí, ý nghĩa của sách giáo khoa trong dạy học lịch sử ở trường phổ
thông, về cấu tạo của sách giáo khoa Lịch sử và phương pháp sử dụng cho
giáo viên và học sinh, đồng thời nhấn mạnh đến việc tự học của học sinh
thông qua làm việc với sách giáo khoa.
Cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường THCS” do
PGS.TS Trịnh Đình Tùng làm chủ biên, cũng đã quy phương pháp sử dụng
sách giáo khoa vào nhóm các phương pháp phát triển năng lực nhận thức,
trong đó tác giả đã giành một chương của cuốn sách để nói về vị trí, ý nghĩa
và phương pháp sử dụng sách giáo khoa trong đó tác giả xác định sách giáo

9
khoa là tài liệu học tập cơ bản của học sinh nhưng đồng thời là “điểm tựa để
người giáo viên xác định kiến thức cơ bản, xác định của kĩ năng cần hình
thành cho học sinh trong giờ học, là sự gợi ý để lựa chọn phương pháp dạy
học phù hợp với đối tượng, vừa phát huy tính tích cực hoạt động học tập của
học sinh”. [32, tr. 112]
Đặc biệt gần đây nhất có cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm
môn Lịch sử” do GS.TS Nguyễn Thị Côi chủ biên, được coi như là kim chỉ
nam cho sinh viên – giáo viên bộ môn có hướng đi đúng đắn trong quá trình
trau dồi kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành hẳn
một chương nói về việc rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa trong dạy
học lịch sử cho sinh viên. Tác giả đã tiếp tục góp phần khẳng định vai trò, ý
nghĩa, tầm quan trọng của sách giáo khoa Lịch sử, đồng thời tác giả cũng đề
xuất các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa của giáo viên ở trường phổ thông và
việc sử dụng sơ đồ Đairi. Trong đó đối với giáo viên, tác giả đưa ra 4 kĩ năng
rèn luyện cơ bản giúp giáo viên sử dụng tốt sách giáo khoa là: kĩ năng khai thác
bài viết của sách giáo khoa, kĩ năng sử dụng kênh hình, kĩ năng sử dụng các

câu hỏi, kĩ năng hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa trên lớp và ở nhà.
Bên cạnh đó, tác giả còn có những bài viết liên quan đến sách giáo
khoa được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như bài viết “Về sách giáo
khoa Lịch sử PTTH (chương trình cải cách)” của GS.TS Nguyễn Thị Côi trên
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3/1993, tr.25.
Ngoài ra vấn đề SGK và sử dụng SGK cũng được bàn luận nhiều trong
các tạp chí như: tạp chí Giáo dục và thời đại, Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Dạy
và học ngày nay, Nghiên cứu giáo dục,…Có thể kể đến như bài viết “Về cấu
trúc và yêu cầu biên soạn sách giáo khoa môn lịch sử THCS” của PGS.TS.
Nguyễn Hữu Chí trên tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 4/2000 tr. 8, “Rèn luyện
cho học sinh kĩ năng làm việc với tài liệu học tập” của tác giả Nguyễn Gia
Cầu trên tạp chí Giáo dục số 177/2007…

10
Đặc biệt cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học sách giáo khoa trong xã hội
hiện đại (NXB Giáo dục) năm 2004 với tập hợp hơn 20 bài viết về sách giáo
khoa với nhiều tác giả hàng đầu trong ngành. Các tác giả đều đánh giá cao
vai trò, ý nghĩa của sách giáo khoa trong dạy học ngày nay, trên cơ sở đó
đề xuất sử dụng sách giáo khoa để đổi mới phương pháp dạy học như bài
viết “Sách giáo khoa góp phần đổi mới phương pháp dạy học” của PGS.TS
Nguyễn Hữu Chí,…
Ngoài ra còn có những bài viết có liên quan đến phương pháp hình
thành kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cho các môn học khác như: bài viết
“Phương pháp hình thành kĩ năng sử dụng sách giáo khoa địa lí cho học sinh
cấp II” trên tạp chí Thông báo khoa học số 3/1994 tr. 65, “Quá trình tổ chức
các hoạt động học tập cho học sinh THPT theo hướng rèn luyện kĩ năng làm
việc với sách giáo khoa trong dạy học sinh học” của Th.S Nguyễn Hữu Duân
trên tạp chí Giáo dục số 211/2009 tr. 48-49,…
Bên cạnh đó việc nghiên cứu sách giáo khoa và phương pháp sử dụng
sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông còn được trình bày trong luận án

