Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học theo moodun trong dạy học chương Hạt nhân nguyên tử Vật lý lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 120 trang )

7

MỤC LỤC

Trang
Lời cảm ơn
i
Danh mục từ viết tắt
ii
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các biểu đồ
iv
Mục lục
v
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY
DỰNG TÀI LIỆU VÀ TỔ CHỨC HƢỚNG DẪN HỌC SINH TỰ
HỌC THEO MÔĐUN


5
1.1. Đổi mới phương pháp dạy học
5
1.1.1. Tổng quan những phương hướng tiếp cận để xác định các cơ sở của
việc đổi mới PPDH

4
1.1.2. Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
7


1.2. Cơ sở lý thuyết của quá trình tự học
7
1.2.1. Khái niệm tự học
7
1.2.2. Các hình thức tự học
8
1.2.3. Chu trình tự học của học sinh
9
1.2.4. Hệ dạy học: Tự học – cá thể hóa – có hướng dẫn
10
1.3. Tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun
11
1.3.1. Thế nào là tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun
11
1.3.2. Nguyên tắc của việc xây dựng tài liệu hướng dẫn học sinh tự học
theo môđun

13
1.3.3. Biên soạn nội dung dạy học theo tiếp cận môđun
16
1.3.4. Phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
17
1.4. Thực trạng tình hình tự học của học sinh THPT
19
1.4.1. Quan điểm học tập của học sinh ở các trường THPT
19
1.4.2. Thời gian và sử dụng thời gian tự học
19
1.4.3. Khó khăn trong việc tự học
20

1.4.4. Điều kiện cần và đủ cho việc tự học
20
1.5. Thực trạng vấn đề nghiên cứu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học
theo môđun ở môn Vật lý hiện nay

20
v
8

Kết luận chương 1
22
Chƣơng 2: XÂY DỰNG TÀI LIỆU VÀ TỔ CHỨC HƢỚNG DẪN
HỌC SINH TỰ HỌC THEO MÔĐUN CHƢƠNG “HẠT NHÂN
NGUYÊN TỬ” VẬT LÝ 12


23
2.1.
Cấu trúc nội dung chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý 12
23
2.1.1. Vị trí chương “Hạt nhân nguyên tử” trong chương trình Vật lý
THPT


23
2.1.2. Sơ đồ cấu trúc nội dung chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý 12

23
2.2. Xây dựng tài liệu và hướng dẫn học sinh tự học theo môđun chương
“Hạt nhân nguyên tử” Vật lý 12



24
2.2.1. Mục tiêu dạy học của chương

24
2.2.2. Tài liệu hướng dẫn học sinh tự học theo môđun chương “Hạt nhân
nguyên tử” Vật lý lớp 12

25
2.2.3. Kế hoạch hướng dẫn học sinh tự học theo tài liệu
71
Kết luận chương 2
75
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
76
3.1. Mục đích thực nghiệm
76
3.2. Nội dung thực nghiệm
76
3.3. Đối tượng thực nghiệm
76
3.4. Phương pháp thực nghiệm 76
76
3.5. Kết quả thực nghiệm
77
3.5.1. Đánh giá về mặt định lượng
77
3.5.2. Đánh giá về mặt định tính
82

Kết luận chương 3
84
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
85
1. Kết luận
85
2. Khuyến nghị
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
PHỤ LỤC
89



vi
4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Viết tắt
Kí hiệu và chữ
1
CS
Cơ sở
2
ĐC
Đối chứng
3
GD

Giáo dục
4
GS
Giáo sư
5
GV
Giáo viên
6
HS
Học sinh
7
LLDH
Lý luận dạy học
8
Nxb
Nhà xuất bản
9
PPDH
Phương pháp dạy học
10
PTKTXH
Phát triển kinh tế xã hội
11
SGK
Sách giáo khoa
12
TH
Tự học
13
TL

Tâm lý
14
TN
Thực nghiệm
15
TNSP
Thực nghiệm sư phạm
16
THPT
Trung học phổ thông
17
TNKQ
Trắc nghiệm khách quan
18
TSKH
Tiến sĩ khoa học
ii
5

DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên các bảng
Trang
1
Bảng 2.1. Triển khai cách hướng dẫn HS tự học có sự góp mặt
của GV

71
2
Bảng 3.1. Bảng thống kê điểm số

78
3
Bảng 3.2. Xử lí kết quả (nhóm đối chứng)
78
4
Bảng 3.3. Xử lí kết quả (nhóm thực nghiệm)
79
5
Bảng 3.4. Các tham số đặc trưng
80
6
Bảng 3.5. Bảng tần suất và tần suất lũy tích
80
7
Bảng 3.6. Bảng thống kê điểm số bài kiểm tra 15 phút
81
8
Bảng 3.7. Bảng kết quả đánh giá tài liệu hướng dẫn HS tự học
theo môđun

83

iii
6

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH
STT
Tên các biểu đồ
Trang
1

Sơ đồ 1.1. Cơ sở đổi mới PPDH
6
2
Sơ đồ 1.2. Chu trình tự học
10
3
Hình 1.1. Cấu trúc môđun dạy học
12
4
Hình 1.2: Phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
17
5
Sơ đồ 2.1. Cấu trúc nội dung chương “Hạt nhân nguyên tử”
Vật lý 12

