Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và những tác động đến quan hệ thương mại Việt - Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 119 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



Nguyễn Văn Thái



KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN – TRUNG QUỐC
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
VIỆT - TRUNG



Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế Quốc tế
Mã số: 60 31 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Thái Quốc




HÀ NỘI – 2008



1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ACFTA ASEAN - China Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc
APEC Asia - Pacific Economic Diễn đàn hợp tác kinh tế
Cooperation Forum Châu Á - Thái Bình Dƣơng
ASEAN Association of Southeast Hiệp hội các quốc gia Đông
Asian Nations Nam Á
BFTA Bilateral Free Trade Agreement Hiệp định mậu dịch tự do
song phƣơng
CAFTA Central American Free Trade Khu vực mậu dịch tự do
Area Trung Mỹ
CEPT Common Effective Preferential Chƣơng trình ƣu đãi thuế
Tariffquan có hiệu lực chung
EHP Early Harvest Program Chƣơng trình thu hoạch ớm
EU European Union Liên minh Châu Âu
FTA Free Trade Agreement Hiệp định thƣơng mại tự do
GATS General Agreement on Trade in Hiệp định chung về thƣơng
Services mại dịch vụ
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
MFN Most Favored-Nation Quy chế tối huệ quốc
NAFTA North American Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
Bắc Mỹ
RFTA Regional Free Trade Agreement Hiệp định mậu dịch tự do
khu vực
WTO World Trade Organization Tổ chức thƣơng mại
thế giới


2

DANH MỤC BẢNG BIỂU


Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc với 6 nƣớc ASEAN cũ
và Việt Nam từ 2001 đến 2006

Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 2001
– 2007

Bảng 2.3: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung
Quốc giai đoạn 2001 – 2007

Bảng 2.4: Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung Quốc
giai đoạn 2001 - 2007

Bảng 2.5: Đầu tƣ của Trung Quốc vào Việt Nam giai đoạn 2002 – 2007

















3
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH
KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 9
1.1.1 Các lý thuyết về tự do hoá thƣơng mại 9
1.1.2 Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do 14
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI ACFTA 15
1.2.1 Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế 15
1.2.2 Những yếu tố nội tại từ sự phát triển của ASEAN 20
1.2.3 Những yêu cầu trong tiến trình phát triển của Trung Quốc 21
1.2.4 Nhu cầu hợp tác kinh tế trong khu vực Đông Á 24
1.2.5 Những lợi ích của ASEAN và Trung Quốc khi hình thành ACFTA 29

CHƢƠNG 2
NHỮNG TIẾN TRIỂN CỦA ACFTA VÀ TÁC ĐỘNG
ĐỐI VỚI QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT – TRUNG
2.1 ACFTA VÀ NHỮNG TIẾN TRIỂN CỦA ACFTA 31
2.1.1 Sự ra đời của Hiệp định khung ACFTA 31
2.1.2 Nội dung cơ bản của Hiệp định khung ACFTA 34
2.1.3 Những tiến triển của ACFTA 38
2.2 TÁC ĐỘNG CỦA ACFTA ĐỐI VỚI THƢƠNG MẠI VIỆT-TRUNG 47
2.2.1 Đánh giá tác động trên lý thuyết 49

2.2.2 Đánh giá tác động trên thực tế đến thƣơng mại Việt - Trung 66




4
CHƢƠNG 3
NHỮNG GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
VIỆT - TRUNG TRONG BỐI CẢNH THỰC HIỆN ACFTA
3.1 CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƢỚC 85
3.1.1 Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc 85
3.1.2 Xây dựng chiến lƣợc phát triển thƣơng mại Việt – Trung 87
3.1.3 Tăng cƣờng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thƣơng mại 90
3.1.4 Thúc đẩy hoạt động thƣơng mại khu vực biên giới Việt - Trung 92
3.1.5 Tăng cƣờng đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại 93
3.1.6 Giải pháp về chính sách thuế, tài chính, tín dụng 95
3.1.7 Thúc đẩy phát triển “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” 97
3.1.8 Phát triển nguồn nhân lực phục vụ hoạt động xuất khẩu 98
3.1.9 Tăng cƣờng xuất khẩu sang Trung Quốc để giảm nhập siêu 100
3.2 CÁC GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP 102
3.2.1 Nâng cao năng lực sản xuất - kinh doanh 102
3.2.2 Xây dựng chiến lƣợc “sản phẩm - thị trƣờng” 105
3.2.3 Tăng cƣờng hợp tác, liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp Việt Nam và
Trung Quốc 108
3.2.4 Tăng cƣờng hoạt động xúc tiến thƣơng mại và nâng cao chất lƣợng
nguồn nhân lực 109

KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 114










5
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 11 năm 2002, Hiệp định khung về khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) đã đƣợc ký kết. Qua quá trình hình thành và
phát triển, ACFTA có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế thƣơng
mại của các nƣớc thành viên ASEAN trong đó có Việt Nam. Mục tiêu của
ACFTA là thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa ASEAN và Trung Quốc
thông qua việc giảm các rào cản thƣơng mại và đầu tƣ, thông qua các dự án
hợp tác kinh tế và kỹ thuật. Bên cạnh đó, ACFTA cũng sẽ tạo ra một cơ chế
hỗ trợ quan trọng cho ổn định kinh tế ở khu vực Đông Á, giúp ASEAN và
Trung Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các diễn đàn thƣơng mại quốc tế và
những vấn đề hai bên có chung lợi ích.
Trung Quốc là quốc gia láng giềng với Việt Nam và đang từng bƣớc
khẳng định là một cƣờng quốc kinh tế thế giới. Do đó, thúc đẩy quan hệ kinh
tế nói chung và thúc đẩy quan hệ thƣơng mại với Trung Quốc nói riêng đã và
đang trở thành tâm điểm trong chính sách kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, tác giả đã chọn vấn đề "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc và những tác động đến quan hệ thƣơng mại Việt - Trung" để nghiên
cứu.

