ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ NHUNG
SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP
LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2012
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC
NGUYỄN THỊ NHUNG
SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ
HỌC TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THƠNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ
CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)
Mã số: 60 14 10
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thị Côi
HÀ NỘI – 2012
2
MỤC LỤC
Nội dung
Lời cảm ơn
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ
GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT - LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
CHƯƠNG II: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN
MÔN NHẰM GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 Ở LỚP 12 TRƯỜNG THPT
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)
2.1. Vị trí, mục đích, nội dung cơ bản của lịch sử Việt Nam từ năm 1930
đến năm 1945 ở trường THPT (chương trình chuẩn)
2.2. Những yêu cầu khi sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học
tập lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở lớp 12 trường THPT
(chương trình chuẩn)
2.3. Một số biện pháp sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập
lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở lớp 12 trường THPT
(chương trình chuẩn)
2.4. Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
4
Trang
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
GD $ ĐT
NCDG
SGK
THCS
THPT
XHCN
Sở Giáo dục và Đào tạo
Nghiên cứu giáo dục
Sách giáo khoa
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Xã hội Chủ nghĩa
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển ngày càng nhanh.
Tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản
xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo đã trở thành nhân tố quyết định
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát
triển xã hội” [26, tr. 77].
Có thể khẳng định, đổi mới cơ bản, toàn diện nền giáo dục hiện nay là
nhu cầu bức thiết, là mệnh lệnh của cuộc sống. Đảng ta nhấn mạnh: “Tăng
cường giáo dục cơng dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lịng yêu nước, chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Coi trọng hơn nữa các môn về
khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử dân tộc, Địa lý, Văn
hóa Việt Nam [22, tr. 30]. “Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp”[26, tr. 131]. Được sự quan tâm của Đảng, nhà nước sự
nghiệp giáo dục nước ta đã phát triển nhanh chóng và đạt được những thành
tựu to lớn song còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót: “Chất lượng giáo dục và
đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nhân lực trình độ
cao vẫn cịn hạn chế, chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã
hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng
cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm...” [26, tr. 167].
Chính vì lẽ đó, những năm gần đây chương trình, SGK các môn học ở
trường phổ thông đã được đổi mới. Điều này đặt ra sự cần thiết phải đổi mới
6
phương pháp dạy học, trong đó cần “...coi trọng năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [26, tr. 216].
Đây là u cầu quan trọng nhất, là chìa khóa giúp nâng cao chất lượng dạy
học.
Lịch sử là một trong những môn học có ưu thế đặc biệt trong việc phát
triển con người tồn diện: “...giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ...có tri
thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc
tế chân chính” [26, tr. 76 – 77]. Đây là hành trang cần thiết để hình thành
nhân cách con người và văn hóa Việt Nam, giúp thế hệ trẻ vươn lên trong
cuộc sống và hội nhập với thế giới.
Hiện nay chương trình, SGK lịch sử ở trường phổ thơng nói chung, lớp
12 nói riêng đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp biên soạn. Tuy
nhiên vẫn còn hạn chế: nhiều nội dung trùng lặp ở lớp dưới và lớp trên, của
nhiều môn học khác nhau. Do vậy, từ năm học 2011 – 2012 Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đưa Chuẩn kiến thức, kĩ năng và Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh
nội dung dạy học môn lịch sử để đảm tính lơgic, tính thống nhất giữa các bộ
mơn, tránh những nội dung trùng lặp, góp phần khắc phục tình trạng quá tải
trong giảng dạy, học tập. Đồng thời tạo điều kiện để giáo viên và học sinh
thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, góp phần quan trọng vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục trung học. Chương trình lịch sử lớp 12 có
24/27 bài được điều chỉnh, trong đó có nội dung khơng dạy hoặc đọc thêm.
Những sự thay đổi cơ bản này đặt ra một vấn đề quan trọng trong phương
pháp dạy học của giáo viên là phải có kiến thức liên mơn sâu rộng, tổ chức
cho học sinh có khả năng sử dụng kiến thức của các mơn học có liên quan vào
học tập lịch sử để tránh sự trùng lặp, mất thời gian, giúp học sinh lĩnh hội kiến
thức nhẹ nhàng, sinh động mà vững chắc.
Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước đây cũng như từ khi
triển khai chương trình giảm tải, nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu hết tầm quan
trọng của kiến thức liên mơn và tìm phương pháp sử dụng thích hợp để góp
7
phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Xuất phát từ những lí do trên
chúng tơi đã chọn vấn đề: “Sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú
học tập lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường trung học
phổ thơng (chương trình chuẩn)”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề sử dụng kiến thức liên mơn trong dạy học nói chung và trong dạy
học lịch sử nói riêng đã được đề cập đến trong các cơng trình giáo dục học,
giáo dục lịch sử. Trong q trình nghiên cứu, tìm tịi chúng tơi đã tiếp cận một
số tài liệu ngồi nước thơng qua tài liệu dịch, tài liệu trong nước liên quan đến
vấn đề sử dụng kiến thức liên môn như:
2.1. Tài liệu nước ngoài
2.1.1. Tài liệu giáo dục học
Nhà giáo dục học T.A.I Lina, cho rằng để hiểu rõ bộ mơn của mình thì
cần phải học tập nhiều và học tập một cách thường xuyên và không ngừng bồi
bổ thêm vốn hiểu biết của mình. T.A.I. Lina cịn nhấn mạnh: “Ngày nay
khơng có một khoa học nào được giảng dạy mà lại không sử dụng những số
liệu của các khoa học tiếp cận khác, những tài liệu, những sự kiện và những
thí dụ lấy từ trong cuộc sống hàng ngày và từ các lĩnh vực tri thức khác nhau
[23, tr. 245]. Trong phần nhiệm vụ của việc giảng dạy kĩ thuật tổng hợp tác
giả cho rằng: “Việc xác lập mối liên hệ giữa các bộ môn nhằm vạch ra cho
học sinh thấy mối liên hệ qua lại của các khoa học” [23, tr. 153].
