Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Ứng dụng mô hình camel trong phân tích tài chính tại ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 103 trang )






ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ






NGUYỄN THU DUNG




ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CAMEL TRONG PHÂN
TÍCH
TÀI CHÍNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÁC
DOANH NGHIỆP
NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60 34 05



LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ THÁI HÀ




HÀ NỘI - 2007




MC LC

Li cam oan
Danh mc ch vit tt
Danh mc cỏc s , bng biu
Mở đầu 1
CHƯƠNG 1: NHữNG VấN Đề Lý LUậN CƠ BảN Về PHÂN TíCH TàI
CHíNH NGÂN HàNG THƯƠNG MạI THEO MÔ HìNH CAMEL 5
1.1.Tổng quan về phân tích tài chính Ngân hàng th-ơng mại 5
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng th-ơng mại 5
1.1.1.1. Khái niệm 5
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động của ngân hàng th-ơng mại 7
1.1.2. Hoạt động phân tích tài chính Ngân hàng th-ơng mại 9
1.1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết của phân tích tài chính Ngân hàng th-ơng mại 9
1.1.2.2. Những nguyên tắc trong phân tích tài chính ngân hàng th-ơng mại 11
1.2. Nội dung của mô hình CAMEL 12
1.2.1. Khái niệm 12
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính Ngân hàng th-ơng mại theo mô hình

CAMEL 13
1.2.2.1. Phân tích vốn của NHTM 14
1.2.2.2. Phân tích chất l-ợng tài sản Có 18
1.2.2.3. Phân tích khả năng quản lý 22
1.2.2.4. Phân tích khả năng sinh lời 23
1.2.2.5. Phân tích khả năng thanh khoản 28
CHƯƠNG 2: Thực trạng phân tích tài chính tại Ngân hàng
TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam 34
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam
(VPBank) 34
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của VPBank 34
2.1.2. Bộ máy tổ chức hoạt động của VPBank 36




2.1.3. Các hoạt động chính của VPBank 36
2.1.3.1. Quản trị điều hành 36
2.1.3.2. Công tác quản trị rủi ro 36
2.1.3.3. Hoạt động huy động vốn 37
2.1.3.4. Hoạt động tín dụng 38
2.1.3.5. Các hoạt động kinh doanh khác 39
2.1.3.6. Hoạt động của các Công ty trực thuộc 41
2.1.3.7. Các hoạt động khác 44
2.1.4. Tình hình tài chính 45
2.1.4.1. Vốn điều lệ 45
2.1.4.2. Tổng tài sản 45
2.1.4.3. Kết quả hoạt động kinh doanh 46
2.2. Đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại VPBank 47
2.2.1. Phân tích nguồn vốn (C) 47

2.2.1.1. Nội dung phân tích nguồn vốn 47
2.2.1.2. Đánh giá chất l-ợng phân tích nguồn vốn 51
2.2.2. Phân tích chất l-ợng tài sản (A) 53
2.2.2.1. Nội dung phân tích chất l-ợng tài sản 54
2.2.2.2. Đánh giá chất l-ợng phân tích tài sản 60
2.2.3. Phân tích khả năng sinh lời (E) 63
2.2.3.1. Nội dung phân tích khả năng sinh lời 63
2.2.3.2. Đánh giá chất l-ợng phân tích khả năng sinh lời 67
2.2.4. Phân tích khả năng thanh khoản (L) 69
2.2.4.1. Nội dung phân tích khả năng thanh khoản 69
2.2.4.2. Đánh giá chất l-ợng phân tích khả năng thanh khoản 70
2.2.5. Nguyên nhân 72
2.2.5.1. Nguyên nhân chủ quan 72
2.2.5.2. Nguyên nhân khách quan 75




CHƯƠNG 3: Các đề xuất nhằm ứNG DụNG MÔ HìNH CAMEL
TRONG PHÂN TíCH TàI CHíNH Tại NGÂN HàNG TMCP các doanh
nghiệp NGOàI QUốC DOANH VIệT NAM 77
3.1. Mục tiêu trong công tác phân tích tài chính tại VPBank 77
3.1.1. Định h-ớng phát triển của VPBank 77
3.1.2. Mục tiêu công tác phân tích tài chính tại VPBank 78
3.2. Các đề xuất ứng dụng mô hình CAMEL trong phân tích tài chính tại VPBank 79
3.2.1. Chuẩn bị các điều kiện để ứng dụng mô hình CAMEL trong phân tích tài
chính tại VPBank 79
3.2.1.1. Nguồn thông tin 79
3.2.1.2. Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống công nghệ thông tin của Ngân hàng 82
3.2.1.3. Thành lập bộ phận chuyên môn chịu trách nhiệm phân tích tài chính

ngân hàng 83
3.2.1.4. Tuyển dụng và đào tạo về phân tích tài chính cho các cán bộ
chuyên trách 84
3.2.1.5. Ban hành quy trình phân tích chuẩn 85
3.2.2. Các đề xuất về hệ thống chỉ tiêu phân tích theo mô hình CAMEL trong nội
dung phân tích tài chính tại VPBank 87
3.2.2.1. Xây dựng các chỉ tiêu phân tích vốn của ngân hàng 87
3.2.2.2. Xây dựng các chỉ tiêu phân tích chất l-ợng tài sản Có của ngân hàng 87
3.2.2.3. Xây dựng các chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lời của ngân hàng 87
3.2.2.4. Xây dựng các chỉ tiêu phân tích khả năng thanh khoản của
ngân hàng 88
3.3. Kiến nghị 89
KếT LUậN 90
TàI LIệU THAM KHảO 91





DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
TMCP
Thương mại cổ phần
USD

Đồng đô la Mỹ
VNĐ
Việt Nam đồng
VPBank
Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam




















0
DANH MC CC S , BNG BIU

Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn năm 2004-2006 của VPBank 38
Bảng 2.2: Cơ cấu d- nợ tín dụng năm 2004-2006 của VPBank 39