2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, cuộc Hội thảo khoa học do Thời báo Kinh tế Sài Gòn tổ
chức ngày 22 – 6 – 2002 là một trong những hội thảo đầu tiên về vấn đề
ACFTA kể từ khi Hội nghị các nhà lãnh đạo ASEAN – Trung Quốc phê
chuẩn đề xuất thành lập ACFTA. Đến tháng 10 năm 2005, Hội thảo Quốc tế
„Quan hệ ASEAN – Trung Quốc với phát triển thị trƣờng và thƣơng mại Việt
Nam‟ đƣợc tổ chức tại Hà Nội. Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết


6
trên các tạp chí chuyên ngành thời gian gần đây nhƣ: PGS.TSKH. Võ Đại
Lƣợc với bài Một số ý kiến về ACFTA , TS. Đỗ Tiến Sâm với bài Bước đầu
tìm hiểu về ACFTA (tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 6 – 2002); Nguyễn
Hoàng Giáp – Sự phát triển quan hệ Trung Quốc – ASEAN tác động đến
quan hệ quốc tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng (tạp chí nghiên cứu
Đông Nam Á, số 1 – 2005), Hồ Châu, Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế
đồng chủ biên – Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc: quá trình
hình thành và triển vọng, (NXB Lý luận chính trị, 2006). Các hội thảo khoa
học, các công trình, bài viết nêu trên đã đề cập một số vấn đề về nội dung, về
những thuận lợi, khó khăn, triển vọng và ảnh hƣởng của ACFTA đối với Việt
Nam và các nƣớc trong khu vực. Trên cơ sở đó tác giả đi sâu nghiên cứu một
cách toàn diện hơn về ACFTA, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc cũng nhƣ
những tác động đến quan hệ thƣơng mại Việt – Trung, đồng thời đƣa ra một
số kiến nghị chính sách của Việt Nam nhằm thúc đẩy quan hệ thƣơng mại
Việt – Trung trong bối cảnh thực hiện ACFTA.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ thực chất, nội dung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Trung Quốc và những tác động của nó đối với quan hệ thƣơng mại Việt –

Trung.
- Đề xuất một số kiến nghị chính sách nhằm thúc đẩy quan hệ thƣơng
mại Việt – Trung trong bối cảnh thực hiện ACFTA.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải vai trò của ACFTA đối với quá trình phát triển kinh tế của
các nƣớc trong khu vực.


7
- Phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức do ACFTA đem lại đối
với quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Trung Quốc.
- Đề xuất một số kiến nghị về đối sách của Việt Nam trong quan hệ
thƣơng mại với Trung Quốc khi cả hai cùng tham gia khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tƣợng nghiên cứu là mối liên hệ ACFTA và quan hệ thƣơng mại
Việt – Trung. Phạm vi nghiên cứu là từ khi bắt đầu có đàm phán để ký kết
Hiệp định khung ACFTA (tháng 11 năm 2002) cho đến cuối năm 2007.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu chính đƣợc sử dụng trong đề tài là phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh…kết hợp với thu thập và xử lý các thông tin, dữ
liệu về khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc từ đó đánh giá các tác
động đối với quan hệ thƣơng mại Việt – Trung và kiến nghị một số chính
sách của Việt Nam nhằm cải thiện quan hệ thƣơng mại Việt – Trung trong
điều kiện thực hiện ACFTA.
6. Những đóng góp của luận văn
Dự kiến luận văn có những đóng góp sau:
- Làm rõ quá trình hình thành và những tiến triển mới đây của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc
- Đánh giá tác động của việc thành lập ACFTA đối với quan hệ thƣơng

mại Việt – Trung
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển quan hệ thƣơng mại
Việt – Trung khi cả hai tham gia ACFTA.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng:


8
Chƣơng 1 - Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Chƣơng 2 – Những tiến triển của ACFTA và tác động đối với quan hệ
thƣơng mại Việt – Trung
Chƣơng 3 – Những giải pháp thúc đẩy phát triển quan hệ thƣơng mại Việt –
Trung trong bối cảnh thực hiện ACFTA .


9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ HÌNH THÀNH
KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC

1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1 Các lý thuyết về tự do hoá thƣơng mại
1.1.1.1 Lý thuyết về thƣơng mại quốc tế
Ngay từ giữa thế kỷ 16, trƣờng phái trọng thƣơng đã chú ý tới vai trò
quan trọng của ngoại thƣơng trong việc làm tăng của cải của quốc gia. Đến
thế kỷ 18, đại biểu xuất sắc của kinh tế chính trị tƣ sản cổ điển Anh Adam
Smith đã đƣa ra khái niệm "lợi thế tuyệt đối" để lý giải nhận định trên. Theo
ông các nƣớc trên thế giới buôn bán với nhau vì họ khác nhau và vì họ cùng
có lợi.Với lý thuyết "Lợi thế tuyệt đối", A.dam Smith đã chỉ ra rằng các nƣớc

có thể dựa vào sự chuyên môn hoá sản xuất và các điều kiện tự nhiên khác
nhau của mình để lựa chọn mặt hàng sản xuất phù hợp và cho năng suất cao.
Sau đó, thông qua trao đổi quốc tế thì các nƣớc đều có lợi.
Ngoài những khác biệt về điều kiện thiên nhiên và vị trí địa lý, giữa các
nƣớc còn có sự khác biệt về năng suất lao động, nhu cầu thị trƣờng, khả năng
cung ứng và sử dụng các nguồn lực. Để thể hiện đầy đủ sự khác biệt giữa các
nƣớc theo những tiêu chí nhƣ vậy, các nhà kinh tế đã đƣa ra quan điểm về lợi
thế so sánh hay lợi thế tƣơng đối. Quan điểm này đƣợc thể hiện thông qua
nhiều mô hình khác nhau, trong số đó phải kể đến mô hình Ricardo, mô hình
các yếu tố chuyên biệt của Paul Samuelson, mô hình Heckscher- Ohlin, mô
hình thương mại chuẩn. Chúng đƣợc coi là những mô hình cơ bản để giải
thích về nguồn gốc những lợi ích từ thƣơng mại.
Ra đời vào đầu thế kỷ 19, mô hình Ricardo đƣợc coi là mô hình đơn
giản nhất lý giải về nguồn gốc những lợi ích từ thƣơng mại. Mô hình này giả