Nhà giáo dục học vĩ đại người Nga, M.T.Ogơrôtnhicôp nhấn mạnh
quan điểm đòi hỏi việc tổ chức bài học phù hợp với hứng thú của trẻ em là
cần: “...giải thích những tài liệu nghiên cứu bằng những môn học khác nhau
xung quanh mơn học đó”. [16, tr. 43]
Nhà giáo dục học I.A. Cai - Rốp, N.K. Gôn – Sa - Rốp - B.P.Ét - SiPốp, L.V. Dan - Cốp nêu ra những yêu cầu đối với trình độ của giáo sư trong
đó các ơng nhấn mạnh: “Giáo sư khơng chỉ có tri thức phong phú về chuyên
8
mơn nghiệp vụ của mình mà phải chú ý đến sự phát triển của những môn
khoa học gần gũi với mơn chun nghiệp chủ yếu của mình” [8, tr. 87].
Trong các cơng trình nghiên cứu của mình Linđa đã khẳng định vai trò
của thầy giáo: “Thầy giáo cần phải là người có kiến thức tồn diện và có
trình độ văn hóa cao. Ngồi kiến thức chun mơn của mình, các thầy giáo
cần phải hướng vào một vài lĩnh vực khác của khoa học và kĩ thuật mà hiện
nay thanh niên ta bất cứ ngành nào cũng yêu thích” [23, tr. 229] .
Nhà giáo dục học N.U.Savin nêu rõ: Nền học vấn phổ thơng phán ánh
đầy đủ và chính xác nhất tri thức khoa học và thực tiễn của nhân loại và nó
thực sự là tồn diện. “Ở đó đã kết hợp một cách hữu cơ các tri thức về tự
nhiên, xã hội và tư duy con người đã đạt được sự hài hòa giữa học vấn về
nhân văn và về tự nhiên...” [21, tr. 99].
Trong cuốn “Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi” của Giselle
O. Martin – Kniep có đề cập đến quy trình xây dựng các đơn vị bài học tích hợp
là gì có nêu: Tích hợp chương trình có nhiều hình thức khác nhau. “Tích hợp nội
dung là hình thức kết nối nội dung trong nội bộ môn học và giữa các môn học
với nhau” [4, tr. 27]. Việc giáo viên môn Khoa học xã hội sử dụng nghệ thuật và
văn học để giúp học sinh hiểu rộng hơn một vùng văn hóa là một ví dụ về tích
hợp nội dung trong phạm vi lớp học. Khi một giáo viên môn Khoa học xã hội và
một giáo viên tiếng Anh dạy một đơn vị bài học về văn hóa do hai người cùng
xây dựng làm lu mờ ranh giới giữa hai mơn học thì đấy là ví dụ về việc tích hợp
nội dung giữa các mơn học. “Cả hai hình thức tích hợp nội dung trên đều được
gọi là chương trình liên mơn” [4, tr. 27].
2.1.1. Tài liệu giáo dục lịch sử
Tiến sĩ giáo dục học N.G.Đai - ri trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào” đã nêu ý nghĩa của việc sử dụng các nguồn tư liệu: phải sử dụng
không ngừng và có hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu mn hình mn vẻ…
“Tồn bộ cơng tác dạy học sẽ vơ cùng có lợi, nếu thầy giáo hiểu mơn học trên
cơ sở tất cả các nguồn tư liệu hiện nay” [18, tr. 13]. Đai- ri còn nhấn mạnh
9
“Thầy giáo bắt buộc phải biết rõ những thành tựu của khoa học lịch sử và
của các khoa học giáo dục...phải biết tất cả những hiện tượng quan trọng
nhất của đời sống chính trị xã hội và văn hóa” [18, tr. 13].
Khi trình bày về sự phát triển của khoa học lịch sử N.A. E- Rô- Phê- Ép
đã đề cập đến rất nhiều vấn đề về lịch sử xã hội, về văn hóa, tư tưởng, triết
học, về nhiều lĩnh vực chuyên môn của khoa học lân cận, “họ hàng” với khoa
học lịch sử. Trong cuốn “Lịch sử là gì” ơng khẳng định: “Khơng có một bộ
mơn khoa học nào có thể phát triển một cách đơn độc” [17, tr. 147]. Tác giả
nêu rõ mối quan hệ giữa lịch sử với các khoa học nghiên cứu xã hội khác
nhau, như xã hội học, dân tộc học, tâm lí xã hội…rất chặt chẽ. “Sở dĩ các
ngành khoa học này xích gần nhau vì chúng cùng nghiên cứu một đối tượng
như nhau” [17, tr. 147].
I.Ia. Lécne trong cuốn sách “Phát triển tư duy của học sinh trong dạy
học lịch sử” cũng đề cập đến mối liên hệ giữa các tri thức: “Ở chỗ nào nếu tài
liệu cho phép, chỗ nào có những vấn đề gần gũi với nhau thì khả năng đó
phải được sử dụng” [9, tr. 149]. “Bất kì tri thức lịch sử nào là thông tin lĩnh
hội đầu tiên được thực hiện nếu như nó được sử dụng tổng hợp với các tri
thức khác nhau của chúng. Cần phải dần dần dạy cho học sinh hiểu được tính
đa diện, đa dạng của các quan hệ đó” [9, tr. 177].
I.F. Kharlamơp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như thế nào” đã nêu rõ tác dụng, ý nghĩa của việc vận dụng kiến thức các môn
học: “Việc giáo viên có khả năng tìm được mối liên hệ giữa các vấn đề mà
các nhà bác học đã nghiên cứu với điều mà các em đã học ở nhà trường
thuộc một mơn học nào đó cũng gây cho học sinh niềm hứng thú đặc biệt đối
với việc học tập tài liệu mới [11, tr. 102].