tiến sĩ như:
Luận án tiến sĩ Giáo dục học, truờng Đại học Sư phạm Hà Nội của
Nguyễn Duân “Sử dụng phương pháp làm việc với sách giáo khoa để tổ chức
hoạt động học tập của học sinh trong dạy học sinh học ở THPT”
Luận án tiến sĩ Giáo dục “SGK lịch sử ở trường THPT Việt Nam từ
năm 1954 đến nay” của tác giả Phạm Thị Kim Anh.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn thạc sĩ và khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên khoa sử trường Đại học sư phạm Hà Nội như:
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục: “Rèn luyện kĩ năng tự học với
SGK cho HS trong dạy học Lịch sử thế giới cận đại lớp 10- THPT (chương
trình chuẩn)” của tác giả Phạm Thị Hải Vân, “Sử dụng SGK nhằm phát huy
tính tích cực của HS trong dạy học lich sử lớp 10 trường THPT tỉnh Lào Cai”

11
của tác giả Lê Quý Toàn hoặc luận văn của tác giả Lương Thị Mai với
“Hướng dẫn HS lớp 12 THPT sử dụng SGK Lịch sử trong giờ lên lớp”
Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Đức Hạnh (k45 1995-1999)
“Nâng cao hiệu quả sử dụng sách giáo khoa và sách giáo viên trong dạy học
lịch sử ở trường THPT”, khóa luận “Một số biện pháp hình thành kĩ năng sử
dụng SGK cho học sinh trong học tập môn Lịch sử lớp 10 PTTH” của tác giả
Nguyễn Thị Phương Thanh,…
Qua đó chúng ta thấy rằng những ý kiến viết về sách giáo khoa rất phong
phú với nhiều hình thức khác nhau. Song việc vận dụng lý luận về việc rèn luyện
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cho học sinh còn ít. Hầu hết các luận văn mới
quan tâm tới việc sử dụng sách giáo khoa sao cho có hiệu quả trong bài dạy, mà
chưa đề cập nhiều đến vấn đề rèn luyện kĩ năng cho học sinh.
Các công trình nghiên cứu trên là những gợi ý quý báu về lý luận và
cách vận dụng giúp chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài Rèn luyện kĩ năng sử
dụng sách giáo khoa lịch sử cho học sinh THPT (vận dụng qua khóa trình
lịch sử thế giới cận đại lớp 10 chương trình chuẩn).

3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Quá trình sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử lớp 10 THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận văn không đi sâu nghiên cứu về SGK mà tập trung vào nội dung
rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng SGK, vận dụng vào khóa trình lịch sử thế
giới cận đại lớp 10 THPT (chương trình chuẩn)
Luận văn tiến hành điều tra thực tiễn một số trường THPT tại thành
phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh như: THPT Hòn Gai, THPT dân lập Văn
Lang, THPT Chuyên Hạ Long… và tiến hành thực nghiệm sư phạm tại
trường THPT Chuyên Hạ Long.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
4.1. Mục đích nghiên cứu.

12
Trên cơ sở khẳng định tầm quan trọng của SGK Lịch sử, đề tài đi sâu tìm
hiểu nội dung các kĩ năng sử dụng SGK cần rèn luyện cho học sinh và đề xuất
một số biện pháp rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử.
4.2. Nhiệm vụ.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:
- Tìm hiểu qua các nguồn tài liệu tâm lý, giáo dục, giáo dục Lịch sử để
xác định những căn cứ khoa học giúp cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10 THPT (chương
trình chuẩn).
- Điều tra, đánh giá thực trạng việc hướng dẫn học sinh sử dụng sách
giáo khoa của giáo viên và thực trạng học sinh sử dụng sách giáo khoa.
- Tìm hiểu chương trình và SGK Lịch sử lớp 10 – phần Lịch sử thế giới
Cận đại, từ đó xác định nội dung các kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cơ bản
của học sinh trong học tập lich sử.