23
6
Sơ đồ 2.2. Tổng kết chương “Hạt nhân nguyên tử”
69
7
Hình 3.1. Đường phân bố tần suất
81
8
Hình 3.2. Đường phân bố tần suất lũy tích
81

iv
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Tri thức nhân loại ngày càng được mở rộng, các phát minh mới không ngừng
được công bố. Vậy nên, nếu chỉ học trên ghế nhà trường thì học sinh sẽ không bao
giờ đủ thời gian để tìm hiểu những điều đó, không thể trang bị cho bản thân mình
những kiến thức quan trọng cần cho cuộc sống và giáo viên cũng không đủ thời
gian để có thể đem hết những tri thức đó đến cho các em. Vậy nên việc tự học ở học
sinh là điều quan trọng, nhưng tự học như thế nào cho hiệu quả và sử dụng công cụ
nào để hỗ trợ cho quá trình tự học là một câu hỏi lớn.
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã tạo ra lượng
dữ liệu vô cùng lớn trong đó có không ít các tài liệu hỗ trợ cho quá trình học tập của
học sinh. Tuy nhiên điều đó không hoàn toàn tốt cho học sinh trong quá trình tự
học, tự bồi dưỡng mà trái lại nó còn làm cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình chọn lựa tài liệu học tập. Việc lựa chọn được một tài liệu học tập phù hợp
với khả năng và năng lực của học sinh là yếu tố quyết định đến kết quả tự học cũng
như niềm yêu thích học tập của học sinh. Cái mà học sinh cần bây giờ không chỉ là
một tài liệu học tập vừa sức, phù hợp với năng lực mà còn phải giúp học sinh có thể
tự đánh giá được kết quả cũng như sự tiến bộ trong học tập của mình.
Nền giáo dục của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã có nhiều sự thay
đổi trong suốt những năm qua. Càng ngày các nước càng đầu tư nhiều cho giáo dục và
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó, luôn xác định giáo dục là quốc sách hàng
đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai. Đổi mới trong giáo dục mà cụ thể hơn
là đổi mới trong việc giảng dạy, đổi mới tài liệu học tập là yếu tố căn bản quyết định sự
thành công trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Để làm được việc đó phải khắc
phục hoàn toàn lối học thụ động, lối dạy theo kiểu truyền thụ một chiều, …
Giáo viên với nhiệm vụ của mình, không chỉ là truyền thụ tri thức cho học
sinh mà còn phải đem đến cho các em sự say mê trong học tập, cung cấp cho các
em một phương pháp học tập khoa học, dạy các em biết cách tự học để tự nâng cao
kiến thức để từ đó các em có đủ tự tin để sáng tạo ra những cái mới, dám khẳng
định năng lực của bản thân.
2


Vậy để giúp cho học sinh có những bước đi ban đầu thật vững chắc trong
quá trình tự học lâu dài sau này, việc cung cấp cho các em một công cụ học tập vừa
sức, giúp các em tự kiểm chứng năng lực bản thân là yếu tố quyết định đến sự hình
thành năng lực tự học của các em.
Xuất phát từ những lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài: “Xây dựng tài liệu và tổ
chức hướng dẫn học sinh tự học theo môđun trong dạy học chương “Hạt nhân
nguyên tử” Vật lý lớp 12”.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1. Những vấn đề nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài
Ở Anh, vào những năm 1920 đã hình thành nhà trường kiểu mới, khuyến
khích hoạt động tự quản của học sinh.
Ở Hoa Kì, từ những năm 1970, gần 200 trường đã dạy học thử nghiệm giáo
viên hướng dẫn học sinh cách học, học sinh độc lập làm việc theo nhịp độ riêng phù
hợp với nhận thức của mình.
Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực của học sinh đã
được nhân rộng khắp thế giới.
2.2. Những vấn đề nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
Việc tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp dạy học sinh tiếp nhận thông tin
đã có từ xa xưa khi con người biết truyền đạt tri thức cho nhau. Cha ông ta đã có
câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” là nói về việc cần thiết của việc tự học.
Ngày nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về đổi mới trong phương pháp
dạy học với từng môn học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh. Có nhiều nhà nghiên cứu khoa học giáo dục, các nghiên cứu sinh và học viên
cao học quan tâm tới việc nghiên cứu hướng dẫn học sinh cách tự học: Nguyễn Thị
Tân víi ®Ò tµi: Hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học chương “ Động học chất
điểm ” Vật lý 10 nâng cao (Luận văn Thạc sĩ – ĐHSPHN2 - 2011). Nguyễn Thị
Kim Cương” víi ®Ò tµi: Hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học chương “ Dòng
điện xoay chiều ” Vật lý 12 nâng cao (Luận văn Thạc sĩ – ĐHSPHN2010)…
3. Mục tiêu nghiên cứu

Xây dựng được tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học
chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý lớp 12 theo môđun nhằm phát huy tính tích cực,
3

tự lực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
4. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hoạt động tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học Vật lý phổ thông.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý lớp 12.
5. Phạm vi nghiên cứu
Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học
chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý lớp 12, với học sinh ở các trường THPT.
Mẫu khảo sát: Các lớp 12 trường THPT Hoa Lư A, Hoa Lư, Ninh Bình.
6. Vấn đề nghiên cứu
Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học trong dạy học
chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý lớp 12 như thế nào để phát huy tính tích cực,
tự lực và bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
7. Giả thuyết khoa học
Nếu soạn thảo được tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học bám sát
nội dung kiến thức Vật lý và mục tiêu dạy học, đồng thời sử dụng một cách hợp lý
các hình thức tổ chức hướng dẫn học sinh tự học sẽ làm cho học sinh tự lực chiếm
lĩnh kiến thức một cách hệ thống, sâu sắc và bền vững góp phần nâng cao hiệu quả
dạy học.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết (phương pháp nghiên
cứu tài liệu, tổng hợp, phân tích, ).
- Sử dụng nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phương pháp thực
nghiệm sư phạm, điều tra, chuyên gia, phỏng vấn, ).
- Sử dụng nhóm phương pháp Toán học trong nghiên cứu khoa học giáo dục.