Vấn đề nguyên tắc liên môn cũng được đề cập trong cuốn “Phát triển tư
duy học sinh”. Các tác giả M.Alêcxêep, Ônhisúc... cho rằng “Việc sử dụng
rộng rãi các môn học như vậy để bồi dưỡng cho học sinh các thủ thuật và
phương pháp tư duy lơgic sẽ góp phần thực hiện một trong những u cầu
10
quan trọng nhất của lí luận dạy học là xác lập các mối liên hệ chặt chẽ giữa
các bộ môn trong dạy học”[ 15, tr. 100].
Tác giả N.M. Iacôplep trong “Phương pháp và kĩ thuật lên lớp trong
trường phổ thông” cũng rất coi trọng mối liên hệ giữa các bộ mơn “...giữ vai
trị to lớn về mặt này là hệ thống công tác liên hệ hữu cơ giữa các giáo viên
các bộ môn khác nhau – tức là mối liên hệ giữa các bộ môn” [20, tr. 35]
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Thống nhất với các quan điểm lý luận trên, rất nhiều tài liệu của các
nhà giáo dục học Việt Nam đã nêu rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến
thức liên môn trong dạy học lịch sử.
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt trong cuốn “Giáo dục học” nêu một cách
khái quát nhất và tương đối đầy đủ về vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến
thức liên môn: “Tiềm năng giáo dục thế giới quan cho học sinh đặc biệt được
khai thác trong mối liên hệ giữa các môn học. Các mối liên hệ giữa các môn
học, phản ánh bản chất biện chứng của nhận thức khoa học, giúp xem xét một
sự vật hay một hiện tượng từ nhiều quan điểm khác nhau [19, tr. 123].
Đặng Thành Hưng cho rằng: “Trong khoa học giáo dục cịn có những
bộ mơn, chun ngành, liên mơn lấy những liên hệ qua lại làm đối tượng [7,
tr. 15]. Trong nội dung vấn đề tích cực hóa và biện pháp tích cực hóa học tập
tác giả đề cập đến tích hợp dạy học: Trong học trình tổng thể, trừ những phần
buộc phải tổ chức theo cấu trúc bộ môn bài bản và ổn định cao, những phần
học vấn cịn lại được tổ chức thành những học trình tích hợp liên mơn và
xun mơn. Vai trị của tích cực hóa của học trình tích hợp chủ yếu khơng
phải ở chỗ nó giúp giảm tải học tập, rút gọn tài liệu, tiết kiệm thời gian học
tập, hạn chế sự trùng lặp nội dung… mà ở chỗ làm cho người học hoạt động
dễ hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn:
Trần Bá Hồnh trong “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và
sách giáo khoa” nhấn mạnh phương pháp tích cực trong đó đề cập vấn đề giáo
dục theo mục tiêu với nội dung “liên môn” và “xuyên môn”.
11
Các nhà giáo dục lịch sử càng khẳng định rõ vai trị quan trọng của kiến
thức liên mơn trong dạy học lịch sử đối với việc nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong cuốn “Hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung
học cơ sở” của Trịnh Đình Tùng (chủ biên), Đặng Văn Hồ, Trần Văn Cường
và đặc biệt cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập 1 của các tác giả Phan
Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Cơi có đề cập đến ngun tắc dạy
học liên môn: “Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng
của dạy học ở trường phổ thơng nói chung, mơn lịch sử nói riêng. Đối với bộ
mơn Lịch sử, mà chức năng cung cấp những kiến thức cơ bản về q trình
phát triển của xã hội lồi người (và dân tộc), việc nắm vững các sự kiện lịch
sử liên quan chặt chẽ với việc hiểu biết tri thức về môn khoa học xã hội và
nhân văn (văn học, giáo dục cơng dân, triết học, địa lí) và cả về khoa học tự
nhiên (những kiến thức về sự phát triển khoa học - kĩ thuật. [12, tr. 259].
Ngoài ra, vấn đề trên còn được đề cập đến trong các bài báo, tạp chí
giáo dục như bài viết của Nguyễn Quang Vinh “Dạy học các môn học theo
quan điểm liên mơn” (trên tạp chí NCGD số 10/1986), Trần Văn Cường “Vận
dụng nguyên tắc liên môn trong dạy học lịch sử ở trường THPT”(trên tạp chí
NCGD số 7/1997), Trần Đức Minh “Vận dụng quan điểm liên môn - một yếu
tố nâng cao tính tích cực học tập của học sinh” (trên tạp chí NCGD số
4/1999), Trần Viết Thụ “Vận dụng nguyên tắc liên mơn khi dạy học các vấn
đề văn hóa trong SGK lịch sử PTTH” (trên tạp chí NCGD số 12/1997). Mỗi
bài viết tuy chỉ nghiên cứu sâu một khía cạnh của vấn đề, nhưng đều khẳng
định sự cần thiết và nêu rõ vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức liên
môn trong dạy học nhằm nâng cao chất lượng bộ mơn.
Ngồi ra, vấn đề trên cũng được một số luận văn cao học, khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên đề cập tới như: Phạm Văn Thiện “Sử dụng kiến thức
Văn học, Địa lí, Chính trị trong giờ học lịch sử ở trường PTTH theo nguyên
tắc liên môn”, luận văn thạc sĩ khoa lịch sử, 1989, Trần Viết Thụ “Giảng dạy
những nội dung văn hóa trong khóa trình lịch sử dân tộc ở trường PTTH”,
12
luận án tiến sĩ, 1997.