- Đề xuất một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
lịch sử cho học sinh THPT trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10
(chương trình chuẩn).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng các biện pháp sư
phạm đã đề xuất, trên cơ sở đó rút ra kết luận về tính khả thi của các biện
pháp sư phạm đưa ra.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở phương pháp luận.
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường
lối của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

13
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học giáo dục sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Nghiên cứu các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Bộ Giáo dục &
Đào tạo về thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, nghiên cứu các
tài liệu về tâm lý học, giáo dục học và giáo dục lịch sử về phương pháp dạy
học, phương pháp sử dụng sách giáo khoa nói chung và trong dạy học bộ môn
lịch sử, phương pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa cho học sinh
THPT nói riêng.
+ Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa lịch sử THPT và các tài liệu
lịch sử có liên quan để xác định kiến thức, kĩ năng, thái độ cần đạt của học sinh.
- Phương pháp điều tra:
Điều tra thực trạng sử dụng sách giáo khoa của giáo viên và học sinh,
điều tra thực trạng giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa lịch
sử, điều tra một số kĩ năng sử dụng sách giáo khoa của học sinh, thông qua sử
dụng phiếu điều tra, phỏng vấn, trao đổi với giáo viên và học sinh để có được

kết quả xác thực.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Dự giờ một số tiết dạy của giáo viên
để tìm hiểu thực trạng giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng sách giáo khoa
lịch sử hiện nay và dự giờ một số tiết dạy thực nghiệm để đánh giá tính khả
thi, đánh giá kết quả thực nghiệm.
- Thực nghiệm sư phạm: soạn một bài học cụ thể thể hiện những đề
xuất của đề tài về các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa lịch
sử cho học sinh và tiến hành thực nghiệm sư phạm.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý các kết quả
thực nghiệm.
6. Giả thuyết khoa học và đóng góp của luận văn
6.1. Giả thuyết khoa học.

14
Thực tiễn hiện nay cho thấy việc sử dụng sách giáo khoa lịch sử ở
trường THPT còn nhiều hạn chế. Vì vậy nếu sử dụng các biện pháp rèn luyện
kĩ năng sử dụng sách giáo khoa theo những yêu cầu luận văn đưa ra sẽ góp
phần nâng cao chất lượng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông.
6.2 Đóng góp của luận văn
- Tiếp tục khẳng định vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử cho học sinh THPT.
- Phác họa một bức tranh về thực trạng việc cần rèn luyện cho HS kĩ
năng sử dụng SGK trong dạy học LS ở trường Phổ thông.
- Đề xuất được một số biện pháp hướng dẫn rèn luyện kĩ năng sử dụng
sách giáo khoa Lịch sử cho học sinh THPT.
7 . Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Góp phần làm phong phú thêm lý luận và phương pháp dạy học bộ môn
về phương pháp sử dụng sách giáo khoa Lịch sử.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Giúp cho bản thân và đồng nghiệp có khả năng vận dụng những lý
luận đã nghiên cứu trong dạy học lịch sử ở trường THPT nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng dạy học bộ môn
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo luận văn gồm có
2 chương chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hướng dẫn rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dọng sách giáo khoa trong dạyy học lịch sử ở trường
THPT.
Chương 2: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới cận đại lớp 10 THPT (chương
trình chuẩn).

15
***

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN CHO
HỌC SINH KĨ NĂNG SỬ DỤNG SÁCH GIÁO KHOA TRONG DẠY
HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.1. Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1. Quan niệm
1.1.1.1.Quan niệm về kĩ năng
Về kĩ năng, các tài liệu tâm lý học và giáo dục học trong và ngoài nước
đã có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt “Kĩ năng là khả năng vận dụng những
kiến thức đã nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế”
[40, tr. 501].
- Theo V.A Krutetxki kĩ năng là phương thức thực hiện hành dộng đã

được con người nắm vững, chỉ cần nắm vững phương thức hành động là con
người có kĩ năng [41, tr. 78]
- N.D. Lêvitốp cho rằng kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành
động nào đó, hoặc một hành động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp
dụng những cách thức đúng đắn có tính lý thuyết về hành động mà phải biết
vận dụng vào thực tế [43, tr. 3].
- Theo K.K.Platônốp, G.G. Côluvep thì kĩ năng là năng lực của con
người thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong
những điều kiện và trong những khoảng thời gian tương ứng. Bất kì một kĩ
năng nào cũng bao hàm trong nó cả biểu tượng về khái niệm, vốn tri thức, kỹ
xảo,… Cơ sở tâm lý của kĩ năng là sự hiểu biết về mối quan hệ qua lại giữa
mục đích hoạt động, các điều kiện và phương thức thực hiện. [44, tr. 77]