Bảng 2.3: Nợ phải trả và vốn cổ đông năm 2005-2006 47
Bảng 2.4: Tiền gửi của các TCTD khác tại VPBank năm 2005-2006 48
Bảng 2.5: Tiền gửi khách hàng tại VPBank năm 2005-2006 50
Bảng 2.6: Các cam kết ngoại bảng năm 2005-2006 50
Bảng 2.7: Các chỉ tiêu về vốn xây dựng theo mô hình CAMEL 52
Bảng 2.8: Quy mô và kết cấu tài sản Có 2005-2006 của VPBank 54
Bảng 2.9: Chi tiết tiền gửi của các TCTD tại VPBank năm 2005-2006 55
Bảng 2.10.1: Tình hình d- nợ năm 2005-2006 56
Bảng 2.10.2: Tình hình d- nợ năm 2005-2006 55
Bảng 2.10.3: Tình hình d- nợ năm 2005-2006 55
Bảng 2.11: Góp vốn mua cổ phần năm 2005-2006 58
Bảng 2.12: Tình hình tài sản cố định năm 2005-2006 59
Bảng 2.13: Các chỉ tiêu về chất l-ợng tài sản theo mô hình CAMEL 61
Bảng 2.14: Báo cáo kết quả kinh doanh lập theo chuẩn mực kế toán quốc tế năm
2005-2006 63
Bảng 2.15: Chi tiết thu nhập và chi phí từ lãi năm 2005-2006 64
Bảng 2.16: Khả năng sinh lời năm 2005-2006 66
Bảng 2.17: Chi tiết cơ cấu thu nhập năm 2005-2006 66
Bảng 2.18: Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời theo mô hình CAMEL 67
Bảng 2.19: Các chỉ tiêu về khả năng thanh khoản theo mô hình CAMEL 70

Hỡnh 2.1: Doanh s chuyn tin trong nc ca VPBank nm 2004-2006 41
Hỡnh 2.2: Vn iu l ca VPBank nm 2003-2007 45
Hỡnh 2.3: Tng ti sn ca VPBank nm 2003-2007 46
Hỡnh 2.4: Li nhun trc thu ca VPBank nm 2003-2007 47






1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Ngân hàng là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Với tư cách là trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại là loại hình
doanh nghiệp kinh doanh đặc thù vì kinh doanh các loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ,
vàng bạc, chứng khoán,…và cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo quy định của
pháp luật. Thực tế kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, đánh giá một doanh nghiệp
nói chung đã khó và phức tạp nhưng đánh giá một ngân hàng càng phức tạp và khó
khăn hơn với những nét đặc thù của nó. Việc đánh giá chính xác và đúng đắn hoạt
động của một ngân hàng không những giúp cho Ngân hàng có những định hướng
đúng đắn mà còn sử dụng các kết quả đánh giá này để có những điều chỉnh kịp thời
nhằm khắc phục những mặt yếu kém, phát huy những mặt mạnh để đưa công việc
kinh doanh đi tới trình độ hoàn thiện hơn. Một trong những công cụ đánh giá quan
trọng mà các nhà quản trị sử dụng để đánh giá hoạt động của Ngân hàng là phân
tích tài chính.
Phân tích tài chính là khâu quan trọng nhất trong công tác quản trị ngân hàng.
Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh, nhà quản trị ngân hàng không những phải biết
tổ chức quá trình hoạt động, nghiên cứu thị trường, hạch toán kế toán,….mà còn
phải thường xuyên phân tích tài chính để có thể đưa ra bức tranh toàn cảnh về tình
hình và năng lực tài chính, đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, trên cơ sở đó có những quyết định quản lý hoạt động kinh doanh phù hợp
nhằm góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. Với vai trò
quan trọng như vậy, phân tích tài chính ngân hàng được coi là một trong những
công cụ quan trọng và hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản lý ngân hàng.
Một trong các phương pháp phân tích tài chính được công nhận rộng rãi đối
với việc phân tích tài chính ngân hàng là mô hình CAMEL. Đây là mô hình được
xây dựng ở Mỹ từ những năm 1980. Theo mô hình này, các nhà phân tích phải phân
tích tài chính của Ngân hàng thương mại cả các nhân tố định tính và định lượng.
Mô hình CAMEL là mô hình phân tích hoạt động của doanh nghiệp rất phổ biến và





2
được chấp nhận rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới đối với việc phân tích tài chính
ngân hàng. Mô hình này rất hữu ích cho các nhà phân tích tài chính cũng như nhà
quản lý ngân hàng trong việc đánh giá và đưa ra dự đoán sự lành mạnh của NHTM
một cách đáng tin cậy, từ đó nhận biết những cơ hội kinh doanh, những dấu hiệu rủi
ro và đưa ra các quyết định hợp lý nhằm nâng cao khả năng sinh lời của Ngân hàng.
Hiện nay, việc áp dụng mô hình CAMEL vào phân tích tài chính của các Ngân
hàng Việt Nam còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện. Ngân hàng TMCP các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBank) là ngân hàng thương mại cổ phần đã
trải qua 14 năm hoạt động với những thăng trầm trong quá trình hình thành và phát
triển. Trước những thách thức của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế về trình độ quản
lý, vốn, công nghệ, các tiêu chuẩn về kế toán và kiểm toán…thì công tác phân tích
tài chính của VPBank càng trở nên quan trọng để giúp các nhà lãnh đạo đưa ra các
quyết định quản lý kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh để chiến
thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra .
Tuy nhiên, công tác phân tích tài chính của VPBank hiện nay còn nhiều hạn
chế. Về đội ngũ phân tích: Ngân hàng chưa tổ chức được bộ phận phân tích chuyên
nghiệp, trình độ phân tích của nhân viên phân tích còn hạn chế. Về điều kiện phân
tích: do sự hạn chế về công nghệ tin học ngân hàng nên việc kết xuất các dữ liệu
cho công tác phân tích tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu, các báo cáo tài chính
chỉ mang tính chất thống kê. Về nội dung phân tích: Ngân hàng chưa xây dựng
được hệ thống các chỉ tiêu cho phân tích các báo cáo tài chính nên việc phân tích
còn sơ sài, mới chỉ tính toán một số các chỉ tiêu tài chính, chưa có sự liên kết giữa
các chỉ tiêu đó trong phân tích.
Nhận thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của công tác phân tích tài
chính tại Ngân hàng Ngoài quốc doanh cũng như tính hữu ích của mô hình CAMEL

trong phân tích tài chính ngân hàng, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài: “Ứng dụng
mô hình CAMEL trong phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP các doanh
nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam” để nghiên cứu.





