Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.61 KB, 120 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





LÃ VIỆT HÙNG







BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
SAU KHI GIA NHẬP WTO: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI









Hà Nội – 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



LÃ VIỆT HÙNG






BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
SAU KHI GIA NHẬP WTO: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số : 60 31 07




LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH VIỆT HOÀ





Hà Nội – 2012


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN
SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM 8
2.1. Một số khái niệm cơ bản về sở hữu trí tuệ 8
2.2. Tính tất yếu và vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế 18
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 19
1.3.1. Khuôn khổ pháp lý và chính sách kinh tế - xã hội quốc gia 19
1.3.2. Nhận thức của doanh nghiệp 20
1.3.3. Nhận thức của người dân 26
2.4. Cơ sở thực tiễn của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam 28
Chương 2: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC THỰC THI BẢO HỘ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO CAM KẾT GIA NHẬP WTO 31

3.1. Thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Trung Quốc 31
2.1.1. Bối cảnh bảo hộ sở hữu trí tuệ của Trung Quốc 31
2.1.2. Quá trình thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Trung Quốc 32
3.2. Thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Hàn Quốc 35
2.2.1. Bối cảnh bảo hộ sở hữu trí tuệ của Hàn Quốc 35
2.2.2. Quá trình thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ ở Hàn Quốc 36
2.3. Bài học kinh nghiệm 38
Chương 3: HIỆN TRẠNG VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI
VIỆT NAM 40
3.1. Khái quát về hệ thống sở hữu trí tuệ của Việt Nam 40
3.1.1. Lịch sử hình thành cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ ở
Việt Nam 40
3.1.2. Tình hình hoạt động các cơ quan quản lý nhà nước sở hữu trí tuệ
ở Việt Nam 45
3.1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về khoa học công nghệ nói chung
và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói riêng tại Việt Nam 51
3.2. Hiện trạng quy mô và tình hình phát triển trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
tại Việt Nam 59
3.2.1. Sự hình thành các cơ quan quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ ở cấp địa phương 59
3.2.2. Thực trạng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam 61
3.2.3. Các đối tượng bảo hộ của sở hữu trí tuệ 78
3.2.4. Trình độ công nghệ 79
3.2.5. Nhân lực và trình độ quản trị 80
3.2.6. Mạng lưới các cơ quan, công ty hoạt động trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ 82
4.3. Đánh giá việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam 83
Chương 4: ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC BẢO
HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ SAU KHI GIA NHẬP WTO 86
4.1. Các nguyên tắc chủ đạo trong quá trình gia nhập WTO, thực hiện các

cam kết của Việt Nam liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 86
4.1.1. Các nguyên tắc chủ đạo trong quá trình gia nhập WTO 86
4.1.2. Thực hiện các cam kết của Việt Nam liên quan đến bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ 90
4.2. Đề xuất các giải pháp nâng cao việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 93
4.2.1. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật 93
4.2.2. Phát triển các chương trình đào tạo 96
4.2.3. Nâng cao hiểu biết của công chúng 96
4.2.4. Phát triển công nghệ 97
4.2.5. Phát triển nguồn nhân lực 98
4.3. Đề nghị các bước đi tiếp theo cho việc thực hiện các cam kết với WTO
về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 100
4.3.1. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu
trí tuệ với các cơ quan có liên quan 100
4.3.2. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu
trí tuệ với các tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp và các văn phòng luật
sư, công ty luật hoạt động trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ 101
4.3.3. Tham gia các hoạt động quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ,
gia tăng hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực
sở hữu trí tuệ 102
4.4. Các kiến nghị khác 102
4.4.1. Một số kiến nghị về cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối
với hoạt động sở hữu trí tuệ 102
4.4.2. Đề nghị các bước đi tiếp theo nhằm thực hiện tốt hơn các cam kết
liên quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khi đã là thành viên chính thức
của WTO 106
KẾT LUẬN 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 111



i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 DDA Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện nay
Doha Development Agenda
2 GATS Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
General Agreement on Trade and Services
3 GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
General Agreement on Tariff and Trade
4 MFN Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Most Favoured Nation
5 NT Nguyên tắc đối xử quốc gia
National Treatment
6 TRIPS Hiệp định WTO về các khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ
Trade Related Intellectual Property Rights
7 WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
World Trade Organization












ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT Số bảng Nội dung Trang
1 Bảng 1.1 Nhóm 10 nước dẫn đầu số lượng đơn sáng
chế (trừ Mỹ)
23
2 Bảng 1.2 Số đơn sáng chế của một số nước Đông Nam
Á
24








1


MỞ ĐẦU

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, vấn đề bảo vệ quyền
sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và trở thành mối quan tâm hàng đầu trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, chống sản
xuất, buôn bán hàng giả ngày càng được quan tâm hơn. Tuy nhiên, thực tế cũng cho