9. Những đóng góp mới của luận văn
- Tổng quan cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng dạy học và tổ chức việc tự
học cho học sinh THPT.
- Đề xuất một số biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho học sinh.
4

- Soạn thảo bộ tài liệu hướng dẫn học sinh tự học theo môđun chương “Hạt nhân
nguyên tử” Vật lý 12 nhằm nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu cho học sinh.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng tài liệu và tổ chức
hướng dẫn học sinh tự học theo môđun.
Chương 2: Xây dựng tài liệu và tổ chức hướng dẫn học sinh tự học theo
môđun chương “Hạt nhân nguyên tử” Vật lý 12.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
5

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG TÀI LIỆU VÀ
TỔ CHỨC HƢỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC THEO MÔĐUN
1.1. Đổi mới phƣơng pháp dạy học
1.1.1. Tổng quan những phương hướng tiếp cận để xác định các cơ sở của việc
đổi mới PPDH
Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là
một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên (GV).
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội
ngũ nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị

trường lao động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động, sáng tạo, tính
tự lực và trách nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết
các vấn đề phức hợp.
Đổi mới PPDH là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách giáo
dục nói chung cũng như cải cách cấp trung học phổ thông. Mục tiêu, chương
trình, nội dung dạy học mới đòi hỏi việc cải tiến PPDH và sử dụng những PPDH
mới. Trong một số năm gần đây, các trường THPT đã có những cố gắng trong
việc đổi mới PPDH và đã đạt được những tiến bộ trong việc phát huy tính tích
cực của HS. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống, đặc biệt là
thuyết trình vẫn chiếm một vị trí chủ đạo trong các PPDH ở các trường THPT
nói chung, hạn chế việc phát huy tính tích cực và sáng tạo của HS.
Một trong những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển
từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo
dục chú trọng việc hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng
tạo của người học. Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm
việc của người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở
nhà trường phổ thông.
6

Sơ đồ sau đây trình bày tổng quan những phương hướng tiếp cận để xác
định các cơ sở của việc đổi mới PPDH [4, tr. 82]

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ cơ sở đổi mới PPDH
Tuỳ theo mỗi cách tiếp cận khác nhau có thể có những quan niệm khác
nhau về đổi mới PPDH. Vì vậy có những định hướng và những biện pháp khác
nhau trong việc đổi mới PPDH. Tuy nhiên không có công thức chung duy nhất
trong việc đổi mới PPDH. Trong thực tiễn cần xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể để
xác định và áp dụng những định hướng, biện pháp thích hợp. Dựa trên khái niệm
chung về PPDH, có thể hiểu: đổi mới phương pháp dạy học là cải tiến những

hình thức và cách thức làm việc kém hiệu quả của GV và HS, sử dụng những
hình thức và cách thức hiệu quả hơn nhằm nâng cao chất lượng dạy học, phát
huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh.
Đổi mới PPDH đối với giáo viên bao gồm:
- Đổi mới việc lập kế hoạch dạy học, thiết kế bài dạy.
- Đổi mới PPDH trên lớp học.
- Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.
7

Đổi mới PPDH đối với học sinh là đổi mới PP học tập.
Đổi mới PPDH cần được tổ chức, lãnh đạo và hỗ trợ từ các cấp quản lý
giáo dục, đặc biệt là các trường phổ thông thông qua những biện pháp thích
hợp.[4,tr. 82-83]
1.1.2. Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học
Các biện pháp đổi mới PPDH rất phong phú. Sau đây là một số biện pháp
đổi mới PPDH dành cho giáo viên [4, tr. 86-87]
 Đổi mới việc thiết kế và chuẩn bị bài dạy học.
 Cải tiến các PPDH truyền thống kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học
hiện đại.
 Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề.
 Vận dụng dạy học theo tình huống.
 Vận dụng dạy học định hướng hành động.
 Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong
dạy học.
 Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo.
 Tăng cường các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn.
 Bồi dưỡng phương pháp học tập cho HS.
 Cải tiến việc kiểm tra đánh giá.
1.2. Cơ sở lý thuyết của quá trình tự học
1.2.1. Khái niệm tự học

Có rất nhiều khái niệm khác nhau về tự học:
Theo GS. Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là tự mình động não, sử
dụng các năng lực trí tuệ (Quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp ) và có khi cả
cơ bắp (Khi phải sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động
cơ, tình cảm, cá nhân sinh quan, thế giới quan (trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý
muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi) để chiếm lĩnh vực hiểu biết nào
đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”.[18]
8

Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự học cho SV trong các nhà trường
trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học, GS – TSKH Thái Duy Tuyên
viết: “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích, tổng hợp…)cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức
một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân
loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học”.[10, tr. 1]
Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/ 1998 cũng bàn
về khái niệm tự học: “Tự học là người học tích cực chủ động, tự mình tìm ra tri
thức kinh nghiệm bằng hành động của mình, tự thể hiện mình. Tự học là tự đặt
mình vào tình huống học, vào vị trí nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết
các vấn đề, thử nghiệm các giải pháp…Tự học thuộc quá trình cá nhân hóa việc
học”.[10, tr. 2]
Trong bài phát biểu tại hội thảo Nâng cao chất lượng dạy học tổ chức vào
tháng 11 năm 2005 tại Đại học Huế, GS Trần Phương cho rằng: “ Học bao giờ
và lúc nào cũng chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ
nhiều thế hệ của nhân loại thành kiến thức của mình, tự cải tạo tư duy của mình
và rèn luyện cho mình
kĩ năng thực hành những tri thức ấy”. [10,tr. 2]