Các tài liệu giáo dục học, phương pháp dạy học và các tạp chí, luận văn
đã nêu ở trên đều đề cập đến vấn đề sử dụng phương pháp liên môn, và
nguyên tắc liên môn ở các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một cơng
trình nào đề cập tồn diện đến việc sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học
phần lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 (SGK lịch sử lớp 12
chương trình chuẩn). Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã nêu ở trên
là những gợi mở quý báu về lý luận cũng như các biện pháp sử dụng kiến
thức liên môn giúp chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình sử dụng kiến thức liên
môn trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường
THPT (chương trình chuẩn).
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích của đề tài là:
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lí luận về kiến thức liên mơn để
khẳng định rõ vai trò - ý nghĩa của kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử ở
trường THPT nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh. Đề tài đi sâu vào xác
định những kiến thức liên mơn có liên quan cần sử dụng trong dạy học lịch sử
Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường THPT (chương trình chuẩn).
Đồng thời đề xuất các biện pháp sư phạm sử dụng kiến thức liên môn để tạo
hứng thú học tập cho học sinh trong dạy học giai đoạn lịch sử này.
4.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau:
- Tìm hiểu lý luận của các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử về sử dụng
kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh trong các tài
liệu giáo dục, giáo dục lịch sử và các tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài.
- Tìm hiểu thực tiễn việc dạy học lịch sử nói chung và việc sử dụng
13
kiến thức liên mơn nói riêng tại các trường phổ thơng hiện nay, chất lượng
giảng dạy bộ mơn, tình hình hứng thú học tập lịch sử của học sinh THPT.
- Tìm hiểu nội dung chương trình, SGK lịch sử lớp 12 - phần lịch sử
Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 để lựa chọn những nội dung cần và có
thể sử dụng kiến thức liên mơn nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một lớp để kiểm chứng các biện
pháp sư phạm đề xuất trong luận văn, trên cơ sở đó rút ra kết luận khoa học.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về nhận thức, giáo dục và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng về vấn đề giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp phân tích: đọc và phân tích các tài liệu về Tâm lý - Giáo
dục, Giáo dục lịch sử, chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 12, phần lịch
sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, các tài liệu tham khảo có liên quan
đến đề tài để xây dựng hệ thống kiến thức liên môn phù hợp.
Phương pháp tổng hợp: chúng tôi sẽ lựa chọn những kiến thức ở các
mơn học có liên quan đến kiến thức lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm
1945 để tổng hợp nội dung kiến thức cần và có thể sử dụng kiến thức liên
mơn.
- Nghiên cứu thực tiễn
Đề tài khảo sát thực tế việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện
nay. Đối tượng khảo sát là giáo viên trên địa bàn huyện Thạch Thất, một số
huyện lân cận và học sinh trường THPT Hai Bà Trưng - Thạch Thất.
Đối với giáo viên: đề tài khảo sát thực tế việc dạy học lịch sử nói chung
và sử dụng kiến thức liên mơn nói riêng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ
14
năm 1930 đến năm 1945 thông qua phỏng vấn, điều tra xã hội học, dự giờ,
thăm lớp.
Đối với học sinh: tiến hành điều tra tình hình học tập, tâm lý của học
sinh lớp 12 trường THPT Hai Bà Trưng thông qua sổ điểm, kiểm tra miệng,
kiểm tra viết và trắc nghiệm khách quan.
- Thực nghiệm sư phạm
Soạn một bài thực nghiệm theo những dự kiến về biện pháp mà luận
văn đưa ra, tiến hành dạy học thực nghiệm ở trường THPT Hai Bà Trưng
nhằm kiểm chứng những biện pháp mà đề tài nêu ra, từ đó rút ra những kết
luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề tài.
- Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị
thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của
những biện pháp dạy học mà đề tài đưa ra.
6. Giới hạn và phạm vi của đề tài
Do điều kiện thời gian hạn chế và trình độ bản thân có hạn nên đề tài
khơng đi sâu tìm hiểu tất cả kiến thức liên mơn có liên quan tới lịch sử Việt
Nam từ năm 1930 đến năm 1945 mà chỉ tập chung vào kiến thức một số môn
gần gũi đến lịch sử đó là: Văn học, Địa lí, Chính trị, đề xuất các biện pháp sử
dụng kiến thức liên môn trong các bài nội khóa.
7. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu vận dụng các biện pháp sử dụng kiến thức liên môn theo đúng yêu
cầu đề tài nêu ra thì sẽ gây hứng thú cho học sinh trong học tập lịch sử, góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ mơn ở trường THPT.
8. Đóng góp của đề tài
Luận văn sẽ có những đóng góp cơ bản sau:
- Đề tài khẳng định rõ hơn vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng kiến thức
liên môn trong dạy học lịch sử để gây hứng thú học tập cho học sinh.
- Qua điều tra đề tài sẽ góp phần đánh giá đúng thực trạng việc dạy học
và sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
15
- Xác định được nội dung kiến thức văn học, địa lí, chính trị cần và có
thể sử dụng trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở
trường THPT (chương trình chuẩn), đồng thời đề xuất các biện pháp sử dụng
kiến thức liên môn nhằm gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh.
9. Ý nghĩa của đề tài
9.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lí luận về phương pháp dạy học
lịch sử nói chung và biện pháp sử dụng kiến thức liên mơn trong dạy học lịch
sử nói riêng nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh từ đó nâng cao hiệu quả
dạy học bộ mơn.
9.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp bản thân và đồng nghiệp vận dụng
vào dạy học lịch sử ở trường phổ thông để nâng cao hiệu quả dạy học bộ mơn.
10. Cấu trúc luận văn
Ngồi Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm 2
chương.
Chương 1: Vấn đề sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú học tập
lịch sử ở trường trung học phổ thông - lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng kiến thức liên môn nhằm gây
hứng thú học tập lịch sử Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945 ở trường trung
học phổ thơng (chương trình chuẩn).
16
CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ SỬ DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ
HỌC TẬP LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận của việc sử dụng kiến thức liên môn để gây hứng thú
học tập lịch sử ở trường trung học phổ thông
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về kiến thức
“Kiến thức” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng
như trong đời sống. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi “Kiến thức là gì?” thì lại có
nhiều quan niệm dựa trên cách tiếp cận khác nhau.