thấy, tình trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ ở nước ta hiện nay vẫn khá phổ biến và
ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục có những giải pháp mạnh mẽ và có hiệu
quả hơn [17].
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới là một tất yếu khách quan đối với
bất cứ một nền kinh tế đã và đang phát triển trên thế giới. Kinh nghiệm cho thấy
trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập không có một nền kinh tế nào trên thế
giới không phải chịu những chi phí nhất định. Song thiệt thòi lớn nhất là đứng
ngoài quá trình toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra là phải xác định thời gian và mức độ hội
nhập phù hợp với tình hình kinh tế trong nước. Nếu quá sớm và quá mức thì nền
kinh tế trong nước không thích nghi kịp, ngược lại nếu quá chậm và quá ít thì sẽ bỏ
qua nhiều cơ hội do thế giới đem lại và không phù hợp với xu thế chung của thời
đại.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 01 tháng 01
năm 1995 và là một bước phát triển toàn diện của Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại (GATT). WTO quản lý các Hiệp định thương mại do các Thành viên
ký kết, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại, Hiệp định chung
về Thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Các
quy định và thủ tục của WTO tạo ra một khuôn khổ cho việc trao đổi hàng hóa,
dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Các nguyên tắc và quy định được các thành viên đàm
phán thông qua các cuộc thảo luận chính thức và không chính thức khác trong các
2


diễn đàn khác nhau của WTO và các vòng đàm phán thương mại đa phương định
kỳ như Vòng đàm phán Đôha vì sự phát triển hiện nay (DDA).
Các thành viên WTO có trình độ kinh tế khác nhau, từ những nền kinh tế
kém phát triển nhất cho tới những nền kinh tế phát triển nhất. Sự thành công của tổ
chức này được thể hiện ở sự phát triển liên tục số lượng các nước tham gia. Kể từ
khi tổ chức này được thành lập đã có hai mươi hai nước, và khi Việt Nam gia nhập

WTO, tổng số thành viên lên tới 150 (tới thời điểm tháng 01 năm 2007), chiếm trên
90% tổng thương mại toàn cầu. Các thành viên mới của châu Á gia nhập WTO
trước Việt Nam là Trung Quốc và Đài Loan, hai nền kinh tế gia nhập năm 2001 và
2002, Ácmênia (2003), Campuchia (2004) và Nêpan (2004).
Sở hữu trí tuệ là một trong 3 trụ cột của WTO. Cùng với các cam kết về
thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thì việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ là
một yêu cầu bắt buộc khi Việt Nam tham gia ký kết Hiệp định Thương mại Việt -
Mỹ và đây cũng là điều kiện để gia nhập WTO.
Gia nhập WTO thường khuyến khích việc quản lý kinh tế dựa trên các quy
định pháp lý, việc cải cách toàn diện hệ thống pháp luật của Việt Nam đã diễn ra và
rất có thể sẽ tiếp tục trong nhiều năm tới. Rõ ràng rằng các chủ thể kinh tế, kể cả tư
nhân và nhà nước – tham gia vào hoạt động thương mại, đầu tư hoặc nghiên cứu và
phát triển trong một nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc thị trường cần có một sự
đảm bảo cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ, thực thi hợp đồng, bảo vệ chống lại các
hành vi phản cạnh tranh, sự vận hành của thị trường tài chính và chứng khoán cũng
như khuôn khổ pháp luật vững chắc cho việc thành lập, hoạt động và giải thể của
các đơn vị kinh tế khác nhau.
Nhà sản xuất, kinh doanh một mặt phải lo phục vụ cho người tiêu dùng,
mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm với dịch vụ tốt nhất, giá thành rẻ
nhất, mặt khác họ phải đối mặt với nạn hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
ngày càng tinh vi. Tình trạng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đang ngày càng mở rộng
vào mọi lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, cách thức vi phạm ngày càng tinh vi làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh. Quyền lợi của người tiêu
3


dùng và nhà sản xuất, kinh doanh chân chính đang bị xâm phạm. Sau khi gia nhập
WTO, quan hệ kinh doanh quốc tế được mở rộng do vậy việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ vừa là việc cần làm để bảo hộ môi trường kinh doanh trong sạch, vừa là cách
thức bảo vệ uy tín cho Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ khi Việt Nam gia nhập WTO cho đến nay, đã có nhiều bài báo, tạp chí,
luận văn viết về những thực tế trong hoạt động của các công ty trong quá trình bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ của chính mình, các vụ việc liên quan đến việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ và các vi phạm xảy ra trong thực tế. Tuy nhiên, chưa có một
nghiên cứu tổng thể về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO
cũng như những bài học được đúc kết từ các nước trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, cùng với những kiến thức thực tế đã tích lũy được trong
thời gian làm việc tại Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ, nhận thấy
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam là một
nhu cầu bức thiết, có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. Do đó, tác giả đã lựa
chọn đề tài luận văn Thạc sỹ: “Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO:
Kinh nghiệm quốc tế và gợi ý đối với Việt Nam”
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay có một số tài liệu và tạp chí, bài viết nghiên cứu về Bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO tại Việt Nam như:
- Sửa đổi hệ thống pháp luật thực thi cam kết gia nhập WTO – Hoàng Phước
Hiệp - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số tháng 06/2007. Yêu cầu sửa đổi bổ sung hệ
thống pháp luật Việt Nam bắt nguồn trước tiên từ chính sự phát triển nội tại của đất
nước. Đến giai đoạn này, qua trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướcđặt ra
các yêu cầu buộc chúng ta phải có những bước đi bứt phá mới có thể đạt được
những gì mà thực tiễn đang chờ đợi. Bên cạnh đó cũng có những yêu cầu buộc Việt
Nam phải có những bước nhảy vọt trong thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế
và hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình để thực thi các cam kết với WTO.
- Khóa luận tốt nghiệp Đại học: Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây với
việc xây dựng và phát triển nhãn hiệu hàng hoá. Trần Thị Hồng Gấm – Trường Đại
4