3
2. Tình hình nghiên cứu
Tại VPBank đã thực hiện công tác phân tích tài chính thông qua việc phân tích
các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, do trải qua thời kỳ khó khăn của những năm trước
năm 2004, Ngân hàng tập trung vào việc củng cố và mở rộng hoạt động kinh doanh
nên công tác phân tích tài chính mới chỉ dừng lại ở việc phân tích các báo cáo tài
chính và công việc này do Kế toán trưởng đảm nhiệm. Hiện nay chưa có một
nghiên cứu nào về việc áp dụng mô hình CAMEL vào công tác phân tích tài chính ở
VPBank.
Chính vì vậy, công trình nghiên cứu “Ứng dụng mô hình CAMEL trong
phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp Ngoài quốc doanh
Việt Nam” sẽ nghiên cứu việc ứng dụng mô hình CAMEL vào công tác phân tích
tài chính của VPBank và sẽ cố gắng lấp chỗ trống đối với công tác phân tích tài
chính trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Chỉ ra những hạn chế trong phân tích tài chính tại VPBank hiện
nay và đưa ra các đề xuất nhằm ứng dụng mô hình CAMEL vào công tác phân tích
tài chính.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Nhận diện thực trạng công tác phân tích tài chính tại VPBank.
 Trên cơ sở làm rõ bản chất các yếu tố của mô hình CAMEL, đối chiếu với
những điều kiện thực tế của Ngân hàng trong việc áp dụng mô hình này.

 Đưa ra các để xuất nhằm ứng dụng mô hình CAMEL vào phân tích tài
chính tại VPBank.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác phân tích tài chính tại VPBank.
- Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong hoạt động
phân tích tài chính tại VPBank và lấy số liệu trên các báo cáo tài chính của VPBank
trong 3 năm 2004, 2005, 2006 để minh giải cho việc ứng dụng mô hình CAMEL
trong phân tích tài chính tại VPBank.




4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cơ bản như:
- Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Tổng hợp, so sánh, phân tích số liệu
- Thống kê kinh tế…
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Đưa ra các đề xuất và kiến nghị nhằm ứng dụng thành công mô hình CAMEL
vào công tác phân tích tài chính tại VPBank.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích tài chính Ngân hàng
thương mại theo mô hình CAMEL.
- Chương 2: Thực trạng phân tích tài chính tại Ngân hàng TMCP các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.
- Chương 3: Các đề xuất nhằm ứng dụng mô hình CAMEL trong phân tích tài
chính tại Ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam.















5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THEO MÔ HÌNH CAMEL

1.1. Tổng quan về phân tích tài chính Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ “ngân hàng” đã có từ rất lâu, từ thế kỷ 17 trở về trước, lúc này ngân
hàng chưa phát triển và chưa có vai trò quan trọng, nó chỉ là một nghề mua bán và
làm dịch vụ thông thường. Các tổ chức buôn tiền này đều cho vay nặng lãi và hoạt
động không ổn định. Theo chiều dài của lịch sử cùng với sự phát triển của nền kinh
tế, trong mỗi giai đoạn khác nhau thì hoạt động ngân hàng cũng thay đổi theo
hướng ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp về mặt nghiệp vụ. Mặt khác do
tập quán luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau đã dẫn đến quan
niệm về ngân hàng không đồng nhất giữa các khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, bất
kỳ quốc gia nào cũng định nghĩa “ngân hàng” trong một đạo luật, quy định chặt chẽ

hoạt động của ngân hàng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi khách hàng và phù hợp
với lợi ích chung của quốc gia.
Có thể định nghĩa ngân hàng qua chức năng (các dịch vụ) mà chúng thực hiện
trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của các ngân hàng đang
thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng cũng không
ngừng thay đổi. Thực tế là rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm cả các công ty kinh
doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo
hiểm đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng
cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực
hiện nhiều dịch vụ mới khác.




6
Xét trên phương diện những loại hình tổ chức tài chính cung cấp thì Ngân
hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế (Theo sách Quản trị Ngân hàng thương mại của Peter S.Rose).
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng. Ngân hàng với tên gọi riêng theo từng nhóm
khác nhau có mục đích hoạt động đặc biệt, có sự khác nhau trong tài sản có (nghĩa
là đối tượng đầu tư). Người ta phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức tài
chính khác bằng việc phân biệt tài sản ngân hàng thương mại dựa trên tài sản. Với
cách phân biệt này, một ngân hàng thương mại được xác định với đặc trưng có tỷ lệ
vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp là chiếm đa số trong tài sản
của nó. Ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mô tài sản và về

thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ mà nhiệm vụ chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số
tiền này để cho vay và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Theo Nghị định số
49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Ngân
hàng thương mại thì: Ngân hàng thương mại là ngân hàng được được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì
mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm ngân hàng được định nghĩa trong Luật các TCTD
năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung Luật các TCTD năm 2004 như sau "Ngân
hàng là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác".
Trong số các loại hình ngân hàng kể trên thì NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về
quy mô tài sản, thị phần và số lượng ngân hàng do “NHTM là ngân hàng được
thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên




7
quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà
nước” (trích định nghĩa Ngân hàng trong Nghị định số 49/2000/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của NHTM). Tính đến thời điểm này,
ở Việt Nam có 7 ngân hàng quốc doanh trong đó 5 NHTM, 2 ngân hàng chính
sách; 35 NHTM cổ phần; 5 ngân hàng liên doanh; 37 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; 46 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài (theo số liệu thống kê tại
trang web của Ngân hàng Nhà nước tháng 9/2007).
Hoạt động của Ngân hàng thương mại bao gồm 3 lĩnh vực: nghiệp vụ nợ (huy
động vốn), nghiệp vụ có (cho vay kinh doanh) và nghiệp vụ môi giới trung gian

(dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn, thông tin, giữ hộ chứng từ, vật quý giá ). Ba
loại nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển,
tạo nên uy tín cho ngân hàng. Có huy động được vốn thì mới có nguồn cho vay, cho
vay hiệu quả, phát triển kinh tế thì mới có nguồn để huy động vào; đồng thời muốn
cho vay và huy động vốn tốt thì ngân hàng phải làm tốt nghiệp vụ môi giới trung
gian của mình. Nói chung ngân hàng thương mại giúp cho các đơn vị sản xuất kinh
doanh giải quyết nhu cầu về vốn lưu động trong một lúc nào đó của quá trình hoạt
động. Nhờ những hoạt động cung cấp tín dụng, ngân hàng thương mại đã lưu động
hóa tiền tệ, góp phần vào việc lưu động hóa cả hàng hóa.
1.1.1.2 Đặc điểm hoạt động của ngân hàng thương mại
Với tư cách là một trung gian tài chính, ngân hàng thương mại là một doanh
nghiệp vì nó cũng có vốn riêng, có hoạt động mua vào bán ra, có chi phí và hoạt
động vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng ngân hàng thương mại là doanh nghiệp có hoạt
động đặc thù so với các doanh nghiệp nói chung vì những đặc điểm sau đây:
- Hoạt động của ngân hàng thương mại là kinh doanh tiền tệ , vàng bạc, chứng
khoán và cung cấp các dịch vụ ngân hàng theo pháp luật.
- Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại dựa trên cơ sở “đi vay” để
cho vay thông qua các nghiệp vụ tín dụng của mình hay nói cách khác là đi mua
“quyền sử dụng tiền” để bán lại “quyền sử dụng tiền” đó cho các đối tượng khác.