Theo nghĩa giáo dục học “Kiến thức là sự thông hiểu và lưu trữ trong
trí nhớ những sự kiện cơ bản của khoa học và những quy tắc kết luận và quy
luật xuất xứ từ những sự kiện ấy” [10, tr. 14].
Theo định nghĩa sinh lý học: “kiến thức” chẳng qua là một dạng nhất
định của những mối liên hệ tạm thời, được tạo trên vỏ các bán cầu đại não do
ảnh hưởng của những kích thích bên ngồi và hoạt động tư duy tích cực của
chủ thể đang nhận thức.
Theo từ điển Tiếng Việt: kiến thức là điều thấy và biết tri thức - là điều
hiểu biết do tìm hiểu, học tập mà nên [6, tr. 373].
Trong cuốn “Giáo dục học” tác giả Phạm Viết Vượng quan niệm: “kiến
thức” là hệ thống những khái niệm, phạm trù, những quy tắc, lí thuyết của
từng môn học mà học sinh cần phải học tập nắm vững. Kết quả học tập môn
học được đánh giá bằng khả năng nhận thức của học sinh với số lượng và chất
lượng kiến thức đó [29, tr. 84 - 85].
Như vậy, các định nghĩa trên (định nghĩa triết học, giáo dục, sinh lý
học) về khái niệm này, định nghĩa nào cũng nhấn mạnh theo từng vấn đề khác
nhau song có ý nghĩa lớn đối với việc phát hiện ra những quy luật của sự học
tập, coi như quá trình hoạt động nhận thức.
17
Đặc điểm riêng và quan trọng nhất của kiến thức là chúng tác động như
vũ khí và phương tiện giúp con người chinh phục tự nhiên và biến đổi thực tế
chung quanh và cũng tác động như cách thức tồn tại của bản thân con người.
Từ đó có thể hiểu kiến thức là những điều hiểu biết do quá trình học
tập, tìm hiểu mà có.
1.1.1.2. Khái niệm về kiến thức lịch sử
Kiến thức lịch sử cũng như kiến thức của các môn học là một bộ phận
trong ý thức xã hội. Nắm vững kiến thức lịch sử là tiền đề để hiểu đúng hiện
thực lịch sử một cách khoa học. Nếu khơng có kiến thức lịch sử thì khơng thể
hiểu sự phát triển tương lai của xã hội.
Kiến thức lịch sử phát triển theo trình độ nhận thức của con người.
Khoa học lịch sử ra đời và phát triển trên cơ sở sắp xếp khái quát hóa, trừu
tượng hóa những kiến thức lịch sử để rút ra quy luật phát triển xã hội.
Kiến thức lịch sử là yếu tố quan trọng nhất để giáo dục tư tưởng chính
trị, hình thành thế giới quan khoa học. Nó khơng chỉ là phương tiện nhận thức
xã hội mà cịn là vũ khí đấu tranh để cải tạo xã hội.
Kiến thức của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông là những hiểu biết
của học sinh về lịch sử phát triển của xã hội loài người, được khoa học lịch sử
xác nhận và ghi chép trong các cuốn sách giáo khoa lịch sử mới nhất. Kiến
thức lịch sử ở trường phổ thơng gồm có nhiều yếu tố: sự kiện, nhân vật, địa
điểm, thời gian, khái niệm… phản ánh sự hiểu biết về những lĩnh vực của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa… [7, tr. 7 - 8].
Kiến thức lịch sử phát triển theo trình độ nhận thức của con người.
“Một trong những mặt quan trọng của lịch sử là sưu tầm và nghiên cứu các
sự kiện, những tế bào cơ bản của hiện thực. Sự kiện có thể coi là nguyên liệu
để hình thành tri thức khoa học” [21, tr .5].
Như vậy, kiến thức lịch sử phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội, là
kết quả của việc nghiên cứu khoa học lịch sử, được sử dụng vào nhận thức và
hoạt động xã hội giúp cho con người hiểu một cách đầy đủ về quá trình phát
18
triển của lịch sử loài người.
1.1.1.3. Khái niệm về kiến thức liên môn
Bộ môn lịch sử ở trường phổ thông cung cấp cho học sinh những tri
thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch
sử dân tộc và thế giới. Vì vậy, kiến thức lịch sử không chỉ liên quan đến tri
thức về khoa học xã hội mà cả về khoa học tự nhiên.
Mối liên hệ giữa các mơn, các khóa trình được thể hiện trong các bài,
đặc biệt các bài về cách mạng, về văn hóa, khoa học... Vấn đề quan trọng nhất
của dạy học liên mơn là tìm những khái niệm, những tư tưởng chung có trong
mơn học. Những kiến thức được đề cập đến các mơn học đó bổ sung cho
nhau, làm sáng rõ hơn kiến thức mà học sinh học được trong mỗi mơn học.
Có như vậy học sinh nắm kiến thức mới vững chắc và việc giáo dục tư tưởng
thơng qua mơn học mới có kết quả.
Đối với học sinh, kiến thức liên môn giúp các em nhận thức sự phát
triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất, hiểu được tính tồn diện của
lịch sử. Điều này khắc phục được tình trạng rời rạc, tản mạn trong kiến thức
của học sinh. Nắm được mối liên hệ kiến thức giữa các mơn học, tính hệ
thống giữa các tri thức lịch sử sẽ giúp học sinh có khả năng phân tích các sự
kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử.
Như vậy, kiến thức liên môn là mối liên hệ kiến thức giữa các môn học.
Sử dụng kiến thức liên môn bằng con đường tích hợp những nội dung kiến
thức từ một số môn học để làm rõ kiến thức của một số mơn học nào đó.