10
định rằng chỉ có một yếu tố duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất - đó là
lao động và nó đƣợc di chuyển tự do từ ngành này sang ngành khác, các nƣớc
khác nhau chỉ vì năng suất lao động trong các ngành công nghiệp khác nhau
và mức lợi tức không đổi theo qui mô. Nếu không có thuế quan và chi phí vận
chuyển không đáng kể, các nƣớc thƣờng xuất khẩu hàng hoá mà họ sản xuất
có hiệu quả và nhập khẩu hàng hoá mà họ sản xuất tƣơng đối kém hiệu quả.
Điều này hàm ý rằng: “các nƣớc sẽ chuyên môn hoá vào việc sản xuất và xuất
khẩu các sản phẩm mà họ làm ra với chi phí tƣơng đối, hay chi phí cơ hội
thấp hơn các nƣớc khác” [12, 327]. Nhƣ vậy, việc chuyên môn hoá sản xuất
dựa trên cơ sở lợi thế so sánh sẽ giúp cho các nƣớc có điều kiện trao đổi hàng
hoá với nhau và làm cho họ cùng có lợi. Những lợi ích từ thƣơng mại có thể
đƣợc thể hiện thông qua việc mở rộng khả năng tiêu dùng của các bên trao đổi
và nâng cao hiệu quả sản xuất. Nhƣng nếu so sánh với thực tiễn thƣơng mại

quốc tế, mô hình này còn nhiều hạn chế và đôi khi còn đƣa ra những phán
đoán sai lệch nhƣ: Thứ nhất, việc chuyên môn hoá sản xuất hoàn toàn mà mô
hình đòi hỏi là không thể có đƣợc trong thực tiễn. Thứ hai, do giả định rằng
lao động có thể di chuyển tự do và không tốn kém giữa các ngành, mô hình
Ricardo đã đƣa ra phán đoán không sát với thực tế khi cho rằng thƣơng mại
không tác động lên sự phân phối thu nhập trong nội bộ các nƣớc. Thứ ba, mô
hình Ricardo đã bỏ qua vai trò của lợi thế nhờ qui mô - một nguồn gốc của
trao đổi quốc tế.
Để góp phần khắc phục những hạn chế trong mô hình Ricardo, Paul
Samuelson và Ronald Jones đã lý giải nguồn gốc của thƣơng mại và các lợi
ích tiềm tàng của nó thông qua mô hình các yếu tố chuyên biệt. Mô hình này
giả định rằng có nhiều yếu tố khác ngoài lao động tham gia vào quá trình sản
xuất, trong đó lao động là yếu tố linh hoạt, tức có thể tham gia vào nhiều
ngành sản xuất khác nhau, còn các yếu tố khác là chuyên biệt, tức chúng chỉ


11
tham gia vào một ngành sản xuất nhất định nào đó. Với bất kỳ mức giá nào
của sản phẩm (tức không phải do ngƣời sản xuất quyết định), mô hình các yếu
tố chuyên biệt cho thấy sự có mặt của các yếu tố chuyên biệt trong quá trình
sản xuất đã tạo điều kiện cho các nƣớc có thể thay đổi mức cung hàng hoá ra
thị trƣờng, khi họ thay đổi lƣợng yếu tố chuyên biệt đƣợc sử dụng. Do có sự
khác nhau trong cung ứng các yếu tố giữa các nƣớc, nên mỗi nƣớc sẽ chuyên
môn hoá vào việc sản xuất mặt hàng nào cần nhiều yếu tố chuyên biệt mà nó
sẵn có (nƣớc có nhiều vốn sẽ tập trung sản xuất hàng công nghiệp, còn nƣớc
có nhiều đất đai thì sản xuất hàng thực phẩm). Khi đó, thông qua thƣơng mại,
các nƣớc có thể trao đổi với nhau những hàng hoá mà họ có điều kiện sản
xuất tốt hơn.
1.1.1.2 Mô hình thƣơng mại chuẩn
Mô hình thƣơng mại chuẩn sẽ cho chúng ta một bức tranh sát với thực tế

hơn về thƣơng mại quốc tế, khi nó đặt thƣơng mại trong mối quan hệ với sản
xuất và tiêu dùng. Trong mô hình thƣơng mại chuẩn, chuyên môn hoá không
hoàn toàn đã đƣợc sử dụng để xác định khả năng sản xuất của các nƣớc. Điều
này có nghĩa là, mỗi nƣớc sẽ sản xuất nhiều hơn những mặt hàng mà nó có lợi
thế so sánh, trong khi nó vẫn sản xuất những mặt hàng khác nhƣng với số
lƣợng hạn chế. Trong mô hình này, giả thuyết nhu cầu tƣơng đối là không đổi
đã bị loại bỏ, nó đƣợc xác định từ sở thích tiêu dùng của các cá nhân và bị
giới hạn bởi khả năng thu nhập của họ.
Khi có thƣơng mại, mức cung tƣơng đối hàng hoá của thế giới đƣợc xác
định từ khả năng sản xuất của tất cả các nƣớc tham gia thƣơng mại và mức
cầu tƣơng đối - từ sở thích của chúng. Sự tăng trƣởng kinh tế ở một nƣớc (sự
mở rộng khả năng sản xuất thông qua sự gia tăng các nguồn lực hoặc cải thiện
hiệu quả sử dụng chúng) gây tác động lên phúc lợi của các nƣớc còn lại thông
qua điều kiện mậu dịch - mức giá của hàng xuất khẩu so tƣơng đối với hàng


12
nhập khẩu, theo hai hƣớng khác nhau. Khi các yếu tố khác không đổi, nếu
điều kiện mậu dịch của một nƣớc đƣợc cải thiện hơn, thì sự cải thiện đó thúc
đẩy sự tăng trƣởng ban đầu ở trong nƣớc đó, nhƣng lại gây tổn thƣơng cho
các nƣớc khác. Ngƣợc lại, khi điều kiện mậu dịch của nƣớc này giảm đi, thì
sự giảm đi đó sẽ làm mất đi một số tác động thuận lợi đến tốc độ tăng trƣởng
trong nƣớc, nhƣng lại có lợi cho các nƣớc còn lại. Hƣớng tác động lên điều
kiện mậu dịch này phụ thuộc vào bản chất của sự tăng trƣởng. Thông qua mô
hình thƣơng mại chuẩn, có thể thấy rõ thƣơng mại không những tác động
mạnh lên phân phối thu nhập trong nội bộ một nƣớc mà nó còn tác động lên
phân phối thu nhập quốc tế thông qua điều kiện mậu dịch. Mỗi nƣớc có thể
đƣợc lợi hoặc bị thiệt hại từ thƣơng mại quốc tế tuỳ thuộc vào xu hƣớng tăng
trƣởng kinh tế, việc áp dụng thuế quan nhập khẩu hay trợ cấp xuất khẩu.
Qua các mô hình thƣơng mại quốc tế, có thể đi đến kết luận rằng các