học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Trên cơ sở tìm hiểu
bối cảnh, vai trò của việc xây dựng và phát triển nhãn hiệu hàng hoá của Công ty cổ

phần dược phẩm Hà Tây để tìm ra những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây
dựng và phát triển nhãn hiệu hàng hoá của công ty. Bên cạnh đó để ra các giải pháp
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả trong xây dựng và phát triển nhãn hiệu hàng
hoá của công ty.
- Luận văn Thạc sỹ: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu bằng biện
pháp dân sự. Vũ Thị Phương Giang - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Bằng
việc phân tích, tìm hiểu pháp luật Việt Nam và một số vấn đề liên quan đến bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu trên thế giới, làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn để đề xuất những giải pháp, góp phần nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự tại Việt Nam hiện nay.
- Luận văn Thạc sỹ: Vai trò của thông tin khoa học và công nghệ trong việc
quản lý và bảo hộ nhãn hiệu. Lê Toàn Thắng - Trường Đại học khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Xác định vai trò của thông tin đối với việc
xác lập, khai thác và thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thông
qua đó giúp đỡ doanh nghiệp nhận thức tốt hơn việc khai thác nguồn thông tin
nhằm giảm thiệt hại về vật chất và thời gian do tranh chấp và xâm phạm quyền đối
với nhãn hiệu.
- Thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam. Christoph Wiesner –
Tham tán phải đoàn uỷ ban Châu Âu tại Việt Nam. Việt Nam hiện có nhiều cơ quan
liên quan đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ, có lúc xảy ra tình trạng chồng chéo
hoặc ngược lại “cha chung không ai khóc“, có việc không ai ngó ngàng tới, thậm
chí mâu thuẫn trong thực hiện. Điều đó đòi hỏi phải có sự quy định rõ chức trách,
nhiệm vụ, phân công rành mạch các cơ quan chức năng, tạo ra sự liên kết tốt hơn
trong việc thực thi quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ.
- Việt Nam: điều chỉnh, bổ sung chính sách sau khi gia nhập WTO – Ngân
hàng thế giới - Chương trình hỗ trợ của Ngân hàng thế giới cho các doanh nghiệp
5


và tổ chức tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cần xem xét điều chỉnh, bổ sung

chính sách cho phù hợp nhất đối với thực tiễn Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Các tài liệu, bài báo, luận văn nêu trên chỉ đưa ra những trường hợp cụ thể
trong việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở một cơ quan, lĩnh vực, đối tượng cụ thể
hoặc phân tích một vài trường hợp điển hình và nêu các biện pháp xử lý cụ thể,
chưa nêu lên khái quát về vai trò của sở hữu trí tuệ đối với nền kinh tế sau khi gia
nhập WTO, và không có những ví dụ từ những nước trên thế giới có những điểm
tương đồng với Việt Nam, do vậy không có được những gợi ý cụ thể cho các cơ
quan nghiên cứu, cơ quan lập pháp và doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
3.1. Mục đích nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
1) Tại sao các quốc gia hiện nay cần phải thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ?
2) Một số quốc gia thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và thực hiện các
cam kết liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO như thế nào?
(tham khảo Trung Quốc, Hàn Quốc)
3) Việc thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam hiện nay như thế
nào?
4) Cần phải làm gì và có điều kiện gì để thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ?
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1) Nghiên cứu việc bảo hộ sở hữu trí tuệ của một số quốc gia sau khi gia
nhập WTO (tham khảo Trung Quốc, Hàn Quốc)
2) Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và nhiệm vụ thực hiện cam kết
liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO
6



của Trung Quốc, Hàn Quốc và liên hệ với Việt Nam. Trung Quốc hiện là một trong
nhưng quốc gia có nhiều tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tình hình vi phạm
quyền sở hữu trí tuệ tại Trung Quốc cũng làm ảnh hưởng nhiều đến thu hút đầu tư
nước ngoài mặc dù đây là thị trường hàng đầu thế giới. Hàn Quốc là một trong
những quốc gia bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mạnh nhất và điều đó dẫn đến là quốc
gia có nền văn hoá, khoa học, nghệ thuật phát triển nhất. [20]
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
của một số nước điển hình là Trung Quốc, Hàn Quốc
+ Thời gian: từ khi các nước Trung Quốc, Hàn Quốc gia nhập WTO
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tiếp cận: Luận văn sử dụng lý thuyết về so sánh để đánh giá
việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO.
- Các phương pháp sử dụng: Phương pháp khảo sát, phân tích, thống kê,
tổng hợp, so sánh. Các phương pháp này được sử dụng để lấy số liệu, phân tích,
thống kê số liệu và so sánh nhằm đưa ra bài học cho Việt Nam.
- Ngoài ra, luận văn cũng sẽ kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công
trình đã công bố và tham khảo ý kiến chuyên gia
6. Những đóng góp mới của luận văn:
Đề tài được nghiên cứu với mong muốn có những đóng góp như sau:
1) Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại
Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
2) Phân tích, đánh giá thực trạng việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam sau khi gia nhập WTO, rút ra những nguyên nhân của những tồn tại trong việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
3) Đề xuất một số giải pháp chính nhằm nâng cao việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO qua việc rút ra các bài học từ các nước
tương đồng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn

7


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ tại Việt Nam đưa ra một số khái niệm cơ bản, các nhân tố ảnh hưởng và cơ sở
thực tiễn của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Chương 2: Kinh nghiệm quốc tế trong việc thực thi bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ theo cam kết gia nhập WTO sẽ phân tích bối cảnh và quá trình bảo hộ
sở hữu trí tuệ ở Trung Quốc và Hàn Quốc qua đó đưa ra những gợi ý cho Việt Nam.
Chương 3: Hiện trạng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam khái
quát về hệ thống sở hữu trí tuệ, quy mô và tình hình phát triển trong lĩnh vực sở
hữu trí tuệ của Việt Nam.
Chương 4: Đề xuất và kiến nghị giải pháp nâng cao việc bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ sau khi gia nhập WTO đưa ra các nguyên tắc trong quá trình gia
nhập WTO, việc thực hiện các cam kết, đề xuất các giải pháp nâng cao việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, các bước đi tiếp theo cho việc thực hiện cam kết với WTO về
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.












8


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM

Việt Nam là một nước nghèo và đang phát triển, cho đến ngày hoàn toàn
thống nhất tháng 4/1975 nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa phải là nền kinh tế thị
trường. Về mặt pháp lý, ngày 14/12/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định
197/HĐBT ban hành “Điều lệ về Nhãn hiệu hàng hoá”. Đây là văn bản đầu tiên
chính thức nhắc đến vấn đề bảo hộ độc quyền trong sở hữu công nghiệp.
Sau khi Việt Nam có nền kinh tế thị trường, nhu cầu của xã hội đòi hỏi một
hệ thống pháp luật hoàn thiện về sở hữu công nghiệp, một loạt các văn bản Luật và
dưới Luật được hình thành nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, ngày 29/11/2005 Luật Sở hữu trí tuệ
(Luật số 50/2005/QH10) được Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2006.
Như vậy Luật Sở hữu trí tuệ trở thành một ngành luật độc lập trong hệ thống phát
luật nước Việt Nam. [22]
1.1. Một số khái niệm cơ bản về sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề của một quốc gia, mà nó là vấn đề lớn
của quốc tế. Sở hữu trí tuệ không còn là một cách đặt tên theo nghĩa thông thường
của một sản phẩm hay một sự vật nhất định mà là vấn đề phức tạp nằm ở ranh giới
giữa nhiều môn khoa học và tự nó đã đòi hỏi sự xác định phạm vi điều chỉnh của
pháp luật của mỗi quốc gia và toàn thế giới. Sở hữu trí tuệ là ǵì? Một câu hỏi đặt ra
không dễ trả lời với tính đa dạng, phức tạp của chính nội dung và phạm vi khoa học
được nghiên cứu và được thể hiện dưới dạng các sản phẩm trí tuệ do con người
sáng tạo ra.
Theo Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), thì những
quy định hướng dẫn của Tổ chức này chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi tất cả các thành

viên của tổ chức tuân theo một cách tích cực. Chiểu theo Điều 2 của Công ước nói
trên, thì sở hữu trí tuệ là quyền sở hữu liên quan đến:
9


- Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
- Sự biểu diễn của các nghệ sĩ, các băng, đĩa âm thành và phát thanh truyền
hình;
- Các sáng chế trong tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người;
- Các phát minh khoa học;
- Các kiểu sáng công nghiệp;
- Các nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ và tên thương mại cùng các
quyền bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh.
Danh mục các đối tượng sở hữu trí tuệ được liệt kê như trên phần nào đã
không còn phù hợp với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại,
đặc biệt là những sáng chế trong lĩnh vực công nghệ tin học, sinh học, hóa học đã
biến những điều trước kia tưởng chừng chỉ là những ước mơ nay đã trở thành hiện
thực như công nghệ thông tin, truyền hình số, máy bay vũ trụ Hơn nữa, quyền sở
hữu trí tuệ ngày nay còn được xem xét ở phạm vi rộng hơn nhiều so với những liệt
kê của WIPO; đó là các giống thực vật, mạch tích hợp, bí mật thương mại, thông tin
bí mật và các tác phẩm dân gian. Phạm vi đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ
được quy định tại phần II Hiệp định TRIPS là quyền tác giả và các quyền liên quan,
các nhãn hiệu hàng hóa, các chỉ dẫn địa lý, các kiểu dáng công nghiệp, các sáng
chế, thiết kế bố trí, các mạch tích hợp và thông tin bí mật.
Theo tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, con người ban đầu chỉ chiếm
hữu những vật thể tự nhiên phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển. Cùng với nền
sản xuất hàng hóa trong xã hội là nền sản xuất tinh thần cũng không thể thiếu được
trong mối quan hệ nhất định giữa người với người. Văn hóa sản xuất vật chất là cội
nguồn phát sinh văn hóa tinh thần của con người, giữa chúng có sự tác động trực
tiếp và gián tiếp và có mối quan hệ chặt chẽ trong suốt quá trình tiến hóa tri thức

chung của nhân loại. Do vậy, sở hữu trí tuệ là một hình thức sở hữu độc đáo, đặc
biệt xét về đặc tính của nó. Tuy nhiên, sở hữu trí tuệ không tồn tại độc lập với các
hình thức sở hữu tài sản khác.
Ngày nay, các thể chế sở hữu trí tuệ rất đa dạng và được triển khai trên quy
10