16
- Kĩ năng là những khả năng vận dụng những tri thức thu nhận được
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn [15, tr. 23].
- Kĩ năng là sự thực hiện có kết quả một hành động bằng cách vận dụng
những tri thức, kinh nghiệm về hành động này để tiến hành phù hợp với
những điều kiện cho phép, vì vậy kĩ năng không chỉ là mặt kĩ thuật của hành
động mà còn biểu hiện năng lực của chủ thể [27, tr. 83]. Trên cơ sở đó các tác
giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc, Đinh Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính đã đưa ra khái
niệm về kĩ năng học tập: “kĩ năng học tập là sự thực hiện có kết quả các hành
động phân tích, mô hình hóa, khái quát hóa các đối tượng nhận thức… bằng
cách vân dụng những tri thức kinh nghiệm về hành động này để tiến hành phù
hợp với những điều kiện cho phép”.
- Kĩ năng là khả năng vận dụng kiến thức (khái niệm, cách thức,
phương pháp,…) để giải quyết nhiệm vụ mới [21, tr. 80]
Như vậy trong tâm lý học kĩ năng được xem xét theo hai khuynh
hướng:
Khuynh hướng thứ nhất xem xét kĩ năng là góc độ kĩ thuật của hành

động. Theo các tác giả chỉ cần nắm vững cách thức của hành động là có kĩ
năng. Tiêu biểu cho quan niệm này là các nhà nghiên cứu A.G Kovaliop,
V.V.Isebưseva (Liên Xô), V.A Krutetxki,Trần Trọng Thuỷ,…
Khuynh hướng thứ hai xem xét kĩ năng nghiêng về mặt năng lực của
con người. Đại diện cho nhóm này là Kharlamop [34], X.I Kixegop, N.D.
Lêvitốp, K.K.Platônốp, G.G. Côluvep, Ngô Công Hoàn, Nguyễn Quang
Uẩn, Theo quan niệm này kĩ năng vừa có tính ổn định lại có tính mềm dẻo,
tính linh hoạt và tính mục đích.
- GS Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư
phạm Lịch sử” cho rằng: người có kĩ năng về một hành động nào đó là người
phải có: tri thức về hành động (gồm mục đích, cách thức thực hiện hành động,
các điều kiện thực hiện hành động), thực hiện hành động đúng với yêu cầu

17
của nó, đạt được hiệu quả của hành động như mục đích đã đặt ra, có thể hành
động đạt kết quả với những hành động tương tự trong những điều kiện khác
nhau. Trên cơ sở đó tác giả rút ra kết luận: “Có thể hiểu kĩ năng là sự thực
hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức,
những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho
phép” [10, tr.15].
Từ các quan niệm trên có thể hiểu kỹ năng là sự thực hiện của con
người một cách có hiệu quả một hành động nào đó bằng cách lựa chọn những
cách thức hành động phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện nhằm đạt được mục
tiêu đã đề ra.
1.1.1.1 Quan niệm về rèn luyện kĩ năng
Theo từ điển Tiếng Việt: Rèn luyện là luyện tập nhiều trong thực tế để
đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo.
Bản thân chúng ta sinh ra chưa có kỹ năng về một khía cạnh cụ thể
nào (trừ kĩ năng bẩm sinh) nhất là kỹ năng công việc. Do đó nền tảng của
sự thành công trong cuộc sống là do 98% được đào tạo và tự đào tạo kỹ

năng, chỉ có 2% là kỹ năng bẩm sinh tham gia vào sự thành công của
chúng ta. Vì thế Êđixơn đã nói thiên tài là 1% trí thông minh cộng với 99%
mồ hôi và nước mắt.
Trong học tập “GV phải tạo cơ hội cho HS được thụ hưởng một cách
tích cực, tự giác nội dung dạy học, giáo dục và được hình thành vững chắc
một số kĩ năng cơ bản. Một số kĩ năng cơ bản đó sẽ gắn bó chặt chẽ với họ
trong suốt cuộc đời và làm cơ sở nền tảng cho sự thành công trong sự nghiệp
của họ.” [44, tr. 15]. Điều đó có nghĩa là để HS có được các kĩ năng, GV phải
có các bước hướng dẫn cụ thể với từng kĩ năng, sau đó HS phải được thực
hành với từng kĩ năng và các kĩ năng sẽ trở nên thuần thục khi các em thường
xuyên được luyện tập, được sử dụng.

