Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.96 MB, 125 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




LƢƠNG NHƢ HUẾ




PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH LỄ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH






Hà Nội – 2014





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



LƢƠNG NHƢ HUẾ



PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH LỄ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI


Chuyên ngành : Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ HỒNG VIỆT


Hà Nội – 2014



Mục lục

Mục lục
Danh mục các bảng i
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN LOẠI
HÌNH DU LỊCH LỄ HỘI 10
1.1. Một số vấn đề về du lịch lễ hội 10
1.1.1. Du lịch và các loại hình du lịch 10
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm và phân loại lễ hội 13
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của du lịch lễ hội 17
1.2. Phát triển loại hình du lịch lễ hội 19
1.2.1. Khái niệm phát triển du lịch lễ hội 19
1.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá phát triển loại hình du lịch lễ hội 19
1.2.3. Nội dung phát triển loại hình du lịch lễ hội 23
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển loại hình du lịch lễ hội 30
1.3. Kinh nghiệm phát triển loại hình du lịch lễ hội của tỉnh Nam Định và một số
bài học rút ra cho công tác phát triển loại hình du lịch lễ hội 34
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển loại hình du lịch lễ hội của tỉnh Nam Định 34
1.3.2. Một số bài học rút ra cho công tác phát triển loại hình du lịch lễ hội 40
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH LỄ HỘI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 42
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tiềm năng phát triển loại hình du lịch
lễ hội tại Hà Nội 42
2.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nội ảnh hưởng đến phát triển loại
hình du lịch lễ hội 42
2.1.2. Tiềm năng phát triển loại hình du lịch lễ hội 44
2.2. Thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội
52



2.2.1. Tình hình kinh doanh du lịch ở Hà Nội 52
2.2.2. Thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội Hà Nội giai đoạn 2009-2013 59
2.3. Thực trạng quản lý phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành
phố Hà Nội 64
2.3.1. Thực trạng hoạch định phát triển du lịch lễ hội 64
2.3.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quy hoạch và các chính sách phát triển du lịch lễ
hội 68
2.3.3. Thực trạng kiểm soát phát triển du lịch lễ hội 75
2.4. Đánh giá phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội
78
2.4.1. Đánh giá theo tiêu chí 78
2.4.2. Điểm mạnh trong phát triển du lịch lễ hội của chính quyền Thành phố Hà Nội
79
2.4.3. Điểm yếu trong phát triển du lịch lễ hội của chính quyền Thành phố Hà Nội
81
2.4.4. Nguyên nhân của điểm yếu 83
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH LỄ
HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 85
3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn
Thành phố Hà Nội đến năm 2020 85
3.1.1. Phương hướng phát triển du lịch lễ hội tại Hà Nội 85
3.1.2. Mục tiêu phát triển du lịch lễ hội Hà Nội 87
3.2. Các giải pháp phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn thành phố Hà
Nội đến năm 2020 88
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện hoạch định phát triển du lịch lễ hội 88
3.2.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch và các chính sách phát triển du
lịch lễ hội 93
3.2.3. Nhóm giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động du lịch lễ

hội trên địa bàn 101


3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Hà
Nội đến năm 2020 102
3.3.1. Kiến nghị với Trung ương 102
3.3.2. Kiến nghị với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch lễ hội 103
3.3.3. Kiến nghị với dân cư địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch lễ hội 104
KẾT LUẬN 105
TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
PHỤ LỤC


i

Danh mục các bảng

Bảng 2.1. Cơ cấu doanh nghiệp kinh doanh du lịch tại Hà Nội giai đoạn 2009 -
2013 52
Bảng 2.2. Lượng khách du lịch quốc tế đến Hà Nội giai đoạn 2009-2013 54
Bảng 2.3. Lượng khách du lịch nội địa đến Hà Nội giai đoạn 2009 – 2013 55
Bảng 2.4. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch của Hà Nội giai đoạn 2009 -
2013 55
Bảng 2.5. Số lượng lao động du lịch của Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013 56
Bảng 2.6. Cơ cấu lao động du lịch của Hà Nội giai đoạn 2009 – 2013 58
Bảng 2.7. Cơ cấu khách du lịch lễ hội đến Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013 60
Bảng 2.8. Lượng khách du lịch tại một số lễ hội ở Hà Nội giai đoạn 2009 – 2013 . 61
Bảng 2.9: Doanh thu du lịch lễ hội và tỷ trọng của du lịch lễ hội trong GDP của Hà
Nội giai đoạn 2009 - 2013 63
1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng về du lịch, trong đó lễ hội
được xem như một bộ phận cấu thành nên tiềm năng ấy. Tại sao lại có thể kết luận
như vậy? Bởi một điều hết sức giản đơn, đó là: Lễ hội là một kho tàng văn hoá, nơi
lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hoá văn nghệ, nơi phản
ánh tâm thức con người Việt Nam một cách trung thực nhất; nơi mở hội nhiều khi là
những danh lam thắng cảnh, một môi trường giàu tính văn hoá và đáp ứng được các
tiêu chuẩn của một điểm du lịch. Hơn thế nữa, với nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, nước ta có gần 8000 lễ hội truyền thống hội tụ đủ các nét đẹp văn hóa khắp các
vùng miền, đây chính là một kho tài nguyên, là tiềm năng to lớn để phát triển ngành
du lịch. Khai thác khía cạnh này của văn hóa, có thể nói du lịch lễ hội đã và đang
mang lại những đóng góp to lớn cho sự phát triển của du lịch cả nước nói chung và
từng địa phương nơi diễn ra lễ hội nói riêng.
Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng là những tỉnh có truyền thống lịch sử
văn hóa lâu đời, địa hình rất phong phú đa dạng, sầm uất với hệ thống sông lớn:
sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đáy… có bờ biển dài hàng trăm km. Trong đó,
nằm giữa đồng bằng sông Hồng trù phú là thủ đô Hà Nội, nơi đã sớm trở thành
trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Trải
qua hơn 1000 năm hình thành và phát triển, thủ đô Hà Nội có lịch sử lâu đời, có
truyền thống văn hóa đa dạng và giàu bản sắc. Tất cả những điều đó đã khiến cho
Hà Nội có đầy đủ điệu kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tài nguyên du lịch và những
yếu tố nguồn lực thuận lợi để phát triển ngành du lịch với tốc độ nhanh và bền
vững. Việc sát nhập tỉnh Hà Tây (cũ) và một số vùng phụ cận thuộc tỉnh Vĩnh Phúc,
tỉnh Hòa Bình vào Thành phố Hà Nội từ tháng 8 năm 2008 đã khiến cho Hà Nội trở
thành vùng tập trung nhiều lễ hội nhất của cả nước (1070 lễ hội), với những lễ hội
tiêu biểu như: Hội Gióng đền Sóc, Hội Chùa Hương, Hội Đền Và, Hội Cổ Loa, Hội
Gò Đống Đa, …
2