mô từng quốc gia và toàn thế giới, nó được điều chỉnh bằng những Hiệp ước và
Công ước quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả. Pháp luật của các quốc gia và quốc
tế đều quy định việc bảo hộ pháp lý các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác
giả một sản phẩm trí tuệ. Sở hữu trí tuệ được hiểu là kết quả sáng tạo của cá nhân
trên cơ sở pháp luật, trong đó quyền của chủ thể sáng tạo được độc quyền trong một
thời hạn nhất định khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt sản phẩm trí tuệ do mình tạo
ra. Tác giả còn có quyền ngăn chặn các hành vi xâm phạm hoặc cạnh tranh không
lành mạnh tới quyền sở hữu trí tuệ của mình. Theo sự liệt kê các đối tượng sở hữu
trí tuệ tại Điều 2 của Công ước thành lập WIPO, thì sở hữu trí tuệ được chia thành
hai phần sở hữu công nghiệp và quyền tác giả cùng với quyền kế cận quyền tác giả.
Theo nghĩa rộng, sở hữu trí tuệ là các quyền hợp pháp xuất phát từ hoạt động
trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Các nước
có luật pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ vì hai lý do chính. Thứ nhất là đưa ra khái niệm
luật định về quyền nhân thân và quyền tài sản của những người sáng tạo trong hoạt
động sáng tạo của họ và quyền của công chúng được tiếp cận những sáng tạo đó.
Thứ hai là để thúc đẩy hoạt động sáng tạo như biện pháp có chủ đích trong chính
sách của Chính phủ, và phổ biến cũng như áp dụng các kết quả của hoạt động sáng
tạo và khuyến khích kinh doanh lành mạnh góp phần vào sự phát triển kinh tế và xã
hội.
Nói chung, Luật Sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ người sáng tạo và những nhà
sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ khác bằng cách trao cho họ những quyền bị
khống chế về thời hạn để kiểm soát việc sử dụng những sản phẩm đó. Những quyền
này không áp dụng cho các vật thể vật chất cụ thể mà sáng tạo có thể được mang

chứa trong nó hay áp dụng, thực hiện trên nó mà chỉ áp dụng cho chính kết quả của
sáng tạo trí tuệ.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ, đối tượng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm:
1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
11


2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên
thương mại và chỉ dẫn địa lý.
3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu
nhân giống.
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người là lịch sử quá trình cách mạng
không ngừng về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mà ở đó kỹ thuật không
ngừng được đổi mới và tiến bộ bằng những sáng kiến, sáng chế, phát minh. Trong
thời đại ngày nay, các hoạt động sở hữu trí tuệ đa dạng, phong phú và đang hoạt
động trên phạm vi rộng không còn bó hẹp trong một quốc gia nào. Việc pháp luật
bảo vệ các sản phẩm trí tuệ xuất phát từ sự cần thiết để bảo vệ các quyền của con
người đã sáng tạo ra các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu sáng công nghiệp. Pháp
luật về quyền sở hữu công nghiệp tạo môi trường và đảm bảo sự tự do sáng tạo
trong việc nghiên cứu khoa học và hoạt động kỹ thuật của con người. Việc quy định
những khung pháp lý để bảo đảm cho việc sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ, bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề của một quốc gia mà là một vấn đề có tính
chất toàn cầu; không những trong lĩnh vực giá trị của những sản phẩm trí tuệ, mà
còn cả trong lĩnh vực bảo vệ sản phẩm trí tuệ của con người.
Tuy nhiên, pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp của mỗi quốc gia khác
nhau được quy định khác nhau. Sự khác nhau đó dựa trên phạm vi, tính chất đối
tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ, thời hạn và mức độ được bảo hộ. Nhưng

nhìn chung, quyền sở hữu công nghiệp mà các quốc gia quy định đều có chung
những đặc điểm là:
- Khai thác tính chất thương mại hoặc khai thác tính chất hữu ích về mặt
công nghiệp. Tính chất thương mại của một giải pháp kỹ thuật được bảo hộ có kinh
nghiệm áp dụng thương mại. Tính chất thương mại đã được thể hiện ở chính các
nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa
bao gồm các yếu tố để phân biệt được của người tiêu dùng.
Việc bảo hộ tên thương mại của các nước trên thế giới đều dựa trên những
12


cơ sở lý luận và thực tiễn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh
độc lập. Tên thương mại là những ký tự có thể đọc được và thường được thể hiện
bằng từ ngữ hoặc từ ngữ kèm theo chữ số. Các yếu tố cấu thành tên thương mại ở
dạng mô tả loại hình tổ chức hoặc hình thức tồn tại của chủ thể kinh doanh, mô tả
lĩnh vực kinh doanh hoặc mô tả xuất xứ địa lý và thành phần phân biệt được thể
hiện dưới tên riêng.
Về tên thương mại có nhiều yếu tố cấu thành và không loại trừ các yếu tố đó
được tập hợp theo sáng kiến của nhà kinh doanh như tên khai sinh của cá nhân kinh
doanh, tên đầy đủ của một doanh nghiệp. Tuy nhiên, để cho các bạn hàng dễ nhớ và
tên thương mại thường được các chủ thể kinh doanh sử dụng tên giao dịch ngắn
gọn. Tên thương mại gắn liền với việc kinh doanh của chủ thể và sự thực nó đã là
biểu trưng cho uy tín của một doanh nghiệp nhất định. Vì vậy, tên thương mại của
một chủ thể kinh doanh được coi như một quyền liên quan tới tài sản của chủ thể
đó. Đồng thời, tên thương mại là một nguồn thông tin hữu ích cho người tiêu dùng
phải được bảo hộ theo pháp luật.
Nói đến quyền sở hữu trí tuệ là nói đến một quan hệ pháp luật về quyền sở
hữu. Quyền sở hữu trước hết thuộc về phạm trù pháp lý bao gồm tổng hợp các quy
phạm pháp luật quy định về trình tự thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt một khách thể thuộc quyền sở hữu của chủ thể. Căn cứ vào khách thể