8
Ngân hàng thương mại phải bỏ chi phí mua lại “quyền sử dụng” của tiền trong một
thời gian nhất định và có hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi cho chủ sở hữu của nó
theo những cam kết đã thỏa thuận. Ngân hàng thương mại không thể bán “tiền” mà
chỉ bán giá trị sử dụng của tiền, sau khi khai thác giá trị sử dụng khoản tiền vay
trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn bộ giá trị tiền vay cộng thêm
khoản lợi tức trả cho người cho vay.

- Ngân hàng kinh doanh tiền tệ chủ yếu không phải bằng vốn tự có, mà chủ
yếu bằng vốn của những người gửi tiền qua vai trò trung gian tín dụng, làm môi
giới cho các nhà đầu tư và những người có tích lũy. Thực hiện các chức năng trung
gian của mình, Ngân hàng thương mại nắm trong tay một số bộ phận lớn nhất của
cải xã hội dưới dạng giá trị, nhưng không có quyền sở hữu chúng mà chỉ có quyền
sử dụng với những điều kiện ràng buộc, đòi hỏi ngân hàng thươmg mại phải chịu
trách nhiệm vật chất đối với những người chủ sở hữu thực của các tài sản này và sử
dụng tài sản vốn đúng với điều kiện ràng buộc sao cho có hiệu quả nhất. Khi thực
hiện chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thương mại làm chủ chính bản thân
mình (tìm kiếm lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất), không làm hộ ai, do đó ngân hàng
có trách nhiệm phải hoàn trả tiền cho người gửi vào và được tự mình sử dụng số
tiền gửi đó
- Để mua được “quyền sử dụng” tiền trong một thời gian nhất định, ngân hàng
thương mại phải trả một khoản tiền cho nhà sở hữu vốn và khi bán quyền sử dụng
tiền ngân hàng cũng thu về một khoản tiền gọi là lãi suất. Như vậy trong hoạt động
của ngân hàng thì lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay. Tương tự như các
loại hình kinh doanh khác, việc định giá tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh
hưởng lớn đến sự thành bại trong kinh doanh của ngân hàng nói riêng và ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế nói chung.
- Các sản phẩm của ngân hàng thương mại có đặc tính phi vật chất, vô hình
hay nói đúng hơn nó là các sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm ngân hàng thương mại chỉ
bắt đầu khi khách hàng chuyển đến ngân hàng ủy nhiệm của họ khi phát sinh từ hợp
đồng giao dịch thương mại, tín dụng hoặc phải hoàn thành một nghĩa vụ tài chính




9
nào đó. Do vậy tính chất bị động, phụ thuộc khách hàng trong sản phẩm dịch vụ
ngân hàng là vô cùng lớn.

- Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng (người gửi tiền, người vay tiền)
dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau. Kinh doanh
tín dụng ngân hàng là kinh doanh “quyền sử dụng các khoản tiền tệ”, ngân hàng chỉ
bán “giá trị sử dụng của tiền” chứ không bán “tiền”, nên khi hết thời hạn sử dụng
theo cam kết, tiền quay về giữ nguyên giá trị của nó, phần chênh lệch theo thỏa
thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng khoản cho vay trong thời gian nhất định.
Do vậy tiền vay (phần gốc) chỉ là vật chuyên chở giá trị sử dụng của tiền, nên nó
được phát ra qua các thời gian nhất định rồi sẽ thu về, nó không được bán đứt. Hơn
nữa giá bán (lãi suất) quyền sử dụng tiền tệ thường rất nhỏ so với giá trị của khoản
vay nên sự bù đắp khi có rủi ro xảy ra là quá ít ỏi. Chính vì thế, trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng, yếu tố lòng tin là rất quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Khi
nói đến lòng tin, tất nhiên là nói về sự trung thực, đứng đắn nghĩa là quyết tâm trả
nợ của người vay khi khoản vay đến hạn nhưng cũng nói đến khả năng của người
vay trong hoạt động nghề nghiệp của họ.
- Hoạt động của ngân hàng thương mại là một trong những hoạt động có nhiều
rủi ro, nhạy cảm với thị trường, do đó ngân hàng thương mại là một loại hình doanh
nghiệp được giám sát và quản lý chặt chẽ nhất của Nhà nước. Các ngân hàng
thương mại cũng cần phải thực hiện nhiều biện pháp đảm bảo an toàn hoạt động
như: cần duy trì mức vốn nhất định nhằm đảm bảo khả năng chi trả, có khả năng
chống đỡ những biến động của thị trường; lựa chọn khách hàng, hạn chế tín dụng,
giám sát thực hiện, đa dạng hóa tài sản để phân tán rủi ro; sử dụng thị trường tiết
kiệm kỳ hạn hoặc thị trường lựa chọn các công cụ nợ và phương pháp đổi chéo lãi
suất để hạn chế rủi ro lãi suất, tỷ giá
1.1.2. Hoạt động phân tích tài chính Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết của phân tích tài chính Ngân hàng thương mại
Phân tích tài chính ngân hàng thương mại là tổng hòa các phương pháp và
công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm xác định