Tuy nhiên trên thực tế việc khai thác các lễ hội, các di tích lịch sử để phát
triển loại hình du lịch lễ hội ở Hà Nội chưa thực sự được chú trọng, chưa đạt được
hiệu quả cao. Theo báo cáo tổng kết hoạt động du lịch Hà Nội hàng năm của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, khách du lịch đến với các lễ hội của Hà Nội
từ năm 2009 trở lại đây chủ yếu tập trung vào 2 lễ hội lớn là lễ hội chùa Hương và
lễ hội Gióng (2 lễ hội này thu hút hơn 50% tổng lượng khách du lịch lễ hội của Hà
Nội). Doanh thu từ du lịch lễ hội của Hà Nội mới chỉ chiếm chưa tròn 1% trong
tổng GDP của toàn thành phố. Chứng tỏ sức hấp dẫn khách du lịch của các lễ hội tại
Hà Nội chưa tương xứng với tiềm năng du lịch lễ hội nơi đây.
Xuất phát từ những thực tế nêu trên, việc nghiên cứu phát triển loại hình du
lịch lễ hội tại Hà Nội, nhất là phát triển theo hướng bền vững là rất cần thiết và cấp
bách. Nhất thiết phải sớm tìm ra nguyên nhân vì đâu mà việc khai thác các lễ hội
nhằm phục vụ phát triển du lịch ở Hà Hội chưa được chú trọng. Làm thế nào để
khai thác thật hiệu quả các hoạt động lễ hội nhằm phục vụ cho việc phát triển du
lịch Hà Nội?
Là một cán bộ quản lý ngành Du lịch của Hà Nội, thấy được sự bức xúc và
cấp thiết của vấn đề, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Phát triển loại hình du lịch
lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế
của mình, với mong muốn sẽ đóng góp được một số ý kiến cho Ủy ban nhân dân
Thành phố Hà Nội và các ban ngành liên quan, nhằm phát triển loại hình du lịch lễ
hội tại Hà Nội một cách mạnh mẽ và bền vững hơn nữa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu có thể nêu ra một số công trình nghiên
cứu đã công bố với các đề tài như sau:
1. Luận án Tiến sĩ Kinh tế “Những giải pháp chủ yếu để phát triển Du lịch
trên địa bàn Hà Nội” (năm 1996) của tác giả Bùi Thị Nga, trường Đại học Kinh tế
Quốc dân.
Công trình này đã phân tích vị trí và vai trò của ngành Du lịch Thủ đô Hà
Nội trong chiến lược phát triển du lịch Việt Nam và trong đợi sống kinh tế xã hội

3

của Thủ đô, đánh giá ưu thế về tiềm năng phát triển du lịch Hà Nội. Qua đó, tác giả
khẳng định ngành Du lịch Hà Nội cần được phát triển để thực sự trở thành ngành
kinh tế quan trọng của Thủ đô, góp phần thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác.
Quá trình hình thành và phát triển của ngành Du lịch Hà nội được tác giả
phân tích kỹ lưỡng. Ở đây tác giả đã phân chia quá trình này thành hai thời kỳ: thời
kỳ 1989 trở về trước và thời kỳ từ năm 1990 tới thời điểm công trình này được xây
dựng (1996). Trên cơ sở đó, tác giả đã tiến hành đánh giá thực trạng và hiệu quả
kinh doanh du lịch ở Hà Nội cụ thể là thời kỳ từ 1990 đến 1996; các nội dung đó
bao gồm: phân tích lượng khách quốc tế và nội địa đến, đánh giá hiệu quả kinh
doanh thông qua các chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước, hiện
trạng các cơ sở lưu trú – khách sạn, lực lượng lao động, kết cấu hạ tầng kỹ thuật
phục vụ kinh doanh du lịch, thực trạng tổ chức và quản lý ngành Du lịch trên địa
bàn Thủ đô. Công trình nêu rõ những vấn đề tồn tại trong kinh doanh du lịch ở Thủ
đô Hà Nội: thị trường du lịch chưa được mở rộng, sản phẩm du lịch chưa phong
phú, mạng lưới kinh doanh du lịch chưa được sắp xếp, việc đầu tư xây dựng khách
sạn và cơ sở lưu trú chưa phù hợp, việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ chưa được quan
tâm đúng mức.
Tác giả kiến nghị các giải pháp chủ yếu để phát triển ngành du lịch Thủ đô
tới năm 2010 bao gồm: xây dựng quy hoạch cụ thể, chi tiết cho ngành du lịch Hà
nội; kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, xây dựng và hoàn thiện các
chính sách đối với việc phát triển du lịch Thủ đô; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho ngành du lịch, mở rộng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài và vốn trong nước;
sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh du lịch trên địa bàn, điều chỉnh và tổ chức lại các
doanh nghiệp quốc doanh, đẩy mạnh liên doanh với nước ngoài; tổ chức tốt công
tác khai thác thị trường du lịch, các tuyến du lịch trong và ngoài nước, tổ chức
nghiên cứu thị trường du lich quốc tế; đào tạo cán bộ nhân viên có trình độ chuyên
môn cao, tiêu chuẩn hóa dần đội ngũ cán bộ, tăng cường kỷ cương hoạt động của
ngành. Tác giả cũng nhấn mạnh: các giải pháp nêu trên mang tính đồng bộ và cần