Mỗi nhà nghiên cứu đều đưa ra một định nghĩa riêng về tự học, nhưng tất
cả đều có chung quan điểm: Tự học là quá trình tự giác, tích cực, độc lập chiếm
lĩnh kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người
nói chung và của chính bản thân người học nói riêng. Trong quá trình đó, người
học là chủ thể của quá trình nhận thức, nỗ lực sử dụng các năng lực trí tuệ và có
khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình để tiến hành hoạt động nhận
thức.[5, tr. 8]
1.2.2. Các hình thức tự học
Có nhiều hình thức tự học, mỗi hình thức có những ưu và nhược điểm
khác nhau, tùy hoàn cảnh thực tiễn mà người học lựa chọn hình thức tự học thích
hợp với bản thân để đem lại hiệu quả cao nhất. Có thể dẫn ra một số hình thức tự
học như [21]
9

 Tự học hoàn toàn (không có GV): Thông qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế,
học kinh nghiệm của người khác. HS gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng
kiến thức, HS khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không tự đánh giá được kết
quả tự học của mình Từ đó HS dễ chán nản và không tiếp tục tự học .
 Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: Thí dụ như học bài hay
làm bài tập ở nhà (khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của HS
phổ thông. Để giúp HS có thể tự học ở nhà, GV cần tăng cường kiểm tra, đánh
giá kết quả học bài, làm bài tập ở nhà của các em.
 Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): HS được nghe GV
giảng giải minh họa, nhưng không được tiếp xúc với GV, không được hỏi han,
không nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Với hình thức tự học này, HS
cũng không đánh giá được kết quả học tập của mình.
 Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách
xây dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn
cách tra cứu, bổ sung, làm lại cho đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần
mềm trên máy tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học HS cũng có thể gặp khó

khăn và không biết hỏi ai.
 Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của
GV ở lớp: Với hình thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu HS vẫn
sử dụng SGK như hiện nay thì các em cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự học vì
thiếu sự hướng dẫn về phương pháp học.
 Qua việc nghiên cứu các hình thức tự học ở trên thấy rằng mỗi hình thức
TH có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để nhằm khắc phục được
những nhược điểm của các hình thức tự học đã có này và xét đặc điểm của HS
chúng tôi đề xuất một hình thức tự học mới: Tự học theo tài liệu hướng dẫn và
có sự giúp đỡ trực tiếp một phần của GV gọi tắt là "tự học có hướng dẫn".
1.2.3. Chu trình tự học của học sinh
Chu trình tự học của học sinh gồm 3 giai đoạn:
10


Sơ đồ 1.2. Chu trình tự học [20, tr. 6-7]
Giai đoạn 1: Tự nghiên cứu
Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giải thích, phát hiện vấn đề, định
hướng, giải quyết vấn đề, tự tìm ra kiến thức mới (chỉ đối với người học) và tạo ra
sản phẩm thô có tính chất cá nhân.
Giai đoạn 2: Tự thể hiện
Người học tự thể hiện mình bằng văn bản, bằng lời nói, tự trình bày, bảo vệ
kiến thức hay sản phẩm cá nhân ban đầu của mình, tự thể hiện qua sự hợp tác, trao
đổi, đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy cô, tạo ra sản phẩm có tính xã hội của
cộng đồng lớp học.
Giai đoạn 3: Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác, trao đổi với các bạn và thầy cô;
người học sẽ nhận được kết luận từ thầy cô để từ đó tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm
ban đầu của mình, tự sửa sai, tự điều chỉnh thành sản phẩm khoa học (tri thức).
1.2.4. Hệ dạy học: Tự học – cá thể hóa – có hướng dẫn

Hệ dạy học “Tự học – cá thể hóa – có hướng dẫn” là hình thức dạy học
hiện đại, xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1968, do F.S.Killer và J.G.Sherman thiết
kế. Ngay khi mới ra đời nó đã thay thế cho hệ dạy học cũ “Diễn giảng –
Xemina” phổ biến ở đại học và bước đầu thay thế cho hệ dạy học “Chương trình
11

hóa” lúc đó đang là thời thượng nhưng đã bộc lộ quá nhiều nhược điểm. Ngày
nay hệ dạy học “tự học – cá thể hóa – có hướng dẫn” đã được hoàn thiện và sử
dụng phổ biến trong dạy học có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Việc học được cá thể hóa cao độ, tức là tự học – cá thể hóa, tôn trọng nhịp
độ cá nhân phù hợp với năng lực từng người.
- Việc dạy được khách quan hóa tối đa. Nghĩa là quan hệ giao tiếp dạy và
học, hệ giao tiếp giữa dạy và học, những mệnh lệnh điều khiển của dạy (kể cả
kiểm tra) đều được chuyển hóa thành ngôn ngữ viết và được đưa vào tài liệu giáo
khoa tự học của học sinh để họ chấp hành, đây chính là mặt có “hướng dẫn” chủ
yếu của tự học.
- Diễn giảng không còn giữ vai trò là nguồn thông tin xuất phát nữa mà trở
thành nguồn gây động cơ nhận thức khoa học.
- Tài liệu giáo khoa (giáo trình) được chia thành những học phần theo đơn
vị kiến thức biên soạn theo tiếp cận môđun. Học sinh phải chiếm lĩnh được đơn
vị trước mới được phép đi vào đơn vị tiếp theo.
- Mục tiêu dạy học được diễn đạt một cách cụ thể, tường minh và có tính đo
lường được dưới dạng những chuẩn mực về kiến thức và kỹ năng.
- Sử dụng những PPDH và phương tiện kỹ thuật hiện đại bên trong hoặc
đồng thời với tài liệu giáo khoa môđun hóa. Ví dụ: tài liệu giáo khoa tự học có
hướng dẫn kèm theo băng (Audio – Tutorial Work book).[19]
1.3. Tài liệu tự học có hƣớng dẫn theo môđun
1.3.1. Thế nào là tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun
1.3.1.1. Khái niệm môđun dạy học
Khái niệm môđun: Thuật ngữ môđun xuất hiện cùng với thời đại chinh phục