10
vị trí và đánh giá tình hình tài chính trong quá khứ, hiện tại, đánh giá rủi ro, mức độ
và hiệu quả hoạt động của NHTM, cung cấp cho các nhà quản lý kinh tế tài chính vĩ
mô cũng như vi mô những tín hiệu cần thiết để quản lý, điều hành và đưa ra các
quyết định phù hợp.
Như vậy bản chất của phân tích tài chính là việc áp dụng các công cụ và kỹ
thuật phân tích các dữ liệu được cung cấp trong các báo cáo tài chính nhằm rút ra
những đánh giá có ích, có ý nghĩa cho việc ra quyết định.
Sự an toàn của các ngân hàng thương mại luôn là mối quan tâm đối với nhiều
người, từ các giới chức điều hành đến các nhà kinh doanh, các cổ đông ngân hàng
và những công dân của đất nước. Bởi lẽ những vụ phá sản ngân hàng có ảnh hưởng
bất lợi đối với nền kinh tế hơn các vụ phá sản ở bất cứ loại hình doanh nghiệp nào
khác. Các thua lỗ của ngân hàng có thể làm mất vốn đầu tư của các cổ đông, mất
các khoản tiền gửi, bao gồm tiền tiết kiệm mà nhiều người để dành suốt đời mới có
được và vốn hoạt động của nhiều doanh nghiệp tích lũy trong nhiều thế hệ. Các thua
lỗ của ngân hàng làm sụt giảm niềm tin của công chúng và có hiệu ứng xấu lây
truyền sang các khu vực kinh tế khác.
Hoạt động của ngân hàng thương mại cũng là hoạt động rất nhạy cảm với các
lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội trong nước và ngoài nước, bất kỳ những chấn
động nào của nền kinh tế, chính trị, xã hội đều có thể tác động đến hoạt động của
ngân hàng thương mại và đòi hỏi nó phải có sự điều chỉnh phù hợp.
Vì thế để tránh cho ngân hàng những nguy cơ có thể đưa đến sự phá sản, để
phát hiện được những dấu hiệu, nguy cơ rủi ro người ta phải tìm những công cụ báo
động, để phát hiện sớm những khó khăn của ngân hàng trước khi những khó khăn
đó phát sinh hậu quả sâu sắc và đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời. Một trong
những công cụ hữu hiệu là thực hiện phân tích tài chính ngân hàng thương mại.
Phân tích tài chính ngân hàng thương mại sẽ đưa ra một bức tranh về thực trạng
hoạt động tài chính của ngân hàng, xác định đầy đủ, đúng đắn những nguyên nhân
và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính của ngân hàng. Vì

vậy, phân tích tài chính ngân hàng thương mại là một hoạt động quan trọng không




11
thể thiếu đối với các nhà quản trị ngân hàng, các cổ đông, các nhà đầu tư, cơ quan
quản lý và những đối tượng có lợi ích liên quan đến hoạt động của ngân hàng.
Phân tích tài chính ngân hàng thương mại tại các quốc gia được thực hiện
theo những thông lệ khác nhau. Tại các nền kinh tế đã phát triển, các Ngân hàng
thương mại đã phối hợp cùng nghiên cứu và thống nhất trong việc sử dụng các công
cụ cũng như mô hình chuẩn trong phân tích tài chính, thậm chí hệ thống các chỉ tiêu
sử dụng để phân tích và đánh giá cũng đã được thiết kế thành bộ chỉ tiêu chuẩn với
các mức chất lượng được tham chiếu. Tuy nhiên, ở thị trường mới nổi hay các nền
kinh tế chuyển đổi như Việt Nam thì việc sử dụng các công cụ trong phân tích còn
chưa thống nhất và đồng bộ cũng như chưa có sự nghiên cứu, tìm tòi sử dụng các
công cụ đang được cộng đồng ngân hàng trên thế giới chọn làm công cụ chuẩn
trong phân tích. Quá trình hội nhập đòi hỏi một luật chơi chung, cạnh tranh toàn cầu
đã dẫn đến các tiêu chí đánh giá trong phân tích tài chính ngân hàng thương mại cần
phải được thống nhất, khuôn khổ phân tích phải đi theo chuẩn mực quốc tế. Vì vậy,
việc lựa chọn các công cụ thích hợp trong phân tích tài chính là rất quan trọng nhằm
xử lý thông tin một cách hiệu quả, chất lượng để đưa ra những nhận định và đánh
giá đúng đắn về hoạt động của ngân hàng cũng như giúp cho ngân hàng hoà nhập
vào sân chơi chung trong những cuộc chơi trên thị trường quốc tế.
1.1.2.2. Những nguyên tắc trong phân tích tài chính ngân hàng thương mại
Khi phân tích tài chính ngân hàng thương mại, nhà phân tích cần đảm bảo các
nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Phải nghiên cứu, xem xét các sự kiện ở trạng thái vận động và phát
triển. Tự thân số liệu kế toán trong một chu kỳ phân tích không phản ảnh được chất
lượng hoạt động, xu hướng phát triển của đơn vị; vì vậy, cần nghiên cứu, so sánh

các số liệu kế toán, các sự kiện kinh tế qua nhiều thời kỳ để thấy xu hướng phát
triển và tính quy luật của hiện tượng, từ đó có thể đưa ra những nhận định có căn cứ
khoa học về sự kiện, hiện tượng đó.
Thứ hai: Phải nghiên cứu hiện tượng kinh tế trong mối quan hệ hữu cơ với




12
các hiện tượng kinh tế khác. Một hiện tượng kinh tế thường chịu ảnh hưởng bởi
nhiều hiện tượng kinh tế khác, các hiện tượng kinh tế này được gọi là các nhân tố
ảnh hưởng. Do đó, khi phân tích tài chính của một ngân hàng thương mại, các nhà
phân tích không thể xem xét từng hiện tượng một cách riêng rẽ, cô lập, mà phải đặt
chúng trong mối quan hệ với các hiện tượng kinh tế khác.
Thứ ba: Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi đánh giá các hiện tượng kinh tế.
Trong những thời gian khác nhau, hiện tượng kinh tế mang những biểu hiện, đặc
trưng khác nhau. Cùng một hiện tượng, ở cùng một mức độ như nhau, trong điều
kiện này có thể được xem là tốt, nhưng trong điều kiện khác lại được đánh giá là
xấu. Do vậy, để đánh giá chung tình hình tài chính của ngân hàng, cần chú ý đến
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lúc, từng thời kỳ.
Thứ tư: Xem xét các hiện tượng kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Muốn nhận thức đúng thực trạng tình hình tài chính của ngân hàng, phải xuất phát
từ thực hiện hoạt động của ngân hàng, tránh chủ quan, phiến diện, thoát ly thực tế.
Thứ năm: Chú ý phát hiện những mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và đề ra
các biện pháp giải quyết mâu thuẫn. Có như vậy, nhà quản trị mới nhận biết được
khả năng tiềm tàng của ngân hàng và đề ra được biện pháp giải quyết hữu hiệu.
Thứ sáu: Phải đi sâu vào từng bộ phận cấu thành chỉ tiêu phân tích. Lý do đơn
giản là vì tất cả tình hình hoạt động và tài chính được biểu hiện trên các chỉ tiêu
phân tích và các chỉ tiêu này bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Việc đi sâu xem xét
các bộ phận cấu thành sẽ giúp ích trong việc xác định nguyên nhân tăng, giảm của