được triển khai với bước đi phù hợp trong thực tiễn.
4

Có thể khẳng định rằng công trình nghiên cứu của tác giả Bùi Thị Nga là một
công trình đầy tâm huyết, mang lại nhiều đóng góp quý báu cho ngành du lịch Hà
nội. Song, tác giả chưa đề cập đến quan điểm phát triển du lịch bền vững.
2. Luận án tiến sĩ Kinh tế “Giải pháp cơ bản khai thác tiềm năng du lịch của
Thủ đô và phụ cận nhằm phát triển du lịch Hà Nội đến năm 2010” (năm 2004) của
tác giả Nguyễn Thị Nguyên Hồng, trường Đại học Thương Mại. Địa bàn nghiên cứu
của công trình này được giới hạn chủ yếu ở Thủ đô Hà Nội và 13 tỉnh phụ cận gồm:
Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc
Ninh, Bắc Giang, Hòa Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ và Thái Bình. Công trình nghiên
cứu này giới hạn thời gian chủ yếu từ 1996 đến 2003.
Tác giả đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về tiềm năng du lịch và
khai thác tiềm năng du lịch liên vùng của một quốc gia, bao gồm các vấn đề: tiềm
năng du lịch, vai trò của tiềm năng du lịch trong phát triển du lịch, vai trò của khai
thác tiềm năng du lịch liên vùng.
Công trình nghiên cứu đã chỉ rõ tình hình phát triển của du lịch Hà Nội: bộ
máy quản lý Nhà nước về du lịch đã được kiện toàn dần, tuy nhiên chưa ngang tầm,
chưa tương xứng với yêu cầu thực tế; sản phẩm du lịch của Hà Nội có bước phát
triển song chất lượng còn nhiều bất cập; du lịch Hà Nội ngày càng quan tâm đến
công tác hoạch định và định hướng thị trường, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch
được chú trọng đầu tư tuy nhiên ngành du lịch Hà Nội chủ yếu mới dừng lại ở liên
kết hợp tác với các địa phương khác, văn phòng đại diện cho du lịch Hà Nội tại các
nước trong khu vực xuất hiện rất ít.
Ngoài ra, nguồn tiềm năng du lịch của Hà Nội và phụ cận cũng được tập
trung đánh giá tại công trình này, bao gồm: tài nguyên tự nhiên và nhân văn, cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, Nhìn chung tiềm năng du lịch
của Hà Nội và phụ cận được tác giả đánh giá là rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên
lại phân bố không đồng đều; chẳng hạn, Thủ đô Hà Nội có nguồn tài nguyên du lịch

nhân văn rất phong phú, cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực về cơ bản đáp
ứng được nhu cầu phát triển của ngành du lịch nhưng nguồn tài nguyên du lịch tự
5

nhiên của Hà Nội không có gì đặc sắc. Thêm vào đó, qua điều tra thực tế, tác giả đã
đánh giá thực trạng khai thác tiềm năng du lịch của Hà Nội và phụ cận trong quá
trình phát triển của du lịch Hà Nội qua 2 vấn đề: tình hình tổ chức quản lý khai thác
tiềm năng du lịch và tình hình liên kết du lịch giữa Hà Nội và phụ cận.
Cuối cùng, công trình nghiên cứu đã đưa ra một hệ thống các giải pháp và
kiến nghị mang tính tổng hợp. Đối với Nhà nước và các Ban ngành hữu quan, tác
giả đề xuất tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng du lịch Hà
Nội – phụ cận, tăng cường phối hợp liên ngành, hình thành chiến lược liên kết, tăng
cường công tác quản lý bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch, Đối với các
doanh nghiệp du lịch và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ: tác giả kiến nghị nên
phát triển và nâng cao chất lượng các chương trình du lịch Hà Nội – phụ cận, tăng
cường liên kết trong tổ chức quản lý chương trình du lịch, đẩy mạnh liên kết trong
hoạt động marketing, đa dạng hóa sản phẩm du lịch liên kết.
3. Luận văn thạc sĩ Kinh tế “Giải pháp giữ gìn và phát triển loại hình du lịch
lễ hội trên địa bàn Hà Tây” (năm 2008) của tác giả Hoàng Thị Lan, trường Đại học
Thương Mại.
Công trình này đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về giữ gìn và
phát triển loại hình du lịch lễ hội, như: du lịch lễ hội; vai trò và các nhân tố ảnh
hưởng đến việc giữ gìn và phát triển loại hình du lịch lễ hội; một số tiêu chí đánh
giá việc giữ gìn và phát triển loại hình du lịch lễ hội. Một số kinh nghiệm rút ra cho
tỉnh Hà Tây thông qua bài học kinh nghiệm của một số địa phương như Đà Lạt, Yên
Tử, Thành phố Huế trong việc giữ gìn và phát triển loại hình du lịch lễ hội cũng
được đề cập đến khá cụ thể tại công trình này.
Qua công trình này, người đọc cũng hiểu rõ hơn về đặc điểm tự nhiên, văn
hóa, xã hội, một số lễ hội điển hình và tình hình kinh doanh du lịch của Hà Tây
trong khoảng thời gian từ 2001 – 2007. Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng

công tác giữ gìn và phát triển loại hình du lịch lễ hội tại Hà Tây như lượng khách
đến với các điểm du lịch lễ hội; công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của
các lễ hội; công tác quản lý du lịch lễ hội; bảo vệ môi trường; bảo vệ di tích tại các
6