Ở nước ta, ngun tắc tích hợp được thực hiện ở mức độ thấp. Vì vậy,
nguyên tắc liên môn được chú trọng nhiều, nhằm làm cho kiến thức các môn bổ
sung cho nhau, hiểu sâu sắc hơn các sự kiện đang học. Trong môn Lịch sử, việc
dạy học theo nguyên tắc liên môn và thực hiện “tính kế thừa” trong nhận thức
làm cho học sinh hiểu sự phát triển của xã hội một cách liên tục, thống nhất.
Như vậy, kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử là kiến thức giữa các
mơn học có cùng tư tưởng, quan điểm. Nắm được mối liên hệ giữa kiến thức
19
của các mơn có liên quan, tính hệ thống của tri thức lịch sử sẽ giúp cho học
sinh có khả năng phân tích các sự kiện, tìm ra bản chất, quy luật chi phối sự
phát triển của lịch sử.
1.1.1.4. Khái niệm về hứng thú
Hiện nay, để nâng cao chất lượng dạy học, vấn đề hứng thú đang được
các nhà giáo dục học quan tâm nghiên cứu. Bởi hứng thú là một hiện tượng
tâm lý phức tạp. Trên thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về hứng thú:
Trong cuốn “Vấn đề hứng thú nhận thức trong giáo dục học” G.I.
Sukina nhấn mạnh: “Hứng thú - đó là sự kết hợp độc đáo các q trình tình
cảm - ý chí và q trình trí lực, tính tích cực nhận thức và hoạt động của con
người được nâng cao” và “đó là thái độ riêng của cá nhân đối với đối tượng,
ý thức được ý nghĩa cuộc sống và sự hấp dẫn về tình cảm gây ra” [3, tr. 4]
Kharlamốp đã nêu: “Hứng thú - đó là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm
đi trước giai đoạn gây động cơ và làm cho hoạt động của con người có tính
chất hấp dẫn” [11, tr. 28]. “Điều đó gây cho các em niềm vui sướng, sự hưng
phấn xúc cảm và kích thích tính tích cực nhận thức” [11, tr. 95 - 96].
Tương tự, trong cuốn “Phương pháp đọc sách”, A.P.P. Rimacơpxki cho
rằng “Lịng ham mê, thích thú mơn học và sự thấm nhuần mục đích học tập sẽ
giúp người ta khắc phục khó khăn, nâng cao được năng lực làm việc” [1, tr. 97].
Như vậy, việc nghiên cứu cho thấy rằng dưới ảnh hưởng của hứng thú
nhận thức, việc học tập của học sinh diễn ra dễ dàng hơn, thoải mái hơn,
nhanh chóng hơn và có hiệu quả hơn. “Hứng thú khơng xuất hiện một cách
ngẫu nhiên. Điều kiện quan trọng nhất để hình thành các hứng thú nhận thức
là trình độ dạy học cao, nội dung có tính khoa học, tổ chức hợp lí việc học
sinh nhận thức tích cực và độc lập” [21, tr. 139].
Giáo viên cần phải biết rõ khả năng nhận thức của học sinh và đặt ra
trong học tập những nhiệm vụ vừa sức đối với từng em, dần dần phức tạp hóa
chúng theo mức độ phát triển trí tuệ của học sinh. Để đạt được điều đó người
giáo viên phải biết gây hứng thú, tạo được niềm vui sướng cho học sinh trong
20
quá trình học tập, chỉ cho các em thấy việc học tập có ý nghĩa như thế nào đối
với xã hội và đối với từng em.
Luật giáo dục được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thơng qua ngày 25 tháng 11 năm 2009, tại kì họp thứ 6, Quốc hội khóa
XII, ở Điều 28 - Yêu cầu về nội dung, phương pháp giáo dục phổ thông đã
ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm;
rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm,
đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [14, tr. 23].
Để gây hứng thú cho học sinh, chúng ta phải “...giúp học sinh cảm xúc
niềm vui sướng của sự thành cơng, tin tưởng vào sức của mình, vào khả năng
vượt qua khó khăn sẽ gặp” [11, tr. 28].
Như vậy hứng thú học tập là một yếu tố rất quan trọng. Vì hứng thú là
tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tâm lí tạo nên tính tích
cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là tư duy của
sáng tạo. Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển
tự giác, hứng thú, bồi dư ng động cơ học tập.
1.1.1.5. Khái niệm về hứng thú học tập lịch sử
Muốn học tốt môn lịch sử trước hết phải có hứng thú học tập lịch sử và
bản thân nội dung lịch sử cũng giúp cho học sinh hứng thú. Vậy hứng thú học
tập lịch sử là gì?
Hứng thú học tập lịch sử là một thành phần nhân cách. Đó là một thái độ
say mê, tự giác, tích cực đặc biệt của cá nhân đối với nội dung lịch sử cụ thể.
Trước hết, hứng thú học tập lịch sử được biểu hiện ở sự tập trung của
học sinh vào đối tượng. Có hứng thú các em mới tập trung vào các cơ quan
thính giác, thị giác vào đối tượng mà mình cần nhận thức. Thị giác các em sẽ
tập trung quan sát và thính giác thì tiếp nhận các thơng tin về đối tượng để từ
đó dần dần hình thành được biểu tượng, làm cho quá trình tư duy diễn ra
21
nhanh hơn và hấp dẫn hơn. Nói cách khác, trong q trình dạy học lịch sử,
biểu tượng lịch sử góp phần vào phát triển hứng thú và ngược lại hứng thú sẽ
góp phần vào tạo biểu tượng lịch sử, giúp quá trình tư duy nhận thức lịch sử
diễn ra nhanh hơn, đầy đủ hơn.