các chỉ tiêu, chẳng hạn khi phân tích lợi nhuận, nhà phân tích phải quan tâm đến hai
yếu tố thu nhập và chi phí, nghiên cứu kỹ hai yếu tố đó sẽ có thể phát hiện được
nguyên nhân làm tăng, giảm lợi nhuận và từ đó có thể đề ra các biện pháp làm tăng
lợi nhuận ngân hàng.
1.2. Nội dung của mô hình CAMEL
1.2.1. Khái niệm
CAMEL là phương pháp phân tích ngân hàng được xây dựng ở Mỹ từ năm




13
những năm 1980. Ngày nay, phương pháp này được coi là một phương pháp chuẩn
được công nhận rộng rãi trên thế giới đối với việc phân tích tài chính trong ngành
ngân hàng. Đây là một công cụ rất hữu ích trong việc đưa ra các dự đoán liệu ngân
hàng có lành mạnh hay không và nó cho phép các nhà phân tích tài chính xác định
giá trị của ngân hàng với mức độ tin cậy nhất.
Theo mô hình này, các nhà phân tích phải phân tích tài chính của ngân hàng
thương mại cả các nhân tố định tính và định lượng. CAMEL là chữ viết tắt bằng
tiếng Anh của 5 nhân tố mà theo nhận định của cộng đồng ngân hàng thế giới,
muốn duy trì được tính lành mạnh và ổn định của một ngân hàng, cần phải có 5 yếu
tố này. Đó là:
C (capital): Vốn của ngân hàng
A (asset quality): Chất lượng tài sản
M (management ability): Năng lực quản lý
E (earning): Khả năng sinh lời
L (liquidity): Khả năng thanh khoản.
Các yếu tố của mô hình CAMEL đã đưa ra những điểm nổi bật nhất về tình
hình tài chính của ngân hàng và các yếu tố này được đặt dưới những điều kiện của
mỗi quốc gia về môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp. Trong môi trường kinh tế

và luật pháp của một quốc gia, công việc của nhà phân tích là xác định được mức
độ an toàn vốn của một ngân hàng, chất lượng tài sản có- tài sản nợ và các khoản
đầu tư, hiệu quả công tác quản trị, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời và duy
trì lợi nhuận. Đây không phải là một công việc dễ dàng nhưng lại có tính khả thi cao
khi sử dụng khung hành động CAMEL trong phân tích.
CAMEL dễ làm ta liên tưởng đến hình ảnh con lạc đà đang tải những kiện
hàng nặng nề đi trong sa mạc. Nhà quản trị ngân hàng cũng phải chịu một gánh
nặng về công việc và trách nhiệm tương tự trong việc tạo lập và duy trì vị thế ngân
hàng trong môi trường kinh doanh tiền tệ đầy cạnh tranh khắc nghiệt.
1.2.2. Nội dung phân tích tài chính Ngân hàng thương mại theo mô hình




14
CAMEL
Sau đây là những yếu tố quan trọng của mô hình CAMEL mà các nhà quản trị
tài chính ngân hàng cần phân tích:
1.2.2.1. Phân tích vốn của NHTM
Một ngân hàng cần phải có vốn vì ba lý do: Một là để bù đắp những tổn thất
không mong đợi; Hai là đảm bảo sự an toàn cho người gửi tiền cũng như các chủ
nợ; Ba là đảm bảo tuân thủ những quy định của cơ quan quản lý đặt ra nhằm bảo vệ
người gửi tiền cũng như ổn định toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trên thực tế, vốn của
ngân hàng được xem như một tấm đệm cho những trường hợp tổn thất. Mức độ vốn
càng cao cho phép nhà quản trị theo đuổi những cơ hội kinh doanh với những rủi ro
cao hơn. Mức độ vốn thấp sẽ thu hẹp mục tiêu của nhà quản lý.
Mức độ an toàn vốn liên quan đến số vốn của cổ đông sẵn sàng cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vốn là bao nhiêu phụ thuộc vào quy mô và các nghiệp
vụ mà ngân hàng thực hiện. Nhìn vào quy mô của bảng cân đối kế toán, chúng ta
thấy rằng, danh mục các khoản nợ càng nhiều rủi ro thì đòi hỏi càng nhiều vốn của

cổ đông để đảm bảo cho các danh mục này. Một ngân hàng chỉ mua trái phiếu chính
phủ hoặc chỉ thực hiện các khoản cho vay ngắn hạn có bảo đảm sẽ không cần phải
có nhiều vốn như một ngân hàng cùng quy mô nhưng có các khoản cho vay không
bảo đảm đến các doanh nghiệp nhỏ. Vì loại ngân hàng thứ hai có nhiều rủi ro hơn
nên người ta mong muốn có nhiều vốn hơn để bảo vệ những người chủ nợ tránh
khỏi tổn thất. Tuy nhiên, phần thưởng cho các cổ đông ở ngân hàng thứ hai này là:
rủi ro cao sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn nếu có một sự quản lý vốn hợp lý.
Như vậy, khi xem xét về vốn, các nhà phân tích thường nghiên cứu tới quy mô
vốn chủ sở hữu, khả năng tạo vốn từ lợi nhuận để lại của ngân hàng và quan trọng
nhất là xem xét sự hợp lý về vốn của một ngân hàng trong việc bù đắp các tài sản có
rủi ro qua việc xem xét mối tương quan của vốn với tổng tài sản quy đổi theo mức
độ rủi ro.
Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, một mức vốn bao nhiêu là hợp lý và an toàn? Nhà