điểm du lịch lễ hội; kinh doanh dịch vụ phục vụ hoạt động du lịch lễ hội; công tác
đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tại các điểm du lịch lễ hội … ở Hà
Tây trong giai đoạn 2001 – 2007.
Tác giả cũng đã đóng góp một số giải pháp cho Ủy ban nhân dân và Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tây (chẳng hạn như giải pháp xây dựng, ban hành và
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách – chính sách đầu tư, chính sách tài
chính; tăng cường công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch du lịch lễ hội;
giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về du lịch lễ hội; giải pháp
quản lý và khai thác có hiệu quả các di tích, danh lam thắng cảnh tại các điểm du
lịch lễ hội); cho các doanh nghiệp du lịch và các doanh nghiệp khác (giải pháp nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch lễ hội, nâng cao chất lượng sản phẩm tại các
điểm du lịch lễ hội, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch) nhằm giữ gìn và phát
triển loại hình du lịch lễ hội Hà Tây đến năm 2020. Một số kiến nghị với Chính phủ
và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng được nêu rõ, như: tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho việc giữ gìn và phát triển loại hình du lịch lễ hội; nâng cao nhận thức
của toàn xã hội, thực hiện chính sách xã hội hóa hoạt động du lịch lễ hội.
Tuy nhiên, thực trạng quản lý nhà nước về du lịch lễ hội của tỉnh Hà Tây
chưa được chú trọng phân tích kỹ tại công trình nghiên cứu này.
Có thể nhận thấy các đề tài trên đã đề cập đến các cơ sở lý luận, các vấn đề,
thực trạng và các giải pháp, kiến nghị để khai thác tiềm năng du lịch, phát triển các
loại hình du lịch khác nhau tại địa bàn Thủ đô Hà Nội, các vùng phụ cận và một số
địa phương khác của Việt Nam. Song chưa có công trình nghiên cứu, bài luận văn
nào nghiên cứu về các lễ hội tại Thành phố Hà Nội. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề
tài “Phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội” làm đề tài
cho luận văn của mình. Cho đến nay đề tài không trùng lặp với bất kỳ một công

trình nghiên cứu nào đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất một số giải pháp cho chính quyền thành phố
Hà Nội nhằm phát triển loại hình du lịch lễ hội trong thời gian tới trên cơ sở nghiên
7

cứu lý luận và phân tích thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Trên cơ sở đó, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển loại hình du lịch lễ hội ở một địa
phương.
- Phân tích thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành
phố Hà Nội giai đoạn 2009 - 2013, từ đó chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu cũng
như những nguyên nhân của những điểm mạnh, điểm yếu đó.
- Đề xuất các giải pháp cho chính quyền thành phố Hà Nội nhằm phát triển
loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành phố Hà Nội đến năm 2020.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Phát triển loại hình du lịch lễ hội.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: quản lý phát triển loại hình du lịch lễ hội.
+ Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội
+ Về thời gian: số liệu thứ cấp được thu thập từ 2009 – 2013, và đề xuất giải
pháp đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Bước 1: Thu thập tài liệu (sách, tạp chí, luận án, luận văn, ) để hệ thống
hóa cơ sở lý luận về phát triển loại hình du lịch lễ hội. Phương pháp nghiên cứu sử
dụng trong bước này là phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp và
mô hình hóa.

- Bước 2: Thu thập thông tin, dữ liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo thống kê
của Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Hà Nội, Cục thống kê Hà Nội, Trung tâm xúc
tiến du lịch Hà Nội để phân tích thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa
bàn thành phố Hà Nội, thực trạng các nội dung chủ yếu được thực hiện bởi chính
8

quyền thành phố Hà Nội nhằm phát triển loại hình du lịch lễ hội. Phương pháp
nghiên cứu sử dụng trong bước này là phương pháp thống kê, phân tích so sánh,
tổng hợp.
- Bước 3: Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu trong phát triển loại hình du
lịch lễ hội của chính quyền thành phố Hà Nội, từ đó xác định các nguyên nhân đãn
đến các điểm yếu. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp tổng hợp, quy nạp,
phân tích.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển loại hình du lịch lễ
hội: du lịch lễ hội, các nhân tố thuộc môi trường bên trong và bên ngoài của chính
quyền cấp tỉnh/ thành phố ảnh hưởng đến việc phát triển loại hình du lịch lễ hội; các
tiêu chí đánh giá việc phát triển loại hình du lịch lễ hội; kinh nghiệm của tỉnh Nam
Định trong việc phát triển loại hình du lịch lễ hội.
- Phân tích thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội tại Thành phố Hà
Nội: một số nét khái quát về các tiềm năng phát triển du lịch lễ hội của Hà Nội; thực
trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Hà Nội, thực trạng các nội dung
chủ yếu được thực hiện bởi chính quyền Thành phố Hà Nội nhằm phát triển du lịch
lễ hội và đánh giá chung về việc phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Hà
Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa
bàn Hà Nội: đối với Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, đối với Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch Hà Nội, đối với chính quyền địa phương các cấp; và đề xuất kiến
nghị: đối với Trung Ương, đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch; đối với dân
cư địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch lễ hội nhằm phát triển bền vững loại

hình du lịch lễ hội trên địa bàn Hà Nội.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển loại hình du lịch lễ hội.
9