của quan hệ sở hữu thì có quan hệ sở hữu về tài sản và quan hệ về sở hữu trí tuệ.
Quan hệ sở hữu về tài sản được điều chỉnh bằng pháp luật khi nhà nước xuất
hiện trong xă hội có tư hữu về tài sản. Có thể kết luận rằng, quan hệ sở hữu tài sản
luôn đóng vai trò quyết định các mối quan hệ khác trong xã hội và quyết định bản
chất của chế độ trong một xã hội nhất định. Và suy cho cùng, mọi quan hệ của con
người trong xã hội chỉ nhằm mục đích củng cố quyền sở hữu tài sản. Để có tài sản,
con người phải không ngừng tìm những phương thức lao động mới, cải tiến công cụ
lao động và giải pháp tạo ra của cải vật chất. Trong quá trình tìm kiếm những giải
pháp lao động mới con người ngày càng hoàn thiện hơn xét trong tổng thể hình
thành tư duy của con người theo đó tài sản tạo ra ngày một nhiều, phong phú hơn
13


về chủng loại, đáp ứng nhu cầu mọi mặt về cuộc sống của con người. Đối với mỗi
xã hội khác nhau thì lại có chế độ sở hữu khác nhau. Và trong cùng một thời điểm
lịch sử phát triển của nhân loại cũng tồn tại nhiều chế độ sở hữu khác nhau. Bản
chất giai cấp về quyền sở hữu tài sản được phản ánh trong chính các quy phạm
pháp luật quy định về quyền sở hữu của mỗi quốc gia. Và nhìn chung, quyền sở
hữu tài sản có những đặc điểm pháp lý sau đây:
- Quyền sở hữu tài sản do pháp luật quy định và khách thể của quyền sở hữu
bao gồm vật và các quyền về tài sản của một người.
- Thời hạn của quyền sở hữu tài sản không bị hạn chế và đa phần tài sản của
chủ sở hữu không buộc phải đăng ký.
Quan hệ sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bằng pháp luật rất muộn so với quan
hệ về quyền sở hữu tài sản mặc dù trên thực tế đă tồn tại sự sáng tạo không ngừng
của con người trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh. Cùng với lao động
tạo ra của cải vật chất, con người còn tạo ra các sản phẩm tinh thần như các bài hát,
bài thơ, câu chuyện phản ánh cuộc sống mọi mặt của con người. Và cùng xuất phát
từ lao động tạo ra vật chất, con người tạo ra những giải pháp kỹ thuật dưới dạng
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp nhằm nâng cao hơn chất lượng

cuộc sống của mình.
Quyền sở hữu trí tuệ là một quan hệ pháp luật đặc biệt với khách thể của
quyền sở hữu trí tuệ không phải là vật cụ thể, mà là sản phẩm của lao động sáng tạo
được thể hiện dưới dạng phi vật chất. Nó chỉ được vật chất hóa khi được mang ra
áp dụng vào sản xuất, kinh doanh. Khách thể của quyền sở hữu trí tuệ được phân
làm hai nhóm chính vận dụng trong đời sống tinh thần của con người và làm phong
phú hơn nhu cầu tinh thần của con người và nhóm được áp dụng vào sản xuất, kinh
doanh tạo ra các sản phẩm vật chất mang tính công nghệ.
- Đối với nhóm sản phẩm trí tuệ ở dạng không áp dụng vào sản xuất kinh
doanh.
Khách thể của quan hệ pháp luật về quyền tác giả là những tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học đă được tác giả sáng tạo. Đó là kết quả của hoạt động
14


sáng tạo của con người được biểu hiện dưới một hình thức khách quan nhất định.
Phạm vi khách thể không phụ thuộc vào quy mô, dung lượng thông tin, khoa học,
hàm lượng trí tuệ, hình thức được biểu hiện và chất lượng tốt, xấu. Các thành quả
của sáng tạo trí tuệ rất phong phú, đa dạng thuộc các loại hình nghệ thuật khác nhau
về hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng tác phẩm có thể khác nhau.
Tác phẩm văn học - nghệ thuật, khoa học là những sản phẩm tinh thần và là
món ăn tinh thần cho bất kỳ ai tự giác tìm hiểu để tu dưỡng, để hiểu biết về để
khám phá thế giới. Hơn nữa, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học không được
thể hiện ở dạng vật chất nhất định, mà nó chỉ thông qua vật chất để thể hiện tư
tưởng của tác giả. Vì vậy, sự vi phạm quyền tác giả rất khó kiểm soát trong một
quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Quyền tác giả các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học là một bộ phận khách thể của quyền sở hữu trí tuệ cần được bảo vệ như
các tài sản khác. Nhận thức được vấn đề đó, hiện nay hầu hết các nước trên thế giới
đều ban hành luật bảo hộ quyền tác giả. Pháp luật về quyền tác giả do vậy đă được
hiểu là một công cụ pháp lý bảo hộ cho các cá nhân sáng tạo một sản phẩm trí tuệ