15
ngân hàng phải đối mặt với tình huống khó xử sau:
- Có nhiều vốn sẽ giảm đòn bẩy hoặc khả năng của ngân hàng trong việc tối đa
hoá tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) cho các cổ đông; nhưng
- Có quá ít vốn sẽ đặt ngân hàng vào một mức độ bất cân xứng về rủi ro khi
thất bại nếu những chuyện không may xảy ra.
Nhìn chung, các ngân hàng thường thích một mức vốn thấp hơn nhằm tối đa
hoá tỷ lệ cổ tức cho các cổ đông trong khi các cơ quan quản lý cấp cao lại thích một
mức độ cao hơn nhằm đảm bảo sự an toàn cho hệ thống ngân hàng và tăng cường
mức độ ổn định của thị trường.
* Các tỷ lệ chính đo lƣờng mức độ hợp lý và an toàn vốn của Ngân hàng
thƣơng mại
(1) Tỷ lệ BIS= Vốn tự có/Tài sản có rủi ro

Tỷ lệ BIS hay tỷ lệ Basle lấy tên từ Hội đồng đại diện cho nhóm 12 nước bao
gồm: Bỉ, Canada, Pháp, Đức, ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ,
Luxembourg. Hội đồng này hình thành dưới sự bảo trợ của Ngân hàng thanh toán
quốc tế (BIS) đặt tại Basle- Thụy Sĩ.
Mặc dù hội đồng được thành lập năm 1975 thiết lập các hướng dẫn cho việc
giám sát ngân hàng quốc tế nhưng cho đến năm 1984, nó mới theo sát được cuộc
khủng hoảng nợ tại các quốc gia đang phát triển. Peter Cooke, chủ tịch Hội đồng là
người dẫn đầu trong việc đặt ra một mức chuẩn tối thiểu cho độ an toàn vốn. Hiệp
định đạt được thoả thuận vào năm 1988 gọi là Hiệp định Basle về vốn bao gồm các
hướng dẫn cho mức độ an toàn vốn trong mối quan hệ với rủi ro tín dụng.
Theo hướng dẫn này, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% đối với nhóm 10 nước
thành viên năm 1988 và đề nghị tuân thủ vào năm 1992. Cũng chú thích thêm
rằng, hướng dẫn BIS chỉ là lời khuyên và không có rằng buộc về mặt pháp lý
nhưng các ngân hàng trung ương thành viên được khuyến khích đi theo những
nguyên tắc của Hiệp định để có những “thực hành tốt nhất” trong khắp cộng đồng
ngân hàng thế giới.




16
Tỷ lệ này còn được gọi là tỷ lệ Cooke. Hiện nay đã có trên 100 nước trên thế
giới sử dụng tỷ lệ này. Năm 1996, Hiệp định Basle đã được sửa đổi bổ sung thêm
các điều khoản về rủi ro thị trường và có hiệu lực cuối năm 1997. Tháng 6/1999,
theo đề nghị của Hội đồng quản trị nhóm các nước thành viên, một số quy định
trong Hiệp định Basle được sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn
hoạt động của các ngân hàng. Hiệp định này được gọi là Hiệp định Basle 2.
Theo Hiệp định quốc tế này, vốn tự có bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trong đó:
- Vốn cấp 1 (vốn cơ sở): gồm vốn cổ đông đã góp, thặng dư vốn cổ phần, dự
trữ công khai (các quỹ dự trữ, thu nhập để lại) trừ đi lợi thế thương mại. Vốn này

được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng.
- Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá
lại, dự trữ không công khai, dự phòng chung hay dự phòng tổn thất nợ chung, các
khoản nợ thứ cấp, các công cụ vốn nợ khác (chứng chỉ đầu tư, trái phiếu chuyển
đổi, cổ phiếu ưu tiên,….)
Vốn cấp 1 cộng với vốn cấp 2 tạo thành vốn tự có của ngân hàng sau khi giảm
trừ đi một số khoản mục. Các khoản giảm trừ khỏi vốn tự có bao gồm phần giá trị
giảm đi do đánh giá lại tài sản cố định, các loại chứng khoán đầu tư, các khoản vốn
góp tại các công ty con hạch toán độc lập, các khoản lỗ luỹ kế.
Theo quy định của Hiệp định Basle, các tài sản của ngân hàng (cả trong và
ngoài bảng cân đối kế toán) được phân thành 4 nhóm tương ứng với mức độ rủi ro
của từng nhóm. Mỗi nhóm được gán với 1 hệ số rủi ro tương ứng. Tổng tài sản rủi
ro của ngân hàng được tính bằng cách nhân tổng tài sản của mỗi nhóm với hệ số rủi
ro của nhóm tài sản đó rồi cộng lại. Kết quả được “tổng tài sản có rủi ro”.
Những yêu cầu về vốn bao gồm:
- Tỷ lệ giữa vốn cấp 1 trên tổng tài sản có rủi ro ít nhất phải đạt mức 4%.
- Tỷ lệ giữa tổng số vốn (vốn cấp 1 và vốn cấp 2) trên tổng tài sản theo tỷ lệ
rủi ro tối thiểu là 8%, trong đó vốn cấp 2 được giới hạn tối đa là 100% của vốn cấp
1.




17
Mức chất lượng của chỉ tiêu BIS: lớn hơn hoặc bằng 10% đối với các ngân
hàng hạng nhất.
Ý nghĩa của chỉ tiêu: Chỉ số BIS ngày nay được công nhận là một tiêu chuẩn
về mức độ an toàn vốn cho hầu hết các ngân hàng trên thế giới. Chỉ số này đại diện
cho những nỗ lực đầu tiên nhấn mạnh vào yêu cầu vốn cơ sở tối thiểu cho các ngân
hàng trên quy mô quốc tế.