Biểu hiện thứ hai của hứng thú học tập lịch sử là học sinh có tình cảm
đối với mơn học, có nhu cầu học tập thực sự. Trong q trình dạy học, giáo
viên cần có phương pháp dạy học tốt để hình thành ở học sinh những xúc cảm
lịch sử chân thực. Hprance Mann có câu: “Một ông thầy mà không dạy cho
học trò được việc ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà
thơi”. Về phía học sinh, nếu nhận thức được tầm quan trọng của lịch sử các
em sẽ có cảm xúc lịch sử, nảy sinh tình cảm gắn bó với những sự kiện, hiện
tượng lịch sử, hình thành xu hướng thích học bộ mơn lịch sử. Từ những cảm
xúc đó, học sinh sẽ hình thành được động cơ học tập. Để thỏa mãn nhu cầu
học tập của bản thân, các em sẽ tích cực học tập, tìm tịi, khám phá để lĩnh hội
kiến thức. Khi đã đạt được thành công trong học tập, các em sẽ thấy vui
sướng, tin tưởng vào những kiến thức khoa học mà các em nhận thức được.
Từ đó các em có ý thức học tập tốt hơn, tức là các em có hứng thú học tập vì
“...thành cơng là yếu tố quyết định khiến hứng thú nảy sinh” [10, tr. 87].
Biểu hiện thứ ba của hứng thú học tập lịch sử là sự khao khát tìm hiểu
về các sự vật, hiện tượng lịch sử. Các em không chỉ thấy cần học, muốn học,
thấy bức bách cần phải học mà quan trọng hơn là cần phải học như thế nào và
học để làm gì. Các em muốn khám phá, chinh phục chân trời mới của tri thức,
khám phá những điều mình chưa biết, thậm chí khơng thỏa mãn với những
điều đã biết. Nếu có sự khát khao học tập thì các em sẽ ln có ý thức tự tìm
hiểu những điều đó thơng qua sách báo, tài liệu tham khảo, các phương tiện
thông tin đại chúng, học hỏi bạn bè, thầy cô để những hiểu biết về lịch sử
ngày càng sâu rộng hơn.
Biểu hiện thứ tư của hứng thú học tập lịch sử là tính tích cực tư duy
của học sinh. Các em không chỉ chăm chú tập trung học bài mà còn hăng hái
22
trả lời câu hỏi của giáo viên đưa ra, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi về những vấn
đề chưa hiểu rõ. Nếu học sinh hứng thú với môn học, các em sẽ có nhu cầu
học để biết, để làm việc, để chung sống để tự khẳng định mình và có nhu cầu
học thường xuyên, học suốt đời.
Hứng thú học tập lịch sử của học sinh phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Thứ nhất là nội dung bài học: Để gây được hứng thú học tập thì trước
hết nội dung bài học phải hay, phong phú, sâu sắc. Nội dung bài học không
nặng nề mà phải nhẹ nhàng và hấp dẫn như một câu chuyện lịch sử. Có như
vậy bài học mới lơi cuốn được học sinh.
Bên cạnh đó, nội dung bài học phải đảm bảo tính khoa học; tính cơ bản,
tồn diện, có hệ thống, gắn với thực tiễn, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi. Trên
cơ ấy tiến hành giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức và khả năng nhận
thức, hành động của học sinh.
Ngoài ra, nội dung bài học cịn phải mang tính chất khám phá, kích thích
tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Nghĩa là nội dung bài học không phải là
các tri thức đã được xác định sẵn, rõ ràng, mạch lạc mà phần chủ yếu của nội
dung bài học là các hoạt động đề ra cho học sinh, nêu nhiệm vụ nhận thức và
hành động nhưng chưa có lời giải. Dưới sự hướng dẫn, tổ chức của giáo viên học
sinh sẽ tìm tịi, phát hiện, khám phá những điều phải học.
Thứ hai là phương pháp dạy học: Nhà triết học Anh Bêcơn đã ví
phương pháp như ngọn đèn lớn, soi sáng cho người đi trong đêm tối. Trong
giáo dục cần có phương pháp dạy học vì giáo viên phải là người hướng dẫn,
tổ chức cho học sinh tiếp thu kiến thức bằng con đường ngắn nhất, hiệu quả
nhất.
Giáo viên phải vận dụng đúng phương pháp dạy học bộ môn, đặc biệt
là phương pháp dạy học cần đa dạng, phong phú và phát huy được tính tích
cực của học sinh. Thầy phải biết hướng dẫn người học phát hiện vấn đề, đặt ra
các giả thuyết và so sánh, sử dụng những kiến thức và biết tổng hợp từ nhiều
23
môn học (kiến thức liên môn) để đưa ra một giải pháp mới cho vấn đề đã biết
và cuối cùng biết kiểm nghiệm, đánh giá giải pháp đó.
Như vậy, để gây được hứng thú học tập lịch sử giáo viên cần có
phương pháp dạy học tích cực, linh hoạt, sáng tạo, truyền thống kết hợp với
hiện đại “...học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lí
luận gắn liền với thực tiễn...” [14, tr. 6].
Thứ ba là khâu tổ chức hoạt động nhận thức: Để học sinh học tập tốt
và hứng thú với bộ môn lịch sử thì giáo viên đóng vai trị chủ động trong quá
trình tổ chức hoạt động học tập của học sinh. Thầy vừa là người hướng dẫn, tổ
chức, điều khiển quá trình học vừa là người tham gia vào quá trình kiểm tra,
đánh giá, nhận xét hoạt động của trị. Việc tổ chức hoạt động nhận thức của
học sinh khi tiến hành bài học thể hiện ở mục đích học tập. Trước khi học
sinh nghiên cứu kiến thức mới, để tạo cho học sinh động cơ học tập giáo viên
đặt các câu hỏi gợi mở để kích thích học sinh làm việc, tổ chức trao đổi, đàm
thoại. Tùy thuộc vào nội dung bài học giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động
nhận thức theo cá nhân, theo nhóm hay cả lớp để làm cho giờ học phong phú,
đa dạng.