nƣớc buôn bán với nhau hoặc vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ,
hoặc vì họ khác biệt nhau về lợi thế kinh tế nhờ qui mô, hoặc vì cả hai lý do
đó. Thƣơng mại luôn mang lại lợi ích cho các nƣớc tham gia và các lợi ích
này là tiềm tàng.
1.1.1.3 Lý thuyết về chủ nghĩa khu vực mở
Từ những năm 1980 quá trình liên kết và hợp tác kinh tế ở các khu vực
và trên phạm vi toàn cầu phát triển mạnh, tự do hoá kinh tế, thƣơng mại và
đầu tƣ trở thành xu hƣớng bao trùm. Lý thuyết Chủ nghĩa khu vực mở đƣợc
APEC khởi xƣớng đã trở thành một trào lƣu kinh tế đƣợc rất nhiều nƣớc thực
hiện.
Tổ chức APEC ra đời nhƣ một đáp ứng đúng lúc đối với yêu cầu và lợi
ích của của các nền kinh tế ở Châu Á- Thái Bình Dƣơng vốn đang ngày càng
tuỳ thuộc lẫn nhau hơn. Không giống nhƣ các tổ chức khu vực khác (đặc biệt
là EU), ngay từ ban đầu, APEC không nhấn mạnh đến mục tiêu tạo lập hệ


13
thống ƣu đãi thuế quan, liên minh thuế quan hay thị trƣờng chung, mà nhấn
mạnh tới việc tăng cƣờng hệ thống thƣơng mại đa phƣơng mở. Điều này đƣợc
lý giải bởi hai lý do. Một là, APEC là tập hợp của các nền kinh tế rất đa dạng
về trình độ phát triển, chế độ chính trị- xã hội cũng nhƣ điều kiện lịch sử văn
hoá. Vì thế, các nƣớc đang phát triển nhƣ ASEAN, NIEs không muốn thành
lập khu vực tự do hoá và bị lệ thuộc một cách bất bình đẳng vào các nền kinh
tế lớn hơn, có trình độ phát triển cao hơn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, Ôxtrâylia và
Canada. Hai là, các nền kinh tế APEC đặc biệt là các nƣớc Đông Á phụ thuộc
rất lớn vào môi trƣờng kinh tế thế giới. Sự tăng trƣởng của các nền kinh tế
Nhật Bản, NIEs và ASEAN trong những năm 1970 và 1980 chủ yếu nhờ vào
sự thành công của chiến lƣợc hƣớng vào xuất khẩu, do vậy, họ rất muốn duy
trì một hệ thống thƣơng mại toàn cầu mở và ổn định. Địa phƣơng chủ nghĩa,
cát cứ, khu vực sẽ là điều bất lợi trƣớc hết đối với những thành viên APEC

có nền kinh tế, thƣơng mại phát triển cao.
Sự phục hồi và phát triển của lý thuyết chủ nghĩa tự do mới
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ 20 cho đến nay, có sự phục hồi và
phát triển mạnh mẽ của những lý thuyết kinh tế chủ nghĩa tự do mới. Các
quốc gia trên thế giới đã nhận ra rằng, để phát triển nền kinh tế của quốc gia
mình thì cần phải chấp nhận điều tiết bằng cơ chế thị trƣờng. Đó là: 1/ Thị
trƣờng khuyến khích hoạt động của kinh tế tƣ nhân, tạo thuận lợi cho một nền
kinh tế đa thành phần; 2/ Thị trƣờng có thể đáp ứng tốt nhu cầu đa dạng của
tiêu dùng và sản xuất lại ít tốn kém hơn; 3/ Thị trƣờng linh hoạt và mềm dẻo
hơn các cơ quan nhà nƣớc nên nó dễ thích nghi với những thay đổi nhanh
chóng trên thực tế.
Thực tiễn đã chứng minh không có nƣớc nào trên thế giới thành công
trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của mình mà không có nền kinh tế thị
trƣờng tự do. Đặc biệt, sự thành công của các nƣớc NIEs, ASEAN là một


14
bằng chứng cho thấy tăng cƣờng sự tự điều tiết dựa trên nguyên tắc thị trƣờng
và dỡ bỏ những rào cản để thị trƣờng phát triển tự do là một trong những
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công.
Thêm vào nữa, ngƣời ta bắt đầu cảm nhận thấy cái giá của việc không
phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật: mất đi thế
đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phƣơng; bỏ lỡ các cơ hội hƣởng lợi từ
bên ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn
cầu hoá.
Nhƣ vậy, với những cơ sở lý luận của ích lợi thƣơng mại đƣa lại cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của lý thuyết “chủ nghĩa khu vực mở” do APEC
khởi xƣớng đã thúc đẩy hơn nữa sự ra đời của các khối liên kết thƣơng mại ở
tầm khu vực và sự phục hồi tƣ tƣởng của chủ nghĩa tự do mới. ACFTA ra đời
cũng là phù hợp với xu hƣớng chung của thế giới.

1.1.2 Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do
1.1.2.1 Khu vực mậu dịch tự do
Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết thƣơng mại của hai
nƣớc hay nhiều nƣớc với nhau. Thông qua khu vực mậu dịch tự do, các nƣớc
mở rộng trao đổi buôn bán và mở rộng các hình thức hợp tác trên các lĩnh vực
kinh tế. Ngày nay khái niệm thƣơng mại có nội hàm rộng hơn nhiều, không
chỉ bó hẹp ở lĩnh vực thƣơng mại hàng hoá, mà nó còn liên quan đến đầu tƣ,
dịch vụ, sở hữu trí tuệ, thậm chí đã mở rộng đến cả các vấn đề nhƣ: lao động,
điều chỉnh việc làm, vấn đề môi trƣờng, thƣơng mại điện tử. Nội hàm của
thƣơng mại quốc tế không chỉ đƣợc mở rộng mà nội dung ngày càng sâu sắc
thêm.
1.1.2.2 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một hình thức liên kết
thƣơng mại của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Trƣớc đây đàm phán,