- Chương 2: Thực trạng phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn Thành
phố Hà Nội.
- Chương 3: Các giải pháp phát triển loại hình du lịch lễ hội trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
10

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN LOẠI HÌNH DU LỊCH LỄ HỘI
1.1. Một số vấn đề về du lịch lễ hội
1.1.1. Du lịch và các loại hình du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Du lịch ngày nay là một đề tài hấp dẫn và đã trở thành vấn đề mang tính toàn
cầu. Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta mà ở các nước trên thế giới, nhận
thức về nội dung du lịch vẫn chưa thống nhất. Trước thực tế phát triển của ngành du
lịch, việc nghiên cứu và thảo luận để đi đến thống nhất một số khái niệm cơ bản về
du lịch là một đòi hỏi cần thiết.
Dưới mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì du lịch được hiểu theo những cách
khác nhau.
Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người:
- Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc đi
lại và lưu trú của những người ngoài địa phương – những người không có mục đích
di cư và không liên quan đến bất cứ hoạt động kiếm tiền nào [13, tr.10].
- Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm thỏa
mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một thời gian nhất định [13,

tr.11].
Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh tế:
Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn
du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp
ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và các nhu
cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế chính trị -
xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp [3, tr.19].
Tiếp cận du lịch dưới góc độ tổng hợp:
Để phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện các hoạt động, các mối quan hệ
của du lịch, theo cách tiếp cận tổng hợp, du lịch được hiểu là toàn bộ các hiện tượng
11

và các mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh
doanh, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút
và tiếp đón khách du lịch [13, tr.12].
Như vậy, từ các cách tiếp cận khác nhau, ta có thể thấy du lịch là một hoạt
động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết
sức phức tạp. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm
của ngành văn hóa – xã hội. Trên thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều quốc gia không
chỉ đem lại lợi ích kinh tế, mà còn mang lại cả những lợi ích to lớn về chính trị, văn
hóa, xã hội và giáo dục.
1.1.1.2. Các loại hình du lịch
Hoạt động du lịch có thể được phân chia thành các nhóm khác nhau tùy
thuộc vào các tiêu chí đưa ra. Hiện nay việc phân chia các loại hình du lịch chủ yếu
theo các tiêu chí cơ bản sau:
Phân loại theo môi trường tài nguyên: Du lịch là một ngành có định hướng
tài nguyên rõ rệt. Tùy vào môi trường tài nguyên, hoạt động du lịch có thể chia
thành:
- Du lịch văn hóa: hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường nhân
văn hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai thác tài nguyên du lịch nhân văn, thu

hút những người mà mối quan tâm chủ yếu của họ là truyền thống lịch sử, phong
tục tập quán, nền văn hóa nghệ thuật…của điểm đến.
- Du lịch tự nhiên: là loại hình hoạt động du lịch đưa du khách về những nơi
có môi trường tự nhiên trong lành, cảnh quan tự nhiên hấp dẫn nhằm thỏa mãn nhu
cầu đặc trưng của họ.
Phân loại theo mục đích chuyến đi:
Chuyến đi của con người có thể có mục đích thuần túy du lịch, tức là chỉ
nhằm nghỉ ngơi, giải trí, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh. Ngoài các
chuyến đi như vậy, có nhiều cuộc hành trình vì các lý do khác nhau như học tập,
công tác, hội nghị, tôn giáo Trong các chuyến đi đó, không ít người đã sử dụng
các dịch vụ du lịch như lưu trú, ăn uống tại khách sạn, nhà nghỉ. Cũng không ít
12

người nhân chuyến dịp đó đã tranh thủ thời gian dỗi để tham quan, nghỉ ngơi. Trên
cơ sở đó, có thể phân chia du lịch thành hai nhóm:
- Nhóm có mục đích du lịch thuần túy: bao gồm các loại hình du lịch tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng, thể thao, khám phá
- Nhóm có mục đích du lịch kết hợp: bao gồm các loại hình du lịch tín
ngưỡng, học tập nghiên cứu, hội họp, thể thao (thi đấu, cổ vũ), kinh doanh, công
tác, chữa bệnh, thăm thân…
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Du lịch nội địa: Là chuyến đi của người đi du lịch từ chỗ này sang chỗ khác
trong phạm vi đất nước của mình.
- Du lịch quốc tế: Là chuyến đi của người du lịch từ nước này sang nước
khác.
Phân loại theo đặc điểm địa lý của nơi đến:
- Du lịch nghỉ biển
- Du lịch leo núi
- Du lịch đô thị
- Du lịch thôn quê

Phân loại theo phương tiện vận chuyển
- Du lịch bằng ô tô
- Du lịch bằng xe đạp
- Du lịch bằng máy bay
- Du lịch bằng tàu hỏa
- Du lịch bằng tàu thủy
Phân loại theo loại hình lưu trú
- Du lịch ở khách sạn
- Du lịch ở motel
- Du lịch ở Camping
- Du lịch ở Bungalow
- Du lịch ở làng du lịch…
13

Phân loại theo độ dài chuyến đi
- Du lịch ngắn ngày
- Du lịch dài ngày
Phân loại theo hình thức tổ chức
- Du lịch tập thể
- Du lịch cá nhân
- Du lịch gia đình
Phân loại theo phương thức hợp đồng
- Du lịch trọn gói
- Du lịch từng phần
Phân loại theo lứa tuổi
- Du lịch thiếu niên
- Du lịch thanh niên
- Du lịch trung niên
- Du lịch cao niên
Việc phân loại các loại hình du lịch như kể trên có ý nghĩa như sau:

Thứ nhất, phân loại du lịch giúp xác định được những đóng góp kinh tế và
những hạn chế của từng loại hình du lịch. Qua đó, các tổ chức quản lý du lịch sẽ
hình thành chính sách khuyến khích hay hạn chế đối với từng thể loại du lịch tùy
theo các mục tiêu và chính sách phát triển chung của mỗi địa phương.
Thứ hai, phân loại du lịch giúp hoạt động marketing của các điểm đến du
lịch và các tổ chức kinh doanh du lịch được hiệu quả. Qua việc phân tích các loại
hình du lịch đang tồn tại có thể xác định được cơ cấu khách hàng mục tiêu của điểm
đến du lịch hay cơ sở kinh doanh du lịch; cho phép xác định được thế mạnh du lịch
của một địa phương, một quốc gia và làm cơ sở cho việc phân tích tính đa dạng của
của hoạt động du lịch tại các điểm đến.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm và phân loại lễ hội
1.1.2.1. Quan niệm về lễ hội
14

Trong các bộ phận cấu thành nên tài nguyên du lịch nhân văn thì lễ hội là
một tài nguyên rất có giá trị để phục vụ cho phát triển du lịch. Lễ hội là hình thức
sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Lễ hội là một dịp để
mọi người hướng về một sự kiện lịch sử của đất nước. Lễ hội cũng là dịp để con
người tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên, những vị anh hùng dân tộc. Với lễ hội truyền
thống, đây còn là dịp để người dân lao động bày tỏ lòng thành kính của mình đối
với các lực lượng siêu nhiên (cảm tạ thần linh đã trợ giúp mình có được mùa màng
bội thu và cầu mong có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc). Có thể nói, lễ hội là sự
kiện liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân [22, tr. 57]
1.1.2.2. Đặc điểm của lễ hội
- Lễ hội thường gắn bó với một cộng đồng dân cư nhất định:
Nếu Tết âm lịch là sinh hoạt của cả cộng đồng thì ngày hội là ngày Tết của
của một cộng đồng dân cư nhất định nào đó. Lễ hội gắn bó với từng làng quê, các
làng quê khác nhau thì ngày hội làng cũng khác nhau. Mặt khác, lễ hội mang tính
tộc người rất rõ. Các dân tộc khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau. Chẳng hạn,
Đồ Sơn nổi tiếng với lễ hội chọi trâu, hội Lim thì chỉ có ở Bắc Ninh, người Chăm

được biết đến với lễ hội Ka Te, lễ hội Lồng Tồng là lễ hội của người Tày Trong
lễ hội thường có người tham dự là những người tổ chức, người dân địa phương,
những người hành hương, khách du lịch,
- Không gian, thời gian của lễ hội:
Lễ hội thường được tổ chức tại các di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam
thắng cảnh, những địa danh nổi tiếng, hoặc ngay tại các sân đình, đền chùa, Để tổ
chức lễ hội, cần phải có không gian rộng và có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ
sở hạ tầng cần thiết. Lễ hội ở nước ta phân bố dọc khắp chiều dài đất nước.
Những lễ hội truyền thống thường tập trung trong hai mùa là mùa xuân và
mùa thu, đó là thời điểm nghỉ ngơi của nhà nông. Hiện nay, để thu hút khách du
lịch, quảng bá về du lịch, nhiều lễ hội nói chung và Festival du lịch nói riêng được
tổ chức vào nhiều thời điểm trong năm.
- Cấu trúc của lễ hội:
15

Như một ước lệ, lễ hội luôn được phân chia làm hai phần: Lễ và Hội.
+ Phần Lễ: “là các nghi thức được thực thi trong lễ hội với các nghi thức uy
nghiêm như tế thần, yết cáo ở các đình, đền. Phần này thường do các lão làng đảm
nhiệm. Phần Lễ là nền tảng của lễ hội, tạo không khí thiêng liêng và những giá trị
tinh thần tốt đẹp trước khi chuyển sang phần hội” [22, tr. 58].
Phần Lễ không đơn lẻ mà là một hệ thống liên kết, có trật tự, cùng hỗ trợ
nhau. Trong lễ hội truyền thống, phần lễ thường gồm lễ rước nước, lễ mộc dục (lễ
tắm rửa tượng Thần), lễ tế gia quan, đám rước, đại lễ (là nghi thức lễ trang trọng
nhất), lễ túc trực, lễ hèm.
Hiện nay, phần Lễ đã được đơn giản hóa nhưng vẫn giữ được các chuẩn mực
chung. Tuy nhiên, nhiều người đánh giá, tính thiêng liêng và trang trọng của phần lễ
trong các lễ hội truyền thống không còn được nguyên vẹn như trước đây.
+ Phần Hội nhằm mục đích vui chơi, giải trí, giao lưu Đây là thời điểm để
người tham dự lễ hội có dịp nghỉ ngơi, tham gia vào các trò chơi, giao lưu với nhiều
người khác, được thể hiện bản thân mình mà trong điều kiện bình thường họ không

thể hoặc không dám bộc lộ [22, tr. 58].
Hội là phần tổ chức các trò diễn và trò chơi. Trò diễn là hoạt động mang tính
nghi lễ, diễn lại toàn bộ hay một phần hoạt động của cuộc đời nhân vật thờ phụng.
Chẳng hạn trò diễn Thánh Gióng đánh giặc Ân trong ngày hội Gióng, hoặc trò
nghiềm quân trong lễ hội làng Yên Sở (hội Giá), huyện Hoài Đức – ngoại thành Hà
Nội. Phần lớn các trò chơi đều xuất phát từ ước vọng của con người. Xuất phát từ
ước vọng cầu mưa có các trò đốt pháo, ném pháo, đánh pháo đất Xuất phát từ ước
vọng cầu cạn có các trò thả diều vào các ngày hội mùa hè để mong gió lên, nắng lên
cho nước lụt mau rút đi.
Lễ và Hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Hai yếu tố này có lúc tách biệt
đến dễ thấy: một bên thiêng liêng (Lễ), một bên trần tục (Hội), nhưng trong nhiều
trường hợp lại không đơn giản như vậy. Trong quá trình vận động, hai yếu tố Lễ và
Hội đã thâm nhập vào nhau khá chặt chẽ, lồng ghép vào nhau. Chẳng hạn như khi
dân làng rước kiệu, chơi cờ người đều mang ý thức cầu mong Thành hoàng phù
16