có quyền đứng tên tác giả, quyền đặt tên tác phẩm, quyền thay đổi nội dung tác
phẩm, quyền công bố tác phẩm và các quyền kế cận quyền tác giả.
Pháp luật của các nước đều quy định tác giả và chủ sở hữu tác phẩm đều có
quyền ngăn chặn người khác sử dụng tác phẩm của mình trái phép. Tác giả có
quyền cho người khác sao chép hoặc mô phỏng tác phẩm, biểu diễn tác phẩm trước
công chúng, dựng phim từ tác phẩm, phát thanh, truyền hình thông qua phổ biến
điện từ hoặc dây cáp, phỏng dịch hoặc chuyển thể tác phẩm. Quyền tác giả các tác
phẩm văn học - nghệ thuật, khoa học luôn thuộc về cá nhân sáng tạo ra tác phẩm.
Thường thì quyền tác giả không buộc phải đăng ký chính thức nhưng quyền đó
được bảo hộ khi có hành vi xâm phạm.
Các nước trên thế giới quy định đối tượng bảo hộ quyền tác giả khác nhau,
nội dung và thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền kế cận quyền tác giả cũng rất
khác nhau. Tuy nhiên, nhiều nước trên thế giới đã lựa chọn mô hình luật bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ theo những tiêu chuẩn chung được quy định trong Công ước
15


Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật. Theo Công ước Berne thì thuật
ngữ "các tác phẩm văn học và nghệ thuật" được hiểu rất rộng gồm tất cả các sản
phẩm trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được biểu hiện dưới bất kỳ
hình thức hay phương thức nào. Do vậy, Điều 2 của Công ước Berne không định
nghĩa thế nào là một tác phẩm văn học và nghệ thuật, mà chỉ quy định hình thức
biểu hiện của một tri thức, một lượng thông tin, một hình tượng, một động tác, một
kỹ năng sáng tạo ở một dạng nhất định. Phạm vi tác phẩm văn học - nghệ thuật
được bảo hộ rất rộng theo hình thức và tính chất thể hiện các sản phẩm trí tuệ rất
khác nhau. Tuy nhiên, theo Điều 2 của Công ước Berne thì luật pháp quốc gia
thành viên của Liên hiệp có thẩm quyền quyết định không bảo hộ các sản phẩm nói
chung hoặc những thể loại khác cụ thể nào đó, trong khi các tác phẩm đấy chưa
được ấn định trên một hình thái vật chất.
+ Đối với nhóm khách thể quyền sở hữu trí tuệ được áp dụng vào sản xuất

kinh doanh.
Những đối tượng sở hữu công nghiệp khi được áp dụng vào quá trình sản
xuất kinh doanh nó mang lại những lợi ích vật chất nhất định. Quyền sở hữu các
sản phẩm trí tuệ thuộc nhóm sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu của cá nhân, công
ty, doanh nghiệp đối với những thành quả sáng tạo như sáng chế, giải pháp hữu ích,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí các mạch tích hợp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn
hiệu địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí mật thương mại, các quyền công nghệ
sinh học và các giống thực vật. Những đối tượng trên được luật pháp của các nước
quy định đầy đủ hoặc không đầy đủ trong việc bảo hộ toàn bộ hay từng phần và có
thời hạn. Việc bảo hộ hay không bảo hộ các đối tượng nêu trên còn phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia và mức độ quan hệ của quốc gia
đó với quốc gia khác. Ngoài ra, còn do quan điểm lập pháp của mỗi quốc gia trong
lĩnh vực bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp. Nhưng nhìn chung, các nước tham gia
và các Hiệp ước quốc tế đa phương hay song phương đều quan tâm đến việc bảo hộ
và thực thi quyền sở hữu trí tuệ về nhóm đối tượng sở hữu công nghiệp. Ví dụ,
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ (TRIPS),
16


Hiệp định này quy định những thủ tục thực hiện đối với Hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới có hiệu quả cao hơn so với các thủ tục thực hiện những Hiệp
định quốc tế khác.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của sở hữu trí tuệ
TRIPS được tôn trọng áp dụng có hiệu quả với nội dung của TRIPS đã quy định
khác nhau từ các Hiệp ước quan trọng của WIPO; nhưng để thực hiện được hiệu
quả các Hiệp ước đó phải dựa vào những thủ tục giải quyết tranh chấp của Tổ chức
Thương mại thế giới. Nội dung của TRIPS quy định những chuẩn mực tối thiểu mà
các thành viên của TRIPS phải tuân thủ. Tuy nhiên, các quốc gia có quyền lựa chọn
cách thức thi hành các quy định của TRIPS cho phù hợp. Đối với những nước theo
truyền thống luận án lệ thông qua các phán quyết trước đây của toà án, thì một phần