15
thoả thuận, thực hiện cắt giảm thuế quan, hạ thấp và xoá bỏ hàng rào phi quan
thuế là nội dung trọng tâm của AFTA. Nhƣng từ cuối những năm 1990,
AFTA đã thể hiện rõ ràng xu hƣớng mở rộng nội dung sang các vấn đề lớn
của quan hệ kinh tế quốc tế nhƣ đầu tƣ, dịch vụ, sở hữu trí tuệ liên quan đến
thƣơng mại, thƣơng mại điện tử và những vấn đề khác.
1.1.2.3 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) là hình thức
liên kết thƣơng mại giữa ASEAN và Trung Quốc. Trong Hiệp định khung, hai
bên khẳng định việc thành lập ACFTA có ý nghĩa quan trọng, không chỉ tăng
cƣờng hợp tác kinh tế vốn có giữa hai bên mà còn giúp mở rộng cơ hội mậu
dịch và đầu tƣ song phƣơng. Nội dung hợp tác của ACFTA đƣợc thoả thuận
trên rất nhiều lĩnh vực. Đó cũng là xu hƣớng chung của các khu vực mậu dịch
tự do trên thế giới, nó không nằm ngoài khuôn khổ Tổ chức Thƣơng mại thế

giới (WTO).
Mục tiêu của AFTA cũng nhƣ của ACFTA là thúc đẩy sự hợp tác kinh
tế, trao đổi buôn bán giữa các bên tham gia nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của các nƣớc trong khu vực và trên thị trƣờng thế giới. Thông qua đó
nhằm thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, nâng cao khả năng huy động và
phân bổ nguồn lực giữa các nền kinh tế nhằm thích ứng với những chuyển
biến và những điều kiện chung của thƣơng mại thế giới, thúc đẩy nền kinh tế
của các nƣớc thành viên.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CHO SỰ RA ĐỜI ACFTA
1.2.1 Sự thay đổi của bối cảnh quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hoá đang là xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ
quốc tế hiện đại. Toàn cầu hoá, khu vực hoá đã trở thành một xu thế của nền
kinh tế thế giới, trong đó tự do hoá thƣơng mại là nội dung nổi trội. Trong
thực tế, một nền kinh tế toàn cầu hoá không phải là một hiện tƣợng hoàn toàn


16
mới mẻ, nó đã đƣợc ngƣời ta nói đến cách đây khoảng một thế kỷ, khi liên kết
kinh tế quốc tế bắt đầu đƣợc phát triển. Lúc này, tính toàn cầu chỉ đƣợc thể
hiện thông qua việc cắt giảm các hàng rào thƣơng mại và đƣợc nảy sinh từ
khả năng cắt giảm chi phí vận chuyển do sự phát triển của đƣờng sắt và
đƣờng thuỷ.
Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá đã là một xu thế bao trùm của nền
kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới ngày nay không chỉ bó
hẹp trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế, mà nó còn bao gồm nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, để phát triển, mọi nƣớc trên thế giới cần
phải chấp nhận nó và cố gắng cải cách nền kinh tế của mình sao cho có thể tranh
thủ đƣợc tối đa các lợi ích mà quá trình này mang lại. Quá trình toàn cầu hoá và
khu vực hoá đƣợc tăng cƣờng rất mạnh mẽ trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, thúc đẩy nhiều tổ

chức liên kết kinh tế mở rộng. Liên minh Châu Âu (EU) mở rộng tới phía
Trung và Đông Âu. APEC có xu hƣớng dần dần thể chế hoá khu vực cho
mình. Ấn Độ đƣa ra sáng kiến thành lập tổ chức vành đai Ấn Độ Dƣơng,
nhằm tạo ra một không gian địa- kinh tế mới. Khu vực mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA) đẩy mạnh thƣơng mại từ Alaska đến Nam cực Nhƣ vậy, các
chƣơng trình tự do hóa thƣơng mại khu vực đang đƣợc phát triển rất rầm rộ.
Thông qua việc ký kết các hiệp định thƣơng mại đa bên, nhiều khối thƣơng
mại tự do đã đƣợc thành lập.
Cho đến nay, đã có trên 100 liên minh thƣơng mại ra đời, tập trung chủ
yếu ở Châu Âu và Châu Mỹ. Ở Châu Á, tuy các hiệp định thƣơng mại tự do
không nhiều (theo số liệu của JETRO thì có 3 liên minh, nhƣng theo WTO thì
có 10 vì nó bao hàm cả các liên minh chỉ mới ký kết trên giấy tờ chứ chƣa
đƣợc thực hiện), nhƣng chúng đƣợc đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt
kết quả ban đầu đáng khích lệ. Các khối thƣơng mại tự do này có thể là do các


17
nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển cùng thành lập nên nhƣ NAFTA,
APEC, MERCOSUR, Cần ghi nhận thêm rằng các khối thƣơng mại tự do
mới thành lập đều đƣợc định hƣớng ra thị trƣờng thế giới rộng lớn, chứ không
mang tính hƣớng nội nhƣ các khối thƣơng mại đƣợc thành lập trƣớc đây.
Theo các nhà nghiên cứu kinh tế, có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn
đến sự phát triển liên kết thƣơng mại khu vực. Đó là:
a) Sự gần gũi về địa lý: Do có sự gần gũi về địa lý, các nƣớc thành viên
của khối thƣơng mại tự do hy vọng trao đổi thƣơng mại giữa họ sẽ đƣợc tăng
cƣờng hơn vì chi phí vận tải và viễn thông thấp hơn, đồng thời lại đáp ứng
đƣợc yêu cầu muốn vƣơn ra thị trƣờng thế giới của các nhà sản xuất địa
phƣơng.
b) Do những nhu cầu chính trị của các nước thành viên: Các hiệp định
thƣơng mại khu vực góp phần tích cực trong việc ổn định bầu không khí

chính trị trong vùng và chống lại những mối đe doạ từ bên ngoài. Có thể
chứng minh điều này qua những ví dụ từ thực tế. Việc tham gia vào liên minh
Châu Âu đã làm giảm đến mức tối thiểu nguy cơ bùng nổ chiến tranh dƣới bất
kỳ dạng nào giữa Pháp và Đức. Mối hiềm khích giữa Achentia và Braxin đã
đƣợc xoá bỏ khi họ tham gia vào MERCOSUR. Mối quan hệ giữa các nƣớc
lớn ở vùng Châu Á- Thái Bình Dƣơng đã đƣợc cải thiện đáng kể nhờ sự ra đời
và hoạt động của APEC.
c) Đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương
trong điều kiện các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt kết quả mong
đợi: Sau khi kết thúc Vòng Urugoay, mức thuế quan trung bình trên thế giới
đã giảm đáng kể và các nƣớc bắt đầu chuyển sang đàm phán về việc xoá bỏ
các rào cản phi quan thuế cũng nhƣ các vấn đề liên quan đến hoạt động của
các thị trƣờng mở cửa nhƣ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp và
thƣơng mại dịch vụ. Thế nhƣng, đàm phán về các vấn đề này không những