hộ cho dân làng và cho bản thân. Không nên đối lập hoàn toàn Lễ với Hội, nhưng
cũng càng không nên đồng nhất hai phần này với nhau.
Lễ và Hội là hai yếu tố chính tạo nên lễ hội. Sự đậm, nhạt giữa chúng tùy
thuộc vào đặc điểm từng nơi và tính chất của từng loại lễ hội. Những lễ hội liên
quan đến tín ngưỡng, tôn giáo thì phần Lễ đậm hơn phần Hội như hội Phủ Giầy
(Nam Định), hội chùa Dâu (Bắc Ninh). Ở những hội làng nghề, phần Lễ có thoáng
hơn, chủ yếu là lễ tế Tổ. Các hội tưởng niệm anh hùng lịch sử thì phần lễ cũng chỉ
vừa phải, đủ để minh họa thần tích.
1.1.2.3. Phân loại lễ hôi
Việc phân loại lễ hội tùy thuộc vào cách tiếp cận và tiêu chí đưa ra của mỗi
nhà nghiên cứu.
Trong tác phẩm “Danh thắng, di tích và lễ hội truyền thống Việt Nam”, tác
giả Lưu Minh Trị dựa vào nội dung tổng thể của lễ hội đã phân loại:
- Lễ hội tái hiện những nghi thức sinh hoạt nông nghiệp như: hội săn bắn, hội

đánh cá, hội cầu mưa, hội mùa xuân (thường kèm theo các lễ: thờ thần lúa, thần mặt
trời, lễ hội điền, thượng điền, ).
- Lễ hội tái diễn những sự kiện lịch sử, nhằm kỷ niệm và tôn vinh các anh
hùng dân tộc, danh nhân, những người có công như lễ hội đền Đồng Nhân (Hà Nội)
tôn vinh Hai Bà Trưng, lễ hội đền Kiếp Bạc (Hải Dương) tôn vinh Trần Hưng Đạo,
lễ hội đền Trạng (Hải Phòng) tôn vinh Nguyễn Bỉnh Khiêm,
- Lễ hội tái hiện các sinh hoạt xã hội như lễ hội làng nghề Đại Bái (Gia Bình,
Bắc Ninh), lễ hội văn hóa nghệ thuật như hội Lim (Từ Sơn, Bắc Ninh), hội Lỗ Khê
(hát ca trù ở Đông Anh, Hà Nội), [25, tr. 15].
Trong tác phẩm “Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian”, tác giả Đinh Gia
Khánh đã đưa ra quan điểm phân loại lễ hội dân gian như sau: “Có nhiều cách phân
loại hội lễ. Cách phân loại đơn giản nhất là chia hội lễ thành hội lễ vốn không có
nguồn gốc tôn giáo và hội lễ có nguồn gốc tôn giáo” [10, tr. 13].
- Lễ hội không có nguồn gốc tôn giáo: Lễ hội nguyên thủy gắn với nghi thức
phồn thực, với sản xuất nông nghiệp.
17

- Lễ hội có nguồn gốc tôn giáo: xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp và
tôn giáo đã ra đời (Bà la môn giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo,…).
Tác giả Ngô Đức Thịnh lại căn cứ theo tiêu thức thời gian phân chia lễ hội
thành hai loại:
- Lễ hội truyền thống: lễ hội truyền thống bao gồm tất cả các loại hình lễ hội
được đề cập trong tất cả các cách thức phân loại. Đây là những lễ hội có lịch sử hình
thành, tồn tại và phát triển lâu dài trong suốt chiều dài lịch sử của địa phương hay
quốc gia; chứa đựng trong mình không chỉ những giá trị văn hóa đặc sắc mà còn là
một phần nhân chứng sống động của lịch sử, cung cấp những bằng chứng về quá
trình dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân trên khắp lãnh thổ
nước Việt Nam [23, tr. 137].
- Lễ hội hiện đại: Lễ hội hiện đại ngày nay đang ngày càng phát triển và thu
hút được sự quan tâm của những người làm du lịch, khách du lịch và người dân

trong thời gian gần đây. Những lễ hội này góp phần quảng bá những thành tựu mới
nhất trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong giai đoạn lịch sử hiện đại,
được tổ chức với định hướng phục vụ kinh doanh du lịch rất rõ ràng. Có thể kể đến
các festival được tổ chức thường xuyên ở Hạ Long, Huế, Đà Lạt, Nha Trang, Ninh
Thuận, Bình Định,…[23, tr. 138].
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của du lịch lễ hội
1.1.3.1. Khái niệm du lịch lễ hội
Du lịch lễ hội thuộc loại hình du lịch văn hóa. Do đó ta có thể hiểu du lịch lễ
hội là hoạt động mà khách du lịch muốn thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu truyền thống
văn hóa, phong tục tập quán, lịch sử, tín ngưỡng dân gian…. thông qua việc tham
dự, chứng kiến các hoạt động của lễ hội [31, tr. 17].
1.1.3.2. Đặc điểm của du lịch lễ hội
Khác với loại hình du lịch thiên nhiên, du lịch thể thao, du lịch giải trí … du
lịch lễ hội có các đặc điểm cơ bản sau:
- Du lịch lễ hội thường gắn với không gian thời gian và địa điểm nhất định.
Chẳng hạn lễ hội Đền Hùng chỉ diễn ra 1 lần vào dịp 10/3 âm lịch hàng năm tại tỉnh
18