vũ trụ với việc sáng tạo ra các con tàu vũ trụ và lắp ráp chúng thành những trạm
nghiên cứu vũ trụ. Có thể nói: Môđun là đơn vị kỹ thuật độc lập, có khả năng lắp
ráp (hoặc tháo gỡ) với nhau tùy theo mục đích sử dụng.[14]
Khái niệm môđun dạy học: Môđun dạy học là đơn vị chương trình dạy học tương
đối độc lập, được cấu trúc một cách đặc biệt, nhằm phục vụ cho người học và chứa đựng
cả mục tiêu dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học và hệ thống công cụ đánh
giá kết quả lĩnh hội, gắn bó chặt chẽ với nhau thành một hệ toàn vẹn.[14]
12

1.3.1.2. Cấu trúc của môđun dạy học[14]
Môđun dạy học bao gồm ba phần hợp thành: Hệ vào, thân của môđun và hệ ra.

Hình 1.1. Cấu trúc môđun dạy học
Hệ vào của môđun gồm:
- Tên gọi hay tiêu đề của môđun.
- Giới thiệu vị trí, tầm quan trọng và lợi ích của việc học theo môđun.
- Nêu rõ các kiến thức, kỹ năng cần có trước.
- Hệ thống mục tiêu của môđun.
- Test vào môđun.
Thân của môđun: Bao gồm một loạt những tiểu môđun tương ứng với những
chương, đúng hơn tương ứng với mục tiêu chung hoặc một loạt những mục tiêu mà
muốn lĩnh hội được phải cần thời gian học tập từ 15 đến 40 phút.
Hệ ra của môđun bao gồm:
- Một tổng kết chung.
- Test kết thúc: Nhằm kiểm tra mục tiêu toàn bộ của môđun.
- Một hệ thống phân nhánh dẫn tới:hoặc đến đơn vị phụ đạo hoặc đến đơn vị
đào sâu thêm hiểu biết hoặc gợi ý chọn môđun tiếp theo.
1.3.1.3. Tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun
Như trên đã nói, tự học có hướng dẫn là cách mà học sinh có thể tự học, tự chiếm
lĩnh tri thức trên cơ sở tài liệu tự học có hướng dẫn được biên soạn cho người học.

Tài liệu tự học có hướng dẫn theo môđun là tài liệu được biên soạn theo
những đặc trưng và cấu trúc của một môđun. Tài liệu này bao gồm cả nội dung,
cách xây dựng (thu nhận kiến thức) và kiểm tra kết quả, giúp cho học sinh cách để
tự chiếm lĩnh tri thức, tự đánh giá được kết quả học tập. [14]


Hệ vào
Thân của
môđun
Hệ ra
13

1.3.2. Nguyên tắc của việc xây dựng tài liệu hướng dẫn học sinh tự học theo môđun
Xây dựng tài liệu hướng dẫn học sinh tự học theo môđun về cơ bản phải xây
dựng các nội dung:
A. Mục tiêu học sinh cần đạt được sau khi tự học môđun
B. Tài liệu chính học sinh cần đọc
C. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn học sinh tự học
D. Bài tập học sinh tự kiểm tra kiến thức (Bài kiểm tra lần 1)
E. Câu trả lời và nội dung kiến thức chính cần ghi nhận (Thông tin phản hồi của
giáo viên)
F. Bài tập học sinh tự kiểm tra đánh giá sau khi đã nghiên cứu thông tin phản
hồi (Bài kiểm tra lần 2)
G. Bài tập áp dụng.
1.3.2.1 Mục tiêu học sinh cần đạt được sau khi tự học
Các mục đích, yêu cầu của một môđun là những gì mà HS phải có được sau
mỗi bài học. GV cũng căn cứ vào mục đích để theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra đánh
giá HS một cách cụ thể, chính xác.Với hệ thống mục đích, yêu cầu của môđun, tài
liệu giảng dạy được biên soạn theo tiếp cận môđun trở nên khác một cách căn bản
hơn so với tài liệu biên soạn theo kiểu truyền thống vì nó chứa đựng đồng thời cả

nội dung và PPDH.
1.3.2.2 Nội dung và phương pháp dạy học
Nội dung dạy học cần được trình bày chính xác, phản ánh được bản chất nội
dung khoa học cần nghiên cứu. Tuy nhiên nó phải phù hợp với đối tượng HS phổ
thông. Vì vậy, khi biên soạn nội dung dạy học trong mỗi môđun cần phải xem xét
đối tượng HS về các mặt:
- Kỹ năng đọc sách, đọc và hiểu nội dung chương trình.
- Thái độ của các em đối với việc học tập bộ môn Vật lý nói chung và chương
“Hạt nhân nguyên tử” nói riêng như thế nào.
- Thời gian dành cho tự học ở nhà và học tập trên lớp là bao nhiêu.
1.3.2.3 Câu hỏi chuẩn bị đánh giá[20]
- Trong mỗi môđun chúng tôi thiết kế 3 loại câu hỏi
14