18
Các tài liệu tâm lý học và giáo dục học đã khẳng định, một kĩ năng
hành động nào đó được hình thành phải trải qua nhiều giai đoạn:
Trước hết, là sự nhận thức đầy đủ về mục đích, cách thức và điều kiện
hành động. Đây là giai đoạn quan trọng, vì nếu không xác định được mục
đích sẽ không có hướng hành động và khó có thể nắm được cách thức hành
động để đạt được kết quả mong muốn. Đồng thời với việc nhận thức mục
đích, cần phải nắm vững các bước, các thao tác thực hiện hành động. Việc
lĩnh hội này có thể do con người tự học, cũng có thể do người khác hướng
dẫn. Tuy nhiên việc hình thành kiến thức ở giai đoạn này mới chỉ là tiếp nhận
lý thuyết chứ chưa hành động thực sự nên chưa thể nói là đã có kĩ năng.
Nhưng nếu không có bước này thì người học phải lần mò, khó hoàn thành
công việc có hiệu quả và mất nhiều thời gian.
Tiếp theo là giai đoạn GV làm mẫu bằng các ví dụ minh họa cụ thể qua
các tiết học, bài học, HS “quan sát mẫu” và “làm thử theo mẫu”. Công việc
này giúp các em thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt động, xem
hoạt động có những ưu và nhược điểm như thế nào cần phát huy, cần sửa
chữa và củng cố tri thức đã nắm. Ở giai đoạn này, việc làm thử ngắn hay dài

phụ thuộc vào năng lực của mỗi HS.
Cuối cùng, sau khi làm thử để nắm chắc cách làm, người học phải thực
hành và luyện tập nhiều lần. Ở giai đoạn này, các thao tác, các bước thực hiện
hành động dần dần được chính xác hơn. Đồng thời các tri thức và cách thức
hành động được ôn luyện làm cho người học nắm chắc hành động hơn. Đến
đây có thể nói kĩ năng đã được hình thành song chưa hoàn toàn ổn đinh. Kĩ
năng thực sự ổn định chỉ khi trong điều kiện khác con người hành động vẫn
đạt kết quả. Đồng thời trong giai đoạn này GV phải thường xuyên kiểm tra và
uốn nắn kịp thời.
Việc luyện tập đạt kết quả cao hay thấp phụ thuộc nhiều yếu tố, trong
đó sự nỗ lực của người học giữ vai trò quyết định. Bên cạnh việc chỉ ra những

19
điều kiện hình thành kĩ năng, các nhà tâm lý học, giáo dục học cũng khẳng
định: muốn hình thành kĩ năng người học phải hiểu đầy đủ về hành động, phải
thường xuyên luyện tập, có sự kiểm tra và tự kiểm tra, có tính tự giác trong
làm việc.
Như vậy rèn luyện kĩ năng học tập là rèn luyện cho học sinh một hệ
thống thao tác nhằm làm biến đổi đối tượng và làm sáng tỏ những thông tin
trong nhiệm vụ học tập, đối chiếu chúng với hành động cụ thể.
Để rèn luyện cho HS các kĩ năng sử dụng SGK Lịch sử trong học tập,
GV cần phải tuân thủ các bước hình thành kĩ năng trên và cần rèn luyện
những kĩ năng cơ bản phù hợp với đặc trưng bộ môn như: kĩ năng ghi nhớ
kiến thức (ghi nhớ, tái hiện, nhớ lại, ), kĩ năng tư duy (phân tích, so sánh,
tổng hợp, đánh giá các sự kiện lịch sử) , kĩ năng tự ôn tập và kiểm tra đánh
giá kết quả nhận thức… Những kĩ năng trên vừa thực hiện được ở lớp, ở nhà
và các hoạt động ngoại khóa. Vì vậy trong quá trình dạy học GV phải quan
tâm và thực hiện các bước rèn luyện kĩ năng cho HS.
1.1.1.2 . Quan niệm về sách giáo khoa nói chung, sách giáo khoa Lịch sử nói
riêng.

Quan niệm về sách giáo khoa nói chung.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về sách giáo khoa, nhưng tựu
chung lại có những quan niệm chính và cơ bản sau đây:
- I.F Kharlamốp quan niệm: “Sách giáo khoa và tài liệu học tập phải trở
thành một trong những nguồn chủ yếu cung cấp kiến thức và là phương tiện
quan trọng của việc tổ chức công tác tự lập của học sinh trong giờ học” [34,
tr. 36]
- Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Sách giáo khoa là sách biên soạn theo
chương trình dạy học ở các trường học” [40, tr. 813]
- Quan niệm về sách giáo khoa được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục:
“sách giáo khoa do bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cở