Phú Thọ, lễ hội khai ấn Đền Trần vào đêm 14 rạng sáng 15 tháng Giêng âm lịch tại
tỉnh Nam Định, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn chỉ diễn ra 1 lần vào ngày 9/8 hàng năm tại
Đồ Sơn, Hải Phòng…. Do vậy, việc tổ chức các hoạt động lễ hội phải nắm chắc thời
gian, địa điểm và các hoạt động văn hóa đặc trưng, các nội dung chính của lễ hội để
khai thác đúng hướng và hiệu quả. Thời gian, không gian thiêng và tính chất thiêng
của lễ hội sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách du lịch. Bởi vì nếu các yếu
tố này được “thiêng hóa” khách du lịch sẽ tri giác được cái “linh thiêng” của lễ hội,
nó có sức mạnh tinh thần to lớn, là niềm tin thiêng liêng để lôi cuốn con người trở
về với quê hương cội nguồn. Đây chính là một đặc điểm riêng biệt của du lịch lễ hội
mà không loại hình du lịch nào có được.
- Du lịch lễ hội mang tính mùa vụ. Do du lịch lễ hội luôn gắn với thời gian
mở hội nên thường diễn ra theo mùa vụ. Các lễ hội ở Việt Nam được tổ chức chủ

yếu vào mùa xuân, một số ít lễ hội tổ chức vào mùa thu. Do vậy, yếu tố mùa vụ của
lễ hội sẽ chi phối lớn đến các thiết chế phục vụ hoạt động du lịch lễ hội như hệ
thống tài nguyên du lịch, quy hoạch tuyến du lịch, điểm du lịch, các hoạt động dịch
vụ, các cơ sở lưu trú, các chương trình du lịch … cũng phải tuân theo các yếu tố
mùa vụ. Do vậy, việc chuẩn bị các yếu tố phục vụ các hoạt động du lịch lễ hội phải
có sự sắp xếp khá chu đáo và khoa học. Nếu không có sự chuẩn bị trước (từ cơ sở
vật chất, các dịch vụ, công tác tổ chức lễ hội…) sẽ dẫn đến không đáp ứng nhu cầu
du khách hoặc xảy ra tình trạng quá tải do lượng du khách tăng đột biến so với
những ngày thường.
- Du lịch lễ hội là một hoạt động văn hóa sâu sắc vừa mang ý nghĩa lịch sử
vừa có giá trị nghệ thuật độc đáo. Bản sắc của du lịch là văn hóa do vậy bản sắc
văn hóa của từng vùng, từng địa phương, tộc người là một khía cạnh cần được khai
thác, nghiên cứu trong phát triển du lịch. Sự phong phú và sâu sắc về văn hóa của
hoạt động du lịch lễ hội thể hiện ngay trong nội dung, hình thức và cách tổ chức của
lễ hội. Bên cạnh đó, lễ hội còn là sản phẩm của lịch sử, do đó nó phản ánh lịch sử
bằng hình ảnh, sự kiện mang tính nghệ thuật hóa, biểu tượng hóa. Điểm đến du lịch
với những lễ hội càng đặc trưng bao nhiêu, càng khác lạ bao nhiêu về phong tục tập
19

quán, lịch sử, ngôn ngữ, tín ngưỡng và các giá trị cuộc sống… thì càng hấp dẫn du
khách bấy nhiêu.
- Du lịch lễ hội có quan hệ chặt chẽ với hệ thống các di tích và các công
trình kiến trúc nghệ thuật. Di tích và lễ hội chính là nguyên liệu gốc sản sinh ra các
điểm đến du lịch trong đó lễ hội và hệ thống di tích thường gắn kết chặt chẽ với
nhau. Các hệ thống kiến trúc của Đình, Đền, Chùa, các di tích lịch sử gắn với các sự
kiện, các nhân vật thờ tự là phần vật thể. Còn lễ hội tại các di tích ấy mới là phần
hồn, phần phi vật thể chứa đựng giá trị văn hóa lịch sử. Chẳng hạn lễ hội Đền Hùng
và hệ thống di tích lịch sử tại đền Hùng, lễ hội Đền Trần và các di tích Đền Trần…
đang là điểm hấp dẫn thu hút đông đảo du khách hàng năm. Do vậy để phát triển tốt
du lịch lễ hội thì bên cạnh việc bảo tồn các giá trị văn hóa lễ hội truyền thống cũng

cần bảo tồn các di tích đảm bảo tính nguyên bản của nó.
1.2. Phát triển loại hình du lịch lễ hội
1.2.1. Khái niệm phát triển du lịch lễ hội
Phát triển du lịch lễ hội là việc đáp ứng nhu cầu tham quan và tham gia vào
lễ hội của du khách thập phương, là việc làm thế nào để lượng khách du lịch đến với
lễ hội ngày một tăng cao mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành du lịch nhưng vẫn
phải đảm bảo tiêu chí bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của
các lễ hội và tuân thủ theo quan điểm phát triển bền vững của ngành du lịch [33, tr.
34].
1.2.2. Mục tiêu và tiêu chí đánh giá phát triển loại hình du lịch lễ
hội
1.2.2.1. Mục tiêu phát triển loại hình du lịch lễ hội
- Phát triển du lịch lễ hội nhằm góp phần phát triển kinh tế của địa phương
nơi diễn ra các hoạt động kinh doanh du lịch lễ hội.
- Phát triển du lịch lễ hội nhằm góp phần phổ biến rộng rãi văn hóa của từng
địa phương tới mọi miền đất nước. Thông qua các chuyến du lịch lễ hội, được tận
mắt chứng kiến và nghe thuyết minh về các hoạt động trong lễ hội, kết hợp với việc
tham gia vào các trò chơi trong lễ hội, du khách có cơ hội hiểu biết một cách tường

×