 Loại 1: Câu hỏi hướng dẫn HS tự học
 Loại 2: Bài tập kiểm tra kiến thức HS sau khi đã đọc tài liệu theo các hướng
dẫn trên (Bài kiểm tra lần 1).
 Loại 3: Bài kiểm tra để tự đánh giá sau khi đã chuẩn kiến thức mới (Bài kiểm
tra lần 2)
- Câu hỏi hướng dẫn HS tự học chính là hệ thống kiến thức HS phải có được sau
khi tự nghiên cứu tài liệu. Đối với HS phổ thông việc tự lĩnh hội các kiến thức trong
tài liệu là rất hạn chế, HS không biết mình phải có được những kiến thức gì sau khi
đọc xong tài liệu. Chính vì vậy, hệ thống các câu hỏi hướng dẫn HS tự học sau khi
nghiên cứu tài liệu chính là công cụ hữu hiệu để HS khắc phục nhược điểm đó.
- Bài tập kiểm tra kiến thức HS sau khi đã tự đọc tài liệu theo các hướng dẫn
trên được biên soạn dưới dạng câu hỏi nhiều lựa chọn. Những câu hỏi này nhằm
đánh giá kết quả tự học ở nhà của HS xem họ có đủ điều kiện để tiến hành tự nghiên
cứu bài mới ở trên lớp hay không. Vì vậy, các câu hỏi phải rõ ràng, tương ứng với
câu trả lời ngắn gọn để HS có thể làm xong tại lớp trong thời gian (từ 15 – 20 phút).
Nội dung các câu hỏi nên hướng vào mục đích, yêu cầu của bài học.

- Bài kiểm tra để tự đánh giá sau khi đã chuẩn kiến thức mới cũng được biên soạn
dưới dạng câu hỏi nhiều lựa chọn. Những câu hỏi này giúp HS tự đánh giá kết quả học
tập môđun. Nó đảm bảo được sự thống nhất giữa hai chức năng lĩnh hội và tự điều khiển
quá trình học tập. Những câu hỏi này phải phản ánh được mục đích của mỗi môđun, đảm
bảo cho HS kiểm tra, đánh giá được trình độ lĩnh hội của mình đối với môđun.
1.3.2.4. Bài tập áp dụng
Với bài tập áp dụng cho mỗi môđun chúng tôi thiết kế hai loại bài tập là bài
tập có hướng dẫn và bài tập tự giải có đáp số.
- Bài tập có hướng dẫn vận dụng kiến thức đã học trong bài: Các bài tập này
đều có lời giải rõ ràng, có những bài có nhiều cách giải, không chỉ giúp các em hiểu
rõ, nắm sâu kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phương pháp trình bày bài và
cách khai thác bài tập ở nhiều khía cạnh. Dạng bài tập này được sắp xếp từ dễ đến
khó, chủ yếu là các bài tập ở mức độ biết, hiểu và vận dụng; bao gồm các dạng bài
thường gặp, giúp các em có thể làm tốt các bài tập trên lớp và trong các đề thi. Các
15

bài tập phần tính toán thường có phần chú ý trình bày tóm tắt cách làm các dạng bài
tập đó, các kiến thức cần nhớ
- Bài tập có đáp số: Là các bài tập tương tự và nâng cao với bài tập mẫu. Bài
tập này yêu cầu HS tự giải và so sánh với đáp số ở cuối bài. Các bài tập này chủ yếu
là các bài tập ở mức độ vận dụng và vận dụng sáng tạo.
Như vậy, mỗi môđun với cấu trúc như trên thì HS tự học thuận lợi hơn rất
nhiều so với một phần tương ứng trong tài liệu cũ. Có được kết quả đó là do khi
bước vào mỗi tiểu môđun thì hệ thống mục đích, yêu cầu đã được định hướng rõ nét
cái mà HS cần phải học. Tiêu chuẩn đánh giá sẽ xác định cái mà HS cần phải đạt.
Nội dung dạy học trình bày trong tiểu môđun rõ ràng hơn, rành mạch hơn trong tài
liệu cũ. Chính nhờ các tiểu môđun mà việc học tập của tập thể HS được phân hóa.
Qua mỗi tiểu môđun, việc học của tập thể HS lại được phân hóa một lần qua kiểm
tra của GV. Đây có thể nói chính là điểm cơ bản của tài liệu mới.
Ngoài ra, SGK Vật lý được coi là một trong những nguồn cung cấp tri thức

cơ bản cho HS và là phương tiện để GV tổ chức các hoạt động dạy học nhằm nâng
cao chất lượng kiến thức, rèn luyện khả năng tự học, tự lĩnh hội kiến thức cho HS.
SGK Vật lý ở nước ta hiện nay là tài liệu được văn bản hóa có chứa đựng: mục tiêu,
nội dung và phương pháp dạy học, nhưng tất nhiên là nặng về nội dung bài học.
Với tài liệu tự học có hướng dẫn trong luận văn này, ngoài những nguyên tắc chung
về việc xây dựng nội dung, cấu trúc chương trình Vật lý THPT, tôi còn đặc biệt chú
ý các nguyên tắc sau:
- Đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù hợp về nội dung kiến thức với đối
tượng sử dụng tài liệu.
- Đảm bảo tính logic, tính hệ thống của kiến thức.
- Đảm bảo tăng cường vai trò chủ đạo của lý thuyết.
- Đảm bảo được tính hệ thống của các dạng bài tập
- Trình bày tinh gọn, dễ hiểu, cấu trúc rõ ràng, có hướng dẫn học tập cụ thể,
thể hiện rõ nội dung kiến thức trọng tâm, gây được hứng thú cho HS.
Chương trình học của HS được thực hiện qua việc thực hiện “Tài liệu tự học
có hướng dẫn”. Mỗi bộ tài liệu tự học có hướng dẫn thực hiên một nhiệm vụ học tập
nhất định tương đối tổng quát. Trật tự sắp xếp tài liệu này phù hợp với việc khám
phá kiến thức mới của HS.
16