bảo hộ đòi hỏi dành cho nhãn hiệu hàng hóa và thông tin mật được bảo đảm. Cụ thể
như Australia không có luật chung dành riêng cho việc bảo hộ những thông tin mật.
Do vậy trong một thời gian dài nước này phải sử dụng án lệ để bảo vệ thông tin mật
và thực chất, Australia đã tuân thủ những quy định của TRIPS. Nội dung Điều 1
của TRIPS đã quy định “các thành viên phải thi hành các điều khoản của Hiệp ước
này. Các thành viên có thể nhưng không bị bắt buộc áp dụng trong luật của mình có
thể nhưng không bị bắt buộc áp dụng trong luật của mình việc bảo hộ mạnh hơn so
với các quyền yêu cầu của Hiệp định này, miễn là việc bảo hộ đó không trái với các
điều khoản của Hiệp định này. Các thành viên sẽ tự do quyết định phương pháp
thích hợp nhằm thi hành các điều khoản của Hiệp định này. Các thành viên sẽ tự do
quyết định phương pháp thích hợp nhằm thi hành các điều khoản của Hiệp định này
trong hệ thống pháp luật và thực tiễn của mình”. Và khoản 2 điều luật trên quy
định: “Các thành viên phải chấp nhận cách đối xử được quy định trong Hiệp định
này đối với công dân của các thành viên khác”.
Đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu công nghiệp của các nước trên thế giới đều có chung các đặc
điểm sau:
- Quyền sở hữu công nghiệp bị giới hạn về thời gian. Luật về sở hữu công
17


nghiệp của mỗi nước chỉ quy định bảo hộ các đối tượng quyền sở hữu công nghiệp
trong một thời gian nhất định. Thời gian này là thời gian được pháp luật bảo hộ khi
có hành vi cạnh tranh hoặc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của chủ thể.
- Đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp mang tính phi vật chất. Việc áp
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp vào sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra những
loại hàng hóa mới có chất lượng cao, hình thức đẹp và đa dạng, phản ánh sức sáng
tạo của chủ thể tạo ra những sản phẩm hàng hóa, góp phần làm tăng năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế. Sự cạnh tranh giữa những nhà sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm là sự thể hiện tính chất của lưu thông hàng hóa trên thị trường của một quốc

gia và trên phạm vi toàn cầu.
- Quyền sở hữu công nghiệp không những được bảo hộ tại nước có công dân
sáng tạo ra các sản phẩm trí tuệ đó, mà các thành quả sáng tạo đó còn được bảo hộ
ở các nước thành viên của các công ước quốc tế và các hiệp ước quốc tế mà công
dân đó thuộc nước thành viên. Các Điều ước quốc tế thường thỏa thuận về một số
tiêu chuẩn cơ bản đối với việc bảo hộ từng loại quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, các
hệ thống đăng ký chung đã và đang được thiết lập để tạo điều kiện cho một đơn
đăng ký duy nhất có hiệu lực ở tất cả các nước thành viên và chỉ áp dụng thống nhất
một phương pháp trong việc phân loại các yếu tố khác nhau của quyền sở hữu trí
tuệ được đăng ký. Nguyên tắc đãi ngộ như quốc gia đã được các nước thành viên
của các Hiệp ước và Công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ tuân theo. Khái niệm đãi
ngộ như quốc gia là nội dung cơ bản của mọi Hiệp ước về sở hữu trí tuệ quốc tế.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện là mỗi quốc gia thành viên phải dành
cho người ở nước khác là thành viên của Hiệp ước sự bảo hộ tương tự như bảo hộ
dành cho công dân của nước mình. Ngoài chế độ đãi ngộ như quốc gia mà Hiệp
định TRIPS đã quy định, còn có nguyên tắc chế độ đãi ngộ tối huệ quốc cũng có
nội dung tương tự như đãi ngộ quốc gia trong trường hợp một thành viên của
TRIPS phải dành cùng một sự bảo hộ cho tất cả các thành viên của TRIPS. Ngoài
hai nguyên tắc cơ bản trên, Hiệp định TRIPS còn quy định các trường hợp ngoại lệ
được thừa nhận với điều kiện là các biện pháp đó không chống lại nội dung các quy
18


định của TRIPS.
Một đặc điểm rất quan trọng của hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của tất cả
các quốc gia trên thế giới đều chống đặc quyền hoặc chống hạn chế thương mại.
Cho đến nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được triển khai trên quy
mô quốc tế và sự hợp tác khu vực trong việc đăng ký, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đã dẫn đến việc thành lập các liên minh sở hữu trí tuệ khi vực và các cơ quan đăng
ký khu vực.

1.2. Tính tất yếu và vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Quyền sở hữu trí tuệ đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình
hình thành một nền kinh tế toàn diện và phát triển bền vững. Chứng chỉ về quyền
sở hữu trí tuệ là vật chứng bảo đảm cho thành công của mỗi doanh nhân tiến vào thị
trường thế giới. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp buộc
phải tham gia môi trường cạnh tranh quốc tế với cường độ cao, với những yêu cầu
chặt chẽ về thực thi các quy định về sở hữu trí tuệ. Đây cũng là một trong những
vấn đề mà các đối tác quốc tế quan tâm trong tiến trình đàm phán gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới của nước ta.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sở hữu trí tuệ là một công cụ đắc lực đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tiễn cho thấy, nhiều công
ty, nhiều doanh nghiệp trên thế giới đã rất thành công và trở nên nổi tiếng nhờ khai
thác có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ. Đối với các doanh nghiệp nước ta, quyền sở
hữu trí tụê cũng đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế hiện nay.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong ba cột trụ của đàm phán thương
mại quốc tế: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch vụ, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ. Sở hữu trí tuệ có thể trở thành một tài sản có giá trị của doanh nghiệp, có thể
được khai thác để tăng doanh thu và lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước.

×