18
đòi hỏi nhiều thời gian, mà trong nhiều trƣờng hợp không đạt đƣợc hiệu quả
mong muốn. Trƣớc thực tế đó, các nƣớc hy vọng thông qua các hiệp định
thƣơng mại khu vực, các vấn đề mà WTO đang cần giải quyết sẽ đƣợc giải
quyết nhanh chóng hơn, do số lƣợng thành viên ít hơn. Không dừng lại ở đó,
đa số các hiệp định thƣơng mại khu vực đƣợc hình thành hiện nay đều cố
gắng đáp ứng những yêu cầu pháp lý của WTO đến mức tối đa có thể. Để
đƣợc coi là có tính pháp lý theo WTO, các hiệp định khu vực cần đáp ứng ba
tiêu chuẩn sau: cần phải bao hàm phần lớn thƣơng mại của các nƣớc thành
viên, phải hạn chế tối đa khả năng xuất hiện các trở lực thƣơng mại mới đối
với các nƣớc không phải là thành viên và phải đạt đƣợc chế độ thƣơng mại tự
do sau một thời hạn nhất định (thƣờng là không quá 10 năm). Các liên minh
khu vực quan trọng nhƣ EU và NAFTA đã đáp ứng rất tốt các chỉ tiêu này và
chúng là nền tảng của hệ thống thƣơng mại đa phƣơng sau này. Chính vì vậy,

có thể nói các khối thƣơng mại tự do khu vực giữ vai trò bổ sung, chứ không
phải là thay thế hệ thống thƣơng mại toàn cầu.
Hiện nay, với vòng đàm phán Đô Ha đang diễn ra rất khó khăn và đặc
biệt là sự thất bại của Hội nghị Can cun gần đây cho thấy rằng, các nƣớc phát
triển và đang phát triển đã không đạt đƣợc sự đồng thuận cao trong chƣơng
trình phát triển Đô ha. Điều này là do thiếu sự nỗ lực cần thiết để củng cố vai
trò và hiệu quả của hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Đây là nguyên nhân chủ
yếu đã thúc đẩy mạnh mẽ xu hƣớng hình thành chủ nghĩa khu vực và ra đời
các FTA song phƣơng và khu vực nhƣ ACFTA, trong thời gian gần đây.[27,
74]
d) Là bước thử nghiệm để tham gia tự do hóa thương mại toàn cầu:
Trong điều kiện thế giới chƣa sẵn sàng cho thƣơng mại tự do ở mức toàn cầu,
khi tham gia một hiệp định thƣơng mại khu vực nào đó, các nƣớc thành viên
có cơ hội làm quen với tự do hoá ở cấp cao hơn và từ đó có kinh nghiệm để


19
tham gia vào hợp tác đa phƣơng. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn cho
rằng trong phạm vi tổ chức thƣơng mại khu vực, các nƣớc thành viên có cơ
hội khảo cứu và thử nghiệm các giải pháp cho các vấn đề thƣơng mại phức
tạp hơn mà hệ thống thƣơng mại toàn cầu chƣa thể đề cập đến.
Khi tham gia vào WTO, cũng nhƣ các tổ chức thƣơng mại khu vực, các
nƣớc đang phát triển có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thƣơng
mại. Hiện tại, vị thế của các nƣớc đang phát triển trong các tổ chức quốc tế
nói chung và các tổ chức thƣơng mại nói riêng đã tăng lên rõ rệt. Ngày nay,
không chỉ các nƣớc Mỹ và Châu Âu đƣợc lợi từ cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO, mà các nƣớc đang phát triển cũng bắt đầu thu lợi từ cơ chế này. Ví
dụ vào tháng 8/2003, các công ty dệt may của Mỹ yêu cầu chính phủ áp dụng
hạn ngạch đối với bốn chủng loại sản phẩm là đồ lót, quần áo ngủ, găng tay
và sợi len. Theo Viện nghiên cứu sản xuất dệt may của Mỹ, xuất khẩu của

Trung Quốc có thể khiến cho ngành công nghiệp dệt may của nƣớc này phá
sản trong vòng 5 năm tới. Trung Quốc lại thuyết phục Mỹ dỡ bỏ các biện
pháp bảo hộ và cũng tuyên bố sẽ đƣa vụ kiện ra trƣớc WTO, đồng thời có thể
trả đũa vào sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu từ Mỹ [7]. Có thể nói, các nƣớc
đang phát triển đã biết tận dụng những cơ chế trong các tổ chức thƣơng mại
nhằm xoá dần tình trạng bất bình đẳng giữa nƣớc lớn và nƣớc phát triển với
các nƣớc đang phát triển. Đây là một trong những lý do làm cho tự do hoá
thƣơng mại khu vực mở trở thành làn sóng đƣợc phát triển mạnh mẽ trên
phạm vi thế giới trong những năm gần đây.
Các khối liên kết thƣơng mại khu vực xuất hiện có nhiều nguyên nhân
nhƣ đã trình bày ở trên và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
đƣợc ra đời cũng không nằm ngoài những nguyên nhân đó. Tuy nhiên,
nguyên nhân quan trọng nhất theo các nhà nghiên cứu thì do những nhu cầu