20
thẩm định của Hội đồng quốc gia để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định
trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác” [45, tr. 35]
- Tổ chức Unessco đã từng nhấn mạnh: “Sách giáo khoa là một trong
ba yếu tố quyết định nhất đến chất lượng của một quốc gia bên cạnh yếu tố
giáo viên và hệ thống tổ chức giáo dục, hệ thống chương trình”
- Theo PGS. TS. Nguyễn Hữu Chí – Viện Khoa học giáo dục [7] cho
rằng: “Sách giáo khoa cụ thể hóa những quy định của chương trình về mục
tiêu bộ môn, về phạm vi, số lượng và mức độ của các đơn vị kiến thức. Là tài
liệu làm việc của học sinh, sách giáo khoa thể hiện cụ thể định hướng phương
pháp dạy học của chương trình, thể hiện các dạng phong phú khác nhau của
tài liệu học tập, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ
môn học”
- Trong cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học về Sách giáo khoa trong xã hội
hiện đại đã đưa ra rất nhiều quan niệm khác nhau về sách giáo khoa như:
PGS.TS Trần Đức Tuấn [16, tr. 5] cho rằng: Sách giáo khoa là một
trong những đầu vào quan trọng bậc nhất của giáo dục, nội dung sách giáo
khoa phản ánh các tư tưởng cơ bản về văn hóa của các dân tộc và thường là

điểm khởi đầu cho các cuộc tranh luận và bàn cãi về văn hóa
PGS.TS Khoa học Nguyễn Bảo Hoàn [16, tr. 28-33] đưa ra khái niệm:
Sách giáo khoa là loại sách dùng riêng cho các trường phổ thông, là phương
tiện dạy học đặc biệt do bộ GD & ĐT tổ chức biên soạn, thẩm định, duyệt và
được sử dụng chính thức nhất, ổn định trong giảng dạy và học tập ở nhà
trường và các cơ sở giáo dục khác nhằm thực hiện những mục tiêu cơ bản của
giáo dục phổ thông.
PGS TS. Vũ Văn Thành [16, tr. 54] đã định nghĩa: Sách giáo khoa là
quyển sách quy định nội dung cơ bản của môn học trong chương trình, dựa
vào đấy giáo viên dạy cho học trò phương pháp củng cố và phát triển kiến
thức, tiếp tục học tập để làm việc có hiệu quả.

21
Tóm lại, sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập của học sinh,
được biên soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác
định. Sách giáo khoa phải thể hiện những yêu cầu, nội dung của chương trình.
Vì vậy kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa không chỉ đáp ứng tính
khoa học mà còn phải mang tính giáo dưỡng và giáo dục.
Như vậy có thể hiểu sách giáo khoa chính là chương trình đã được cụ
thể hóa thành tài liệu dạy học ở nhà trường phổ thông.
Quan niệm về sách giáo khoa Lịch sử:
Theo GS Nguyễn Thị Côi thì: “Sách giáo khoa Lịch sử cũng như các
sách giáo khoa của các môn học khác ở trường phổ thông là sự kết hợp của
khoa học giáo dục và khoa học cơ bản (sử học). Nó phải cung cấp cho học
sinh những kiến thức khoa học đạt được trình độ hiện đại nhất của việc
nghiên cứu, được công nhận, phù hợp với trình độ, yêu cầu của học sinh, thể
hiện được mục tiêu, tính chất giáo dục” [9].
Sách giáo khoa lịch sử được biên soạn bao gồm những tri thức phổ
thông cơ bản, hiện đại về lịch sử dân tộc cũng như lịch sử thế giới trong suốt
quá trình phát triển. Nói cách khác sách giáo khoa Lịch sử là tài liệu cụ thể

hóa chương trình môn học do Nhà nước quy định, được biên soạn theo
chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định, trong đó phải
thể hiện được mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học. Có nhiều
nguồn thông tin về lịch sử đến với học sinh song những kiến thức lịch sử trình
bày trong sách giáo khoa là những kiến thức đảm bảo tính khoa học, tính tư
tưởng và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh từng lớp, từng cấp học.
Nội dung sách giáo khoa không hề đề cập đến phương pháp dạy học, nhưng
cấu tạo, hình thức trình bày của nó là những gợi ý quan trọng và cần thiết để
giáo viên và học sinh lựa chọn phương pháp dạy học.
Sách giáo khoa cũng là một công trình nghiên cứu khoa học, chủ yếu là
khoa học giáo dục, nó tuân theo những yêu cầu nhất định sau:

22
Về nội dung: sách giáo khoa cập nhật được trình độ hiện đại của khoa
học lịch sử và khoa học giáo dục trong nước cũng như nước ngoài. Sách giáo
khoa lịch sử hiện nay phản ánh được những nghiên cứu khoa học mới nhất
đồng thời đã được công nhận (những vấn đề còn đang tranh luận thì không
đưa vào sách giáo khoa).
Về kiến thức: sách giáo khoa cần đảm bảo tính toàn diện tức là phản
ánh đầy đủ mọi mặt sinh hoạt của xã hội loài người và dân tộc từ kinh tế,
chính trị, văn hóa tư tưởng cho đến lịch sử đấu tranh,… Những sự kiện lịch sử
thế giới và lịch sử Việt Nam được trình bày theo thứ tự lịch đại theo quan hệ
đồng đại.
Về mặt giáo dục: sách giáo khoa biên soạn theo quan điểm của sử học
Mác xít về quy luật phát triển của xã hội, về vai trò của quần chúng nhân dân
lao động… trong lịch sử.
Về mặt sư phạm: nội dung sách giáo khoa phải phù hợp với trình độ
nhận thức và đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh. Hình thức trình bày phải rõ
ràng, hấp dẫn tránh liệt kê sự kiện, niên đại, khái niệm phức tạp,…
Về cơ bản sách giáo khoa lịch sử khi được biên soạn cũng phải tuân thủ

những nguyên tắc cơ bản như: đảm bảo tính chính xác khoa học, tôn trọng
lịch sử khách quan song trong biên soạn tác giả sách giáo khoa Lịch sử luôn
giữ vững quan điểm chính trị, thể hiện nguyên tắc đồng tâm kết hợp với
đường thẳng, thể hiện được tính sư phạm… [25, tr. 29-31]
Từ quan niệm về SGK nói chung và SGK Lịch sử nói riêng trên đây,
chúng ta có thể thấy rằng sách giáo khoa có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong dạy học nói chung cũng như trong dạy học lịch sử nói riêng. Sách
giáo khoa lịch sử không chỉ là nguồn tài liệu cung cấp cho học sinh những
kiến thức lịch sử cơ bản, chính xác, khoa học mà còn là phương tiện để các
em tự tổ chức các hình thức học tập phù hợp với khả năng nhận thức.
1.1.1.3 Quan niệm về kĩ năng sử dụng sách giáo khoa.

23
Theo từ điển Tiếng Việt “sử dụng” nghĩa là đem dùng vào mục đích
nào đó [40, tr. 845]
N.V. Kuzơmina chia kĩ năng học tập thành 5 nhóm chính [dẫn theo
Nguyễn Duân, 14]: (1) Nhóm kĩ năng nhận thức, (2) Nhóm kĩ năng thiết kế,
(3) Nhóm kĩ năng kết cấu, (4) Nhóm kĩ năng giao tiếp, (5) Nhóm kĩ năng tổ
chức. Trong đó, kĩ năng sử dụng sách giáo khoa không được xem là một kĩ
năng độc lập, riêng biệt mà chúng được xem như là những kĩ năng thành phần
như kĩ năng tách các ý chính, ý cơ bản từ sách giáo khoa và tài liệu, kĩ năng
ghi chép tóm tắt, kĩ năng dùng sách tra cứu… Các kĩ năng này thuộc nhóm 5
kĩ năng cơ bản trên.
Đặc biệt PGS - TS Trịnh Đình Tùng đã dành hẳn một chương trong
cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử THCS” để nói về phương
pháp sử dụng sách giáo khoa trong đó tác giả quan tâm đến hai đối tượng chủ
yếu sử dụng sách giáo khoa và cần rèn luyện kĩ năng sử dụng sách giáo khoa
là giáo viên và học sinh. Đối với giáo viên, tác giả đưa ra các kĩ năng sử dụng
cơ bản như: sử dụng sách giáo khoa để chuẩn bị bài giảng (căn cứ vào sách
giáo khoa xác định mục đích, yêu cầu về nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục của

bài học, xác định kiến thức cơ bản, xây dựng cấu trúc bài học, lựa chọn
phương pháp giảng dạy), sử dụng trong quá trình lên lớp (giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa nội dung sách giáo khoa và bài giảng). Đối với học sinh –
đối tượng chủ yếu sử dụng sách giáo khoa lại có những kĩ năng làm việc với
sách giáo khoa như: đọc sách giáo khoa để hình dung bài học mới (gồm đọc
nội dung bài viết, đọc câu hỏi, bài tập để suy nghĩ phương án giải quyết, quan
sát tranh ảnh, bản đồ, đồ thị,…), trong giờ lên lớp học sinh cần biết cách sử
dụng sách giáo khoa kết hợp với nghe giảng, ghi chép và trao đổi, sử dụng
sách giáo khoa làm tài liệu ôn tập, củng cố, hệ thống hóa kiến thức.
Hoặc PGS. Đặng Văn Đức [17] đã đưa quan niệm kĩ năng sử dụng sách
giáo khoa của mình gắn liền với các hoạt động sử dụng sách giáo khoa như:

24
tái tạo đơn giản bài khóa, chia bài khóa thành các phần, lập dàn bài đơn giản
và mở rộng, trả lời những câu hỏi ở cuối bài, phân biệt những ý chính và ý
phụ, xác lập những mối liên hệ nhân quả,….
Như vậy trên cơ sở các khái niệm cơ bản trên, chúng tôi rút ra quan
niệm: Kĩ năng làm việc với sách giáo khoa là sự thực hiện có kết quả các
hoạt động làm việc với sách giáo khoa.
1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề
1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Mục tiêu giáo dục nói chung, mục tiêu môn học nói riêng là “cái đích”
phải nhắm tới để đạt được những kết quả trong sự hình thành, phát triển nhân
cách học sinh, bao gồm các mặt: trí dục, đức dục, thể dục, mĩ dục,… Nó phải
được xây dựng trên cơ sở lí luận và thực tiễn, tuân thủ những nguyên tắc: đáp
ứng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ vị trí, chức năng, nhiệm
vụ của cấp học, bậc học,…
Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường THPT được xây dựng trên cơ sở
mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, quan điểm đường lối của Đảng về sử
học và giáo dục. Mục tiêu môn học cũng căn cứ vào nội dung, đặc trưng của

hiện thực lịch sử và nhận thức lịch sử, yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách
mạng hiện nay
Trong đó mục tiêu chung của giáo dục được cụ thể hóa ở mục tiêu cấp
trung học phổ thông, được xác định như sau: “Giáo dục THPT nhằm giúp học
sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học
vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng
nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển
tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động”.[45, tr. 8].
Như vậy, mục tiêu của môn Lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp cho
học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch

25
sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục
lòng yêu quê hương đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng
năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội.
“Vì vậy việc dạy học lịch sử trước hết phải cung cấp cho học sinh những kiến
thức khoa học (chức năng giáo dưỡng) để trên cơ sở ấy tiến hành việc giáo
dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức (chức năng giáo dục) và bồi dưỡng
khả năng nhận thức và hành động của học sinh (chức năng phát triển)” [24, tr.
45]. Nắm vững kiến thức lịch sử là tiền đề để hiểu đúng hiện thực lịch sử một
cách khoa học, biết rút từ quá khứ những bài học kinh nghiệm cho tương lai.
Một cách cụ thể, đối với cấp THPT, học sinh phải đạt được
- Về kiến thức (nhiệm vụ giáo dưỡng): trình bày được những kiến thức
cơ bản về các sự kiện lịch sử tiêu biểu trên cơ sở củng cố, phát triển nội dung
kiến thức lịch sử đã học ở THCS, hợp thành một hệ thống kiến thức về sự
phát triển của lịch sử từ thời nguyên thủy đến nay. Về lịch sử dân tộc cung
cấp những kiến thức chủ yếu về quá trình phát triển lịch sử với những sự kiện
nổi bật của từng thời kì, trên cơ sở đó nắm được những quy luật chung và đặc
thù thể hiện trong xã hội Việt Nam. Về lịch sử thế giới học sinh tiếp tục củng

cố những kiến thức đã tiếp thu ở THCS và bổ sung nâng cao một cách có hệ
thống, sâu sắc hơn lịch sử xã hội loài người từ thời nguyên thủy, cổ đại, trung
đại đến các thời kì cận đại và hiện đại. Qua đó học sinh hiểu rõ hơn quy luật
phát triển của xã hội loài người, những tác động ảnh hưởng của lịch sử thế
giới đến lịch sử nước ta, mối quan hệ giữa lịch sử nước ta với lịch sử các
nước láng giềng và trong khu vực.
Như vậy nhiệm vụ giáo dưỡng trong mục tiêu của môn Lịch sử ở
trường THPT là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, bao gồm: sự
kiện lịch sử cơ bản, nhân vật lịch sử tiêu biểu, thời gian, không gian, các khái
niệm, thuật ngữ, những hiểu biết về quan điểm lí luận sơ giản, những vấn đề

×