Nhược điểm của chỉ tiêu: Nhược điểm chủ yếu của phương pháp tiếp cận tỷ lệ
BIS đối với phân tích tài chính ngân hàng là khó khăn đối với việc xác định các số
liệu để tính toán chỉ tiêu như tài sản rủi ro, mức độ rủi ro phù hợp và các khoản mục
ngoài bảng.
(2) Hệ số đòn bẩy tài chính= Tổng nợ phải trả/Vốn chủ sở hữu
Hệ số đòn bẩy là một thước đo thông dụng mức độ nợ trên vốn chủ sở hữu
được nhiều ngân hàng áp dụng. Hệ số này cho biết khả năng huy động vốn của ngân
hàng lớn gấp bao nhiêu lần so với vốn chủ sở hữu từ đó đo lường mức độ phụ thuộc
vào nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Mức trung bình ở các ngân hàng trên thế
giới là 12,5 lần.
(3) Hệ số tạo vốn nội bộ= Lợi nhuận không chia/Vốn cấp 1
Hệ số tạo vốn nội bộ cho biết khả năng tăng vốn tự có của ngân hàng từ lợi
nhuận để lại. Hệ số này càng lớn càng tốt. ở các ngân hàng trên thế giới, hệ số này
trên 12% được coi là tốt.
Tóm lại, một tổ chức tài chính như ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh
doanh bằng cách cho vay các khoản tiền vay được từ những người gửi tiền. Thêm
vào đó, Ngân hàng cũng sử dụng chính số vốn của mình để kinh doanh. Điều này
đòi hỏi một phần trăm nhất định tài sản phải có vốn tự có của chính Ngân hàng.
Nếu vốn của Ngân hàng rớt xuống bằng không, ngân hàng sẽ phá sản. Vì lý do này,
vốn được coi là tấm nệm tài chính cho phép Ngân hàng trụ lại trong những thời kỳ
kinh doanh khó khăn mà không đi đến phá sản. Trên đây đã chỉ ra tầm quan trọng
về mức độ an toàn vốn và các thước đo khác nhau sử dụng để đánh giá chỉ tiêu này.
Một mức vốn thích hợp là yếu tố thiết yếu đối với sự an toàn của ngân hàng.




18
1.2.2.2. Phân tích chất lượng tài sản Có
Tài sản Có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng

thanh toán của một Ngân hàng. Tài sản Có có chất lượng kém là nguyên nhân chính
dẫn đến thất bại của hầu hết các Ngân hàng. Quản trị kém trong chính sách cho vay
cả trong quá khứ và hiện tại luôn luôn là lý do làm nên chất lượng kém của tài sản
Có. Điều này dẫn đến áp lực đối với vị thế về tài trợ vốn cho ngân hàng trong ngắn
hạn, kết quả dẫn đến khủng hoảng về thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng hoàn
toàn phá sản.
Việc đánh giá chất lượng tài sản Có là một trong những khía cạnh khó nhất
trong phân tích tài chính ngân hàng. Đối với khó khăn này, nhà phân tích phải đi
theo hai hướng: (1) đánh giá mức độ mạnh yếu trong quản trị rủi ro tín dụng của
ngân hàng, (2) đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư và danh mục cho vay bằng
việc sử dụng phân tích xu thế và so sánh.
* Quản trị rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng là sự bộc lộ những bất lợi tiềm năng đến lợi nhuận và giá trị
thị trường của tài sản do chất lượng tài sản đã bị giảm đi. Không giống như các rủi
ro khác trong ngân hàng, chính sách và thực tiễn rủi ro tín dụng được thiết kế để
phòng tránh hơn là để đo lường, quản trị và rào chắn. Những phương pháp đối với
quản trị rủi ro tín dụng bao gồm phòng tránh và kiểm soát tổn thất.
Phòng tránh đưa ra những chính sách xác định các phạm vi thích hợp và mong
muốn thực hiện. Ví dụ như một chính sách tín dụng ngăn cấm việc cho vay bất
động sản hoặc cho vay ở các nước đang phát triển- hoặc là Chính phủ hoặc là các
thực thể kinh doanh.
Kiểm soát tổn thất liên quan đến việc duy trì tính đa dạng trong các thành
phần của danh mục (ví dụ như cho vay phân biệt theo ngành, khu vực địa lý, loại
nợ, hồ sơ khách hàng, phân tích tín dụng thích hợp, các thủ tục thế chấp).
Đánh giá chất lượng đầu tư và danh mục cho vay
Ngân hàng thực hiện chức năng như một trung gian tài chính vì vậy danh mục





19
tài sản quan trọng nhất của họ chính là các khoản cho vay. Tuy nhiên, cũng không
nên bỏ qua các khoản mục đầu tư vào chứng khoán và tiền gửi liên ngân hàng.
Ngoài tính thanh khoản theo yêu cầu, danh mục những tài sản này cũng đóng góp
vào sự tăng trưởng thu nhập của ngân hàng. Nhà phân tích nên theo dõi mức độ các
khoản tiền gửi và hoạt động đầu tư chứng khoán theo thời gian và tác động của sự
thay đổi lãi suất vào giá trị của các khoản này. Các khoản cho vay và đầu tư chứng
khoán thường được thể hiện trong bảng cân đối kế toán dưới dạng giá trị ghi sổ.
Điểm này khác biệt so với thực tiễn các tổ chức phi tài chính, hầu hết các khoản
mục này được thể hiện ở giá trị thị trường hoặc thấp hơn giá trị ghi sổ. Sự phân biệt
này là rất quan trọng bởi vì rất nhiều tổ chức tín dụng đã tuyên bố phá sản trong
thời kỳ lãi suất cao nếu họ bị yêu cầu điều chỉnh tài sản của họ theo giá trị thị
trường.
Đánh giá chất lượng của danh mục các khoản cho vay có một chút thách thức
khác biệt. Nếu một nhà phân tích có thể kiểm tra mỗi khoản vay trong sổ sách của
ngân hàng thì việc đánh giá có thể được thực hiện. Tuy nhiên, có một vài điều cản
trở công việc của nhà phân tích. Đó là những thông tin không đầy đủ hoặc mâu
thuẫn nhau về danh mục các khoản cho vay. Hoặc, quan trọng hơn là, thiếu sự công
khai về chất lượng các khoản cho vay như: (1) các khoản cho vay tập trung, (2) các
khoản cho vay có vấn đề và số tiền vay quá hạn, (3) quy mô thực sự của khoản dự
phòng tổn thất, (4) chi tiết về thời kỳ phân bổ các khoản tổn thất nợ và (5) chi tiết
các khoản vay đã được thu hồi hoặc xoá nợ. Kết quả là, cả những sự so sánh bên
trong và bên ngoài đều không có hiệu quả.
Hơn nữa, quyết định quản trị liên quan đến hầu hết các chỉ dẫn ở trên thường
là mang tính chủ quan rất cao, vì vậy có lẽ thường làm cho các nhà phân tích một sự
tin cậy thái quá vào những phán đoán mang tính cá nhân đối với các vấn đề về chất
lượng tài sản Có.
*Các chỉ tiêu đánh giá chất lƣợng tài sản Có
Để hỗ trợ cho nhà phân tích trả lời các câu hỏi ở trên, sau đây là một số chỉ
tiêu được giới thiệu:

×