20
về kinh tế và chính trị của các nƣớc thành viên đặc biệt là Trung Quốc khi
muốn thể hiện vai trò bá chủ của mình trong khu vực.
1.2.2 Những yếu tố nội tại từ sự phát triển của ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN ) đƣợc thành lập vào năm
1967 với sự tham gia của năm nƣớc là Thái lan, Indonexia, Malayxia,
Singapore và Philipin. Vào năm 1984, tổ chức này kết hợp thêm thành viên
thứ 6 là Brunei. Bƣớc sang thập niên 90, dƣới tác động của quá trình toàn cầu
hoá và khu vực hoá trong nền kinh tế thế giới, nhu cầu mở rộng ASEAN ra
toàn khu vực Đông Nam Á đã trở nên cấp thiết. Vì vậy, chỉ trong vòng 5 năm,
từ 1995-1999, bốn nƣớc còn lại trong khu vực là Việt Nam, Lào, Myanma và
Cămpuchia lần lƣợt trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Sự ra đời
của ASEAN là do sự tƣơng đồng về vị trí địa- kinh tế, địa- chính trị…
ASEAN là một khối kinh tế- thƣơng mại khu vực liên kết 10 quốc gia không
đồng nhất, nếu xét về tổng thể. Với 10 thành viên, ASEAN đã trở thành một

thị trƣờng khu vực rộng lớn với dân số trên 500 triệu ngƣời, diện tích gần
4,2 triệu kilômét vuông và liên kết mạnh vào nền kinh tế thế giới – xuất
khẩu của toàn khối đã đạt 6,3% tổng xuất khẩu của thế giới vào năm 1996.
Các nƣớc ASEAN không chỉ khác nhau về diện tích đất đai, dân số, thu
nhập theo đầu ngƣời, mức tăng trƣởng kinh tế và xuất khẩu, mà còn khác
nhau về thể chế chính trị và trình độ phát triển kinh tế.
ASEAN kể từ khi thành lập đã coi hợp tác kinh tế là một trong những
nội dung hợp tác chủ yếu trong các hoạt động của Hiệp hội “Thúc đẩy tăng
trƣởng kinh tế” là ƣu tiên hàng đầu trong số các mục tiêu của Hiệp hội. Từ
“Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN” thông qua năm 1976; “Tuyên bố
Singapore năm 1992” và “Hiệp định khung về tăng cƣờng hợp tác kinh tế
ASEAN ” thông qua năm 1992 và đến “Tầm nhìn ASEAN năm 2020”
thông qua năm 1997, mục tiêu và phƣơng hƣớng hợp tác kinh tế của


21
ASEAN có những thay đổi và điều chỉnh nhƣng nội dung hợp tác kinh tế
ASEAN ngày càng đƣợc mở rộng ra các lĩnh vực và hợp tác ngày càng chặt
chẽ hơn. Các chƣơng trình hợp tác của ASEAN với tính cách là một cộng
đồng khu vực mậu dịch tự do đƣợc thông qua nhƣ hợp tác về thƣơng mại,
thoả thuận ƣu đãi thƣơng mại rồi đến khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Có
thể khẳng định ASEAN coi phát triển kinh tế là một nhu cầu cấp thiết trong
đó quá trình tự do hoá thƣơng mại là việc cần thiết phải tiến hành.
Quan điểm ủng hộ tự do hoá thƣơng mại của các nƣớc thành viên
ASEAN tiếp tục đƣợc củng cố, khi họ quyết định thành lập khu vực mậu
dịch tự do ASEAN và ủng hộ triệt để tƣ tƣởng chủ đạo của APEC về “Chủ
nghĩa khu vực mở”. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã đƣợc ra
đời tại Hội nghị thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ tƣ 1-1992 tại Singapore, đánh
dấu một giai đoạn mới trong quá trình hợp tác kinh tế khu vực. Theo
“Tuyên bố Singapore” mậu dịch tự do trong nội bộ khu vực sẽ đƣợc thực

hiện vào năm 2008 và sau đó đƣợc đẩy lên sớm hơn vào năm 2003. Mục
tiêu cơ bản là “tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của ASEAN nhƣ một cơ sở
sản xuất quốc tế nhằm cung cấp hàng hoá ra thị trƣờng thế giới”.
Sự ra đời của AFTA là phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế thế
giới, phù hợp với diễn biến tình hình chính trị và an ninh trong khu vực, đáp
ứng những đòi hỏi của liên kết kinh tế khu vực trong kỷ nguyên sau chiến
tranh lạnh.
1.2.3 Những yêu cầu trong tiến trình phát triển của Trung Quốc
Cải cách của Trung Quốc bắt từ năm 1978. Tại Hội nghị Trung ƣơng 3
khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc trong khi quyết định chuyển trọng
điểm công tác của Đảng và Nhà nƣớc sang xây dựng kinh tế, đã có những
quyết sách quan trọng đối với cải cách mở cửa. Hay cải cách mở cửa là quyết
sách quan trọng quyết định vận mệnh của Trung Quốc[23]. Đặng Tiểu Bình


22
nói rằng “Xem xét kinh nghiệm lịch sử, lý do chính yếu làm cho Trung Quốc
chìm vào tình trạng đình trệ trong một thời gian dài là chính sách cô lập. Kinh
nghiệm chỉ ra rằng, sự phát triển của Trung Quốc không thể tách rời khỏi thế
giới”. Chính sách mở cửa đã thúc đẩy sự giao lƣu kinh tế, kỹ thuật và văn hoá
giữa Trung Quốc và thế giới, thúc đẩy quá trình nghiên cứu quản lý kinh tế vĩ
mô trong một môi trƣờng kinh tế mở, đẩy nhanh tiến bộ kỹ thuật và tích luỹ
kiến thức, duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế thế giới. Kết quả của
cuộc cải cách đạt đƣợc là vô cùng to lớn, với chính sách này đã làm cho Trung
Quốc, một quốc gia lớn đang phát triển, hiện thực hoá một cách thành công
phát triển kinh tế thông qua việc mở cửa ra thế giới bên ngoài; Giúp Trung
Quốc chuyển đổi một cách thành công từ một nền kinh tế kế hoạch hoá sang
kinh tế thị trƣờng; Chính sách này giúp Trung Quốc không chỉ vƣợt qua cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á và sự suy giảm kinh tế toàn cầu, mà còn thực sự
thu hút nhiều FDI nhất thế giới trong năm 2002 và 2003 cùng với tổng kim