Riêng đối với môđun tổng kết chương, để đẩy mức độ tự học, tự bồi dưỡng
của học sinh lên một mức cao hơn chúng tôi đã đề ra loại bài tập: cho học sinh tự đề
xuất ra các đề bài tập áp dụng công thức có sẵn.
1.3.3. Biên soạn nội dung dạy học theo tiếp cận môđun
1.3.3.1. Khái niệm tiếp cận môđun
Trong giáo dục, tiếp cận môđun gắn liền với tư tưởng công nghệ dạy học, nó
là cách thức hiện đại của việc cấu trúc hay tổ chức biên soạn nội dung dạy học sao
cho chương trình đào tạo trở nên mềm dẻo hơn, dễ dàng thích hợp hơn với việc tổ
chức học tập vừa đa dạng vừa luôn biến động.
Ngày nay người ta cần thiết kế ra những hệ dạy học có khả năng cung cấp

cho người học những cơ hội có thể học lên theo nhịp độ cá nhân, được cá thể hóa và
phân hóa cao độ, vừa mềm dẻo, vừa đa dạng. Những hệ dạy học này cho phép
người học có thể từ bỏ nó, rồi đến lúc có điều kiện lại quay trở lại với nó, hoặc
chuyển sang một hệ dạy học liên thông khác.
Tiếp cận môđun ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu cho hệ dạy học như thế.
1.3.3.2. Các đặc trưng cơ bản của môđun dạy học
Môđun dạy học có 4 đặc trưng cơ bản sau: [22]
 Nó bao gồm 1 tập hợp những tình huống dạy học, được tổ chức xoay quanh
một chủ đề trí dục được xác định tường minh.
 Nó được định hướng bởi hệ thống mục tiêu dạy học được xác định cụ thể rõ
ràng và có thể đo lường được.
 Nó chứa đựng hệ thống những text điều khiển quá trình dạy học, nhằm đảm
bảo thống nhất hoạt động dạy, họat động học và cả việc kiểm tra – đánh giá (liên hệ
nghịch) để phân hóa con đường lĩnh hội tiếp theo.
 Nó phải có khả năng thích nghi tốt với những hệ dạy học phân hóa - cá thể
hóa, tức là chứa đựng nhiều con đường lĩnh hội, theo những cách thức khác nhau để
chiếm lĩnh cùng một nội dung trí dục, đảm bảo cho người học tiến lên theo nhịp độ
riêng, đi tới mục tiêu chung (có thể nhanh hoặc chậm và chỉ khi nào xong môđun
trước mới được phép học môđun tiếp theo).

17

1.3.4. Phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
Nội dung chính của phương pháp dạy học này là nhờ các môđun mà HS
được dẫn dắt từng bước để đạt tới mục tiêu dạy học. Khi đó, nhờ nội dung dạy học
được phân nhỏ ra từng phần, kết hợp với hệ thống mục tiêu chuyên biệt và hệ thống
test, HS có thể tự học và tự kiểm tra mức độ nắm vững các kiến thức, kỹ năng và
thái độ trong từng môđun. Với cách học này, mỗi học sinh có thể tự học theo nhịp
độ riêng của mình. [23]
Trong phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun thì GV chỉ giúp đỡ khi

cần thiết, chẳng hạn như giải đáp các thắc mắc, sửa chữa những sai sót của HS, động
viên các em học tập. Kết thúc mỗi môđun, GV đánh giá kết quả học tập của HS: nếu
đạt, HS chuyển sang môđun tiếp theo; nếu không đạt, HS thảo luận với GV về những
khó khăn của mình và sẽ học lại phần nào đó của môđun với nhịp độ riêng.

Hình 1.2. Phƣơng pháp tự học có hƣớng dẫn theo môđun
Giới thiệu cách dùng môđun
HS nghiên cứu môđun thứ nhất
để giải quyết vấn đề đã đề ra
Hs tự học tập theo nhịp độ riêng của
mình
HS tự đánh giá bằng các test trung
gian
GV đánh giá bằng các test kết thúc
Nghiên cứu môđun tiếp theo
GV giúp đỡ khi
cần thiết
Không đạt
Đạt
18

1.3.4.1. Ưu điểm của phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
- Giúp học sinh học tập ở lớp và ở nhà có hiệu quả vì môđun là tài liệu tự học học
sinh có thể mang theo mình để học tập bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào có điều kiện.
- Tạo điều kiện cho học sinh học tập với nhịp độ cá nhân, luyện tập việc tự
đánh giá kết quả học tập, học tập theo cách giải quyết vấn đề, do đó nâng cao được
chất lượng dạy học thực tế.
- Tránh được sự tuỳ tiện của giáo viên trong quá trình dạy học vì nội dung và
phương pháp dạy học đều đã được văn bản hoá.
- Cập nhật được những thông tin mới về khoa học và công nghệ do đó có điều

kiện thuận lợi trong việc bổ sung nội dung mới và tài liệu dạy học (nhờ các môđun
phụ đạo).
- Cho phép sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy, theo dõi kèm cặp một cách tối
ưu tuỳ theo mức độ phức tạp của nhiệm vụ dạy học.
- Đảm bảo tính thiết thực của nội dung dạy học.
- Đảm bảo được tính vững chắc của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo vì người học tự
chiếm lĩnh nó, đồng thời hình thành và rèn luyện được thói quen tự học để họ tự đào
tạo suốt đời.
1.3.4.2. Nhược điểm của phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
- Việc thiết kế hệ thống môđun dạy học và biên soạn tài liệu dạy học theo
môđun khá công phu và tốn kém. Cần khoảng 5 đến 7 giờ biên soạn môđun dạy học
cho một giờ học .
- Đòi hỏi học sinh phải có động cơ học tập tốt, có năng lực học tập nhất định (vì tự
học đòi hỏi họ có trình độ và sự nỗ lực cao hơn các phương pháp học tập khác).
- Có thể nảy sinh tâm lý buồn chán do tính đơn điệu của việc tự học.
- Không thích hợp với việc rèn luyện kỹ năng làm việc theo nhóm.
1.3.4.3. Các tình huống sử dụng
Với các ưu, nhược điểm nói trên có thể sử dụng phương pháp tự học có
hướng dẫn theo môđun trong các trường hợp sau:
- Dạy học những nội dung quan trọng với nhiều đối tượng theo học (cần đặc
biệt quan tâm tới môn chung, các môn cơ bản và cơ sở chuyên nghành).
19