Thứ tư là sức mạnh lời nói của thầy và thái độ của thầy đối với trị:
Trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, lời nói của thầy giữ vai
trị chủ đạo. Thầy phải sử dụng ngơn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh để dẫn dắt
học sinh tạo được biểu tượng lịch sử, giúp học sinh biết suy nghĩ, hình thành
khái niệm, nhằm tìm ra bản chất sự kiện.
Muốn cho lời nói có hiệu quả sư phạm cao, giáo viên cần trình bày tài
liệu vừa sức tiếp thu của học sinh. Ngôn ngữ của giáo viên phải tường minh,
chính xác. Lời nói phải có hình ảnh, sinh động, hấp dẫn nhằm tạo biểu tượng
và tác động đến tình cảm, tư tưởng của học sinh. Khi trình bày giáo viên cần
kết hợp các thao tác sư phạm như giọng nói, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ thích
hợp và diễn cảm để phù hợp với nội dung bài học.
24
Như vậy, lời nói của giáo viên có ý nghĩa giáo dục to lớn, nó tác động
đến tìm cảm cho học sinh. Lời nói chân thành, có xúc cảm sẽ tăng thêm tác
dụng giáo dục, ngược lại lời nói vơ cảm, lạnh nhạt, hững hờ sẽ làm giảm nhẹ
hoặc gây phản tác dụng giáo dục.
Bên cạnh việc gây hứng thú trong học tập người thầy còn phải là người
gần gũi và biết chia sẻ những vui buồn trong quá trình kiến tạo tri thức của
học trò. Người giáo viên được coi như những “Kĩ sư tâm hồn”, phải biết
“thổi” vào tâm hồn các em niềm đam mê học tập và“hút” được học sinh vào
giờ học làm cho học sinh tự giác học tập, biết cách tự học, tự tìm tịi khám
phá mà khơng chịu một áp lực tâm lý nào.
Ngồi ra, giáo viên khơng chỉ có nhiệm vụ giảng dạy mà cịn có nhiệm
vụ quản lí lớp học và theo dõi sự tiến bộ của học sinh, bao gồm cả những học
sinh giỏi, học sinh có năng khiếu, học sinh yếu kém để khích lệ, động viên và
có phương pháp dạy học thích hợp.
Với vai trị quan trọng trên, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được tầm
quan trọng của tri thức lịch sử, thấy được cái hay, cái đẹp, sức hấp dẫn của
các sự kiện lịch sử để từ đó hình thành những tình cảm trân trọng và u thích
mơn lịch sử.
Thứ năm là điều kiện dạy học: Để có giờ học hiệu quả và gây được
hứng thú học tập, người giáo viên khơng chỉ có kiến thức chun mơn sâu
rộng, có phương pháp dạy học tốt mà cần phải có đầy đủ điều kiện dạy học.
Điều kiện dạy học ở đây là cơ sở vật chất, phương tiện dạy học. Nếu có điều
kiện dạy học tốt thì người giáo viên mới có thể phát huy được hết khả năng và
thực hiện được mục đích sư phạm đề ra, nhất là đối với các phương pháp dạy
học hiện đại. Phương tiện dạy học là “nguyên tắc vàng” cho hoạt động tư duy
của người học. Phương tiện dạy học giúp người học có thơng tin đầy đủ và
sâu sắc hơn về đối tượng nghiên cứu, làm tăng tính tích cực của người học.
Phương tiện dạy học có ý nghĩa to lớn trong q trình dạy học, tuy
nhiên khơng phải cứ sử dụng phương tiện dạy học là có tác dụng dạy học –
25
giáo dục. Phương tiện dạy học chỉ là công cụ hỗ trợ cho hoạt động dạy học.
Tác dụng của phương tiện dạy học phụ thuộc vào khả năng sử dụng của người
giáo viên.
Trên đây là các biểu hiện của hứng thú học tập lịch sử. Tuy nhiên để
tạo được hứng thú học tập lịch sử, ngoài yếu tố quan trọng từ phía giáo viên,
từ chính bản thân học sinh thì hứng thú được tạo nên còn bởi sự hấp dẫn của
đối tượng. Theo tâm lý học “Hứng thú là hiện tượng cảm xúc, nó liên quan
đến tình cảm”. Vì vậy hứng thú không tự nhiên sinh ra và cũng không phải do
ý thức chủ quan của cá nhân phải có, mà nó được hình thành nên khi đối
tượng làm cho ta xúc động, động chạm đến tình cảm làm cho chúng ta cảm
thấy thích thú.
1.1.2. Xuất phát điểm của vấn đề
1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn lịch sử ở trường phổ thông
Lịch sử là hồn phách của dân tộc. Mục tiêu bộ môn lịch sử ở trường
THPT được xây dựng trên cơ sở mục tiêu giáo dục, mục tiêu cấp học, quan
điểm, đường lối của Đảng về sử học và giáo dục. Mục tiêu của bộ môn lịch sử
trường phổ thơng nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần
thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế
giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân
tộc, cách mạng, bồi dư ng năng lực tư duy, hành đông, thái độ ứng xử đúng
đắn trong đời sống xã hội.
Mục tiêu của việc dạy học lịch sử ở trường THPT thể hiện qua ba
nhiệm vụ cơ bản: giáo dư ng, giáo dục và phát triển.
+ Giáo dưỡng: Nhiệm vụ giáo dư ng trong mục tiêu của môn lịch sử ở
trường THPT là cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, bao gồm: sự
kiện lịch sử cơ bản, nhân vật tiêu biểu, thời gian, không gian, các khái niệm,
thuật ngữ, những hiểu biết về quan điểm lí luận sơ giản, những vấn đề về
phương pháp nghiên cứu và học tập, phù hợp với yêu cầu và trình độ học sinh.
+ Giáo dục: Trên cơ sở nội dung kiến thức cụ thể giáo dục cho học sinh
26