ngạch thƣơng mại vƣợt mức 600 tỷ USD và tăng GDP ở mức 8%. [40]
Cải cách mở cửa đã thúc đẩy kinh tế – xã hội của Trung Quốc phát triển
nhanh chóng. Hơn 20 năm cải cách mở cửa là thời kỳ mà nền kinh tế – xã hội
Trung Quốc phát triển nhanh nhất, nguồn lực của đất nƣớc đƣợc tăng cƣờng
nhiều nhất, nhân dân đƣợc lợi nhiều nhất. Nền kinh tế phát triển nhanh đã thu
hẹp rất nhiều khoảng cách của Trung Quốc so với các nƣớc phát triển. Tính
theo tỷ giá hối đoái của Ngân hàng thế giới, tổng sản lƣợng kinh tế của Trung
Quốc năm 2007 đứng thứ 4 trên thế giới, chỉ sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức. Sản
lƣợng của rất nhiều sản phẩm công- nông nghiệp quan trọng của Trung Quốc
đã đứng vào nhóm các sản phẩm hàng đầu thế giới.
Có thể thấy những kết quả đạt đƣợc của Trung Quốc là vô cùng to lớn.
Từ đó tạo thế và lực cho Trung Quốc tham gia sâu sắc hơn vào nền kinh tế thế
giới. Trƣớc xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt


23
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Trung Quốc nhận ra rằng cần phải
tích cực tham gia vào quá trình này, đó là con đƣờng duy nhất để Trung Quốc
tiếp tục nhận đƣợc những lợi ích, tận dụng đƣợc thời cơ về dịch chuyển lớn
trên phạm vi toàn cầu về vốn, kỹ thuật, ngành nghề do toàn cầu hóa đem lại,
tiến hành chuyển đổi cơ cấu nguồn lực thông qua các con đƣờng nhƣ phát
triển mậu dịch, sử dụng vốn nƣớc ngoài… nhằm đẩy mạnh liên tục sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế. Ngƣợc lại, Trung Quốc rút ra khỏi quá trình này
thì sẽ không nhận đƣợc lợi ích từ toàn cầu hóa kinh tế, mà có thể sẽ rơi vào
cái vòng luẩn quẩn nhƣ trƣớc khi mở cửa, đó là: đóng cửa- lạc hậu- đóng
cửa[11]. Vì vậy, Trung Quốc hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế thế giới là một
tất yếu. Bên cạnh đó, với vị thế là một quốc gia lớn Trung Quốc cũng đang
muốn gia tăng ảnh hƣởng của mình đối với các nƣớc trong khu vực. Điều này
đã thúc đẩy sự liên kết mạnh mẽ giữa Trung Quốc với các nƣớc trong khu
vực.

Đối với Trung Quốc, xét về góc độ kinh tế, ASEAN là thị trƣờng cho
các ngành công nghiệp đang trỗi dậy của họ. Trong khi Trung Quốc tiến hành
cơ cấu lại các ngành công nghiệp của mình, một số cơ sở công nghiệp có thể
đƣợc di chuyển sang các nƣớc Đông Nam Á. Một vấn đề mà Trung Quốc
đang gặp khó khăn trên con đƣờng phát triển là nguồn nguyên, nhiên liệu. Do
đó, hợp tác, liên kết kinh tế, thành lập Khu vực mậu dich tự do Trung Quốc –
ASEAN sẽ là điều kiện để Trung Quốc tiếp cận với nguồn nguyên liệu nhƣ
dầu mỏ, gỗ, các sản phẩm nhiệt đới vốn là thế mạnh của nhiều nƣóc
ASEAN. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Trung Quốc đẩy mạnh đầu
tƣ, xuất khẩu, khai thác tiềm năng thị trƣờng nguyên liệu và du lịch của
ASEAN.


24
1.2.4 Nhu cầu hợp tác kinh tế trong khu vực Đông Á
Ngày nay, Bắc Mỹ, Châu Âu và Đông Á đã trở thành ba trụ cột của nền
kinh tế thế giới. Nhƣng trong đó Đông Á lại l à khu vực duy nhất còn lại trên
thế giới mà chƣa có một khối kinh tế khu vực nhƣ EU hoặc NAFTA. Mức độ
hợp tác kinh tế ở Đông Á lại bị xếp vào loại thấp nhất so với EU và NAFTA.
Vì vậy, gần đây nhu cầu hợp tác khu vực Đông Á đã đƣợc quan tâm. Nhu cầu
này đƣợc bắt nguồn từ sự phát triển của chủ nghĩa khu vực, từ cuộc khủng
hoảng tài chính ở Đông Á và xu hƣớng tăng cƣờng các mối quan hệ cá nhân
tại khu vực Đông Á. Hiện nay, nhiều Hiệp định mậu dịch tự do giữa các nƣớc
trong khu vực đã đƣợc ký kết, qua đó có thể thấy việc thành lập những khu
vực mậu dịch tự do ở qui mô khu vực đƣợc các nƣớc coi nhƣ một chính sách
thƣơng mại mang tính chiến lƣợc hơn là chính sách để đảm bảo an toàn trong
trƣờng hợp hệ thống thƣơng mại toàn cầu không phát huy đƣợc tác dụng. Sự
tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do của các nƣớc cũng giúp các
thành viên tích luỹ kinh nghiệm về toàn cầu hoá thông qua hội nhập kinh tế.
Bên cạnh đó, khi khủng hoảng tài chính năm 1997 đã làm cho các nƣớc

Đông Á nhận thức ra sự cần thiết phải tăng cƣờng hợp tác kinh tế trong khu
vực. Để ngăn chặn việc khủng hoảng lan ra từ nƣớc này qua nƣớc khác, các
nƣớc Đông Á đã cảm nhận đƣợc sự cần thiết phải tăng cƣờng hợp tác trong khu
vực hơn nữa.
Thêm nữa, việc phát triển những mối quan hệ cá nhân là một yếu tố
quan trọng trong việc đẩy nhanh các cuộc thảo luận diễn ra gần đây về chủ
nghĩa khu vực tại Đông Á. Cùng với việc thảo luận về hợp tác kinh tế giữa
Đông Á và Châu Âu trong khuôn khổ ASEM, các nƣớc Đông Á cũng đang
cân nhắc sự cần thiết phải củng cố lại vị thế của mình so với EU. Tại Hội nghị
thƣợng đỉnh ASEAN +3 diễn ra vào năm 1997 khi Thủ Tƣớng Mohamet
Mahathir của Malaysia mời các nhà lãnh đạo của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn

×