- Dạy học những nội dung, kiến thức có liên quan nhiều đến nội dung đã được
học ở lớp dưới, các kiến thức nâng cao cập nhật không nhiều và không quá khó.
- Dạy học những nội dung có tính biến động cao, thường xuyên phải đổi mới
vì môđun có khả năng lắp ghép và tháo gỡ nên có nhiều thuận lợi trong việc thay
đổi nội dung, chương trình dạy học.
- Khắc phục những nhược điểm của hệ thống dạy học cũ như: đồng loạt,
không phân hoá, không tiến triển theo nhịp độ cá nhân.

- Đặc biệt rất phù hợp cho hình thức đào tạo giáo dục từ xa nếu kết hợp với
hình thức biên soạn tài liệu dạng mở.
1.4. Thực trạng tình hình tự học của học sinh THPT
Tiến hành điều tra 240 HS (120 HS lớp 10 và 120 HS lớp 11) trường THPT
Hoa Lư A về tình hình tự học của HS (theo phiếu điều tra trong phần phụ lục 1) tôi
đã tổng hợp rút ra một số kết quả sau
1.4.1. Quan điểm học tập của học sinh ở các trường THPT
- 22/240 HS (9,16%) cho rằng tự mình nghiên cứu là chính.
- 51/240 HS (21,25%) cho rằng chỉ cần học trên lớp là đủ.
- 167/240 HS (69,59%) cho rằng cần dành thêm nhiều thời gian tự học có sự
hướng dẫn của thầy cô.
Từ các số liệu trên cho thấy phần lớn HS đều xác định được việc học trên lớp
là chưa đủ, nhưng tự mình nghiên cứu lại gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là với
những HS có học lực yếu và trung bình. Kết quả điều tra cũng cho thấy việc tự học
của các em là vô cùng cần thiết, kèm theo đó là sự chỉ dẫn, định hướng của GV.
1.4.2. Thời gian và sử dụng thời gian tự học
Thời gian tự học:
- 158/240 HS (65,83%) đã sử dụng nhiều hơn 3 giờ tự học mỗi ngày;
- 69/240 HS (28,75%) đã sử dụng từ 2 đến 3 giờ mỗi ngày để tự học;
- 13/240 HS (5,42%) đã sử dụng ít hơn 2 giờ mỗi ngày để tự học.
Sử dụng thời gian tự học:
- 146/240 HS (60,83%) dùng để đọc lại bài trên lớp;
- 63/240 HS (26,25%) dùng để chuẩn bị bài trên lớp theo hướng dẫn;
- 31/240 HS (12,92%) dùng để tìm mọi vấn đề có liên quan đến bài học.
20

1.4.3. Khó khăn trong việc tự học
- 71/240 HS (29,58%) cho là chưa có tài liệu học tập, tài liệu tham khảo và
phương pháp học tập hợp lý.
- 124/240 HS (51,67%) cho là thiếu sự hướng dẫn cụ thể cho việc tự học.

- 40/240 HS (16,67%) cho là chưa có sự giám sát, kiểm tra, đánh giá hiệu quả
của việc tự học.
Như vậy, từ các kết quả điều tra cho thấy việc tự học của HS ở THPT còn
hạn chế do những khó khăn trong quá trình tự học. Phần lớn HS đều thiếu sự định
hướng trong việc tìm và lựa chọn tài liệu, thiếu phương pháp tự học hợp lý dẫn đến
kết quả tự học chưa cao, đôi khi lại là nguyên nhân góp phần làm các em nản chí.
Bên cạnh đó nhiều GV cũng chưa khuyến khích năng lực tự học của HS nên dẫn
đến việc tự học của các em còn nhiều hạn chế.
1.4.4. Điều kiện cần và đủ cho việc tự học
Tổng hợp các kết quả điều tra cho thấy HS rất cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ
trong học tập (cụ thể ở đây là quá trình tự học): học cái gì? Học như thế nào? Làm
thế nào để đạt được kiến thức mình muốn có trước khối lượng kiến thức rất lớn,
nhiều nguồn thông tin?
Như vậy, có thể thấy ngoài điều kiện về thời gian (mà đa số học sinh đã đáp
ứng được) thì điều kiện cần và đủ cho việc tự học ở đây chính là GV cần có tài liệu
và phương pháp phù hợp giúp cho HS cách thức để tự học, tự thu thập kiến thức
một cách chủ động hơn.
1.5. Thực trạng vấn đề nghiên cứu và tổ chức hƣớng dẫn học sinh tự học
theo môđun ở môn Vật lý hiện nay
Tổ chức cho HS tự học bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun
sẽ góp phần thực hiện được một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy
học là bồi dưỡng cho người học phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Đi theo hướng
nghiên cứu này trong lĩnh vực nghiên cứu về phương pháp dạy học Vật lý có thể kể
đến công trình sau:
- Luận án Phó tiến sĩ khoa học Sư phạm – Tâm lý của NCS Phạm Văn Lâm
(1995): “Nâng cao chất lượng thực tập Vật lý đại cương ở trường Đại học kĩ thuật
bằng phương pháp tự học có hướng dẫn theo môđun”.

×