Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Quản trị rủi ro tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam VIB Cầu Giấ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.08 KB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





LÊ THỊ NGA




QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI NGÂN HÀNG
TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM VIB CẦU GIẤY








NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN











Hà Nội - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





LÊ THỊ NGA




QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI NGÂN HÀNG
TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM VIB CẦU GIẤY


Chuyên ngành : Tài chính và ngân hàng
Mã số : 60.34.20






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH TUẤN









Hà Nội - 2012
MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT i
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI
RO TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 5
1.1. Sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại 5
1.2. Chức năng và vai trò Ngân hàng thương mại 6
1.2.1. Chức năng của ngân hàng thương mại 6
1.2.2. Vai trò của NHTM 9
1.3. Rủi ro và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 10
1.3.1. Khái niệm rủi ro 10
1.3.2. Phân loại rủi ro 11
1.4. Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động ngân hàng 16
1.4.1. Nguyên nhân từ môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội 16
1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng 16
1.4.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng 17
1.5. Quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại 17
1.5.1. Khái niệm quản trị rủi ro 17

1.5.2. Vai trò của quản trị rủi ro đối với Ngân hàng 18
1.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản trị rủi ro 19
1.5.4. Kiểm soát rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 20
1.5.5. Chính sách quản trị rủi ro ngân hàng 21
1.6. Một số chỉ tiêu phản ánh năng lực quản trị rủi ro của NHTM 23
1.6.1. Chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng: 23
1.6.2. Chỉ tiêu đánh giá rủi ro thanh khoản 24
1.6.3. Các chỉ tiêu định tính 25

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI NGÂN
HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT NAM VIB CẦU GIẤY 29
2.1. Giới thiệu về ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam VIB 29
2.2. Giới thiệu về VIB Cầu Giấy 31
2.2.1. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh 31
2.2.2. Các hoạt động chính của VIB Cầu Giấy 32
2.3. Thực trạng hoạt động và quản trị rủi ro của VIB Cầu Giấy 34
2.3.1. Đánh giá về tình hình rủi ro tín dụng 34
2.3.2. Rủi ro thanh khoản 45
2.3.3. Rủi ro thị trường 48
2.3.4. Rủi ro tác nghiệp 56
2.4. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro tại VIB Cầu Giấy: 57
2.4.1. Những thành công: 57
2.4.2. Những tồn tại: 58
2.4.3. Nguyên nhân 59
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC
QUẢN TRỊ RỦI RO CHO NGÂN HÀNG TMCP QUỐC TẾ VIỆT
NAM VIB CẦU GIẤY 61
3.1. Giải pháp đối với ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam VIB Cầu Giấy 61
3.1.1. Giải quyết các vấn đề vốn cho ngân hàng – đa dạng hóa các
phương thức huy động vốn 61

3.1.2. Giải pháp cho quản trị rủi ro tín dụng 62
3.1.3 Giải pháp đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ 71
3.1.4. Đối với nghiệp vụ thanh toán 72
3.1.5. Đối với chính sách lãi suất 73
3.1.6. Công tác quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ 73
3.1.7. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 75
3.2. Những đề xuất đối với NHNN Việt Nam 77
KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO

i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT


STT
Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 HĐQT Hội đồng quản trị
2 NHNN Ngân hàng nhà nước
3 NHTM Ngân hàng thương mại
4 NQH Nợ quá hạn
5 QTRR Quản trị rủi ro
6 RRTD Rủi ro tín dụng
7 TCTD Tổ chức tín dụng
8 TSĐB Tài sản đảm bảo
9 WTO Tổ chức thương mại thế giới


ii
DANH MỤC CÁC BẢNG



STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn tại VIB Cầu Giấy 34
2 Bảng 2.2 Tình hình dư nợ tín dụng qua các năm 35
3 Bảng 2.3 Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ từng ngành 37
4 Bảng 2.4 Hệ số an toàn vốn của VIB 39
5 Bảng 2.5 Cung cầu thanh khoản tại VIB Cầu Giấy 45
6 Bảng 2.6

Trạng thái ngân quỹ tại VIB Cầu Giấy
46


7
Bảng 2.7

Tổng mức chứng khoán tại VIB Cầu Giấy 47
8 Bảng 2.8

Cơ cấu tiền gửi tại VIB Cầu Giấy 47
9 Bảng 2.9

Tổng hợp tình trạng thanh khoản tại VIB
Cầu Giấy
48
10 Bảng 3.1
Bảng xếp hạng tín nhiệm của Moody’s và
Standard & Poor’s
64






DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT Số hiệu Tên Biểu đồ Trang
1 Biểu đồ 2.1 Tỷ lệ nợ xấu ngành hàng / tổng nợ xấu 38
2 Biểu đồ 2.2
Diễn biến lãi suất liên ngân hàng và lạm
phát giai đoạn 2008 - 2011
52

1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, vì thế,
phát triển kinh tế đang là mục tiêu quan trọng. Phát triển kinh tế đề cập đến
mặt lượng, chất và các vấn đề xã hội. Trong đó, mặt lượng chỉ sự gia tăng
tổng mức thu nhập của nền kinh tế, đây là điều kiện cần để nâng cao mức
sống vật chất của một quốc gia và thực hiện những mục tiêu phát triển khác.
Đóng góp vào sự phát triển đó phải kể đến các ngân hàng đã góp phần vào
việc nâng dần tỷ trọng của các ngành dịch vụ. cùng với sự phát triển đó là
việc tạo việc làm và tăng thu nhập cho nhiều người. Từ năm 2006, Việt Nam
gia nhập WTO đã mở ra cơ hội cũng như thách thức đối với ngành ngân hàng
trong việc mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như tiếp
cận gần hơn với trình độ và chuẩn mực quốc tế. Cơ hội tăng, đồng nghĩa với
rủi ro trong hoạt động ngân hàng tăng, từ đó, ảnh hưởng và thậm chí đe dọa

tới sự ổn định của mỗi ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng thương
mại Việt Nam. Vì vậy, nâng cao chất lượng quản trị rủi ro là yêu cầu bắt buộc
đối với mỗi ngân hàng.
Quản trị rủi ro là một cơ chế nhằm tạo ra sự ổn định trong ngân hàng
thông qua việc xác định, lập thứ tự ưu tiên, hạn chế và đo lường những ảnh
hưởng của mỗi quyết định. Trong hoạt động kinh doanh, rủi ro mà NHTM
phải đối mặt có thể là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro
tác nghiệp Trong vài năm gần đây, hoạt động ngân hàng Việt Nam tăng
trưởng khá nóng, tăng trưởng tín dụng nhanh, cùng với đó các vấn đề về
phòng chống rủi ro nhiều khi bị xem nhẹ dẫn đến tình trạng nợ xấu, nợ khó
đòi trong hệ thống ngân hàng tăng nhanh, trở thành "cục máu đông" trong nền
kinh tế Việt Nam, tạo sự bất ổn về môi trường kinh tế vĩ mô. Trước bối cảnh

2
đó, các ngân hàng thương mại đã phải nhìn lại mình, rà soát lại quy trình kinh
doanh cũng như các hoạt động quản trị rủi ro. Chí vì vậy, trong giai đoạn hiện
nay, quản trị rủi ro là một hoạt động rất được chú trọng của bất cứ ngân hàng
nào. Dưới góc độ một chi nhánh ngân hàng của Ngân hàng TMCP Quốc tế
Việt Nam, VIB Cầu Giấy cũng đang đối mặt với nhiều thách thức trong việc
nâng cao chất lượng quản trị rủi ro. Vì vậy, “Quản trị rủi ro tại Ngân hàng
TMCP Quốc Tế Việt Nam VIB Cầu Giấy” được lựa chọn làm đề tài luận văn
của tác giả.
2. Tình hình nghiên cứu:
Nghiên cứu về vấn đề rủi ro và quản trị rủi ro tại các NHTM không phải
là một vấn đề mới và đã có rất nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề này,
có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu sau đây :
Nghiên cứu của TS. Phạm Huy Hùng - Chủ tịch hội đồng quản trị
NHTMCP Công Thương Việt Nam về “Phương pháp quản trị rủi ro tác
nghiệp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” năm 2011 đăng trên Kỷ yếu
các công trình nghiên cứu ngành ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội.

Nguyễn Duy Sinh (2009): “Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh
khoản trong các Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam”, luận văn thạc sỹ
kinh tế, trường đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh.
“Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các NHTM Việt Nam (2005), kỷ
yếu Hội thảo khoa học, thường trực Hội đồng khoa học & Công nghệ ngân
hàng, Vụ chiến lược phát triển Ngân hàng – Ngân hàng nhà nước Việt Nam,
Nxb Phương Đông.
“Nâng cao năng lực quản lý rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam
(2007), hội thảo khoa học cấp Ngành, Học viện Ngân hàng – Ngân hàng
thương mại cổ phần Liên Việt.
Nguyễn Tường Vân (2004): “Giải pháp nâng cao năng lực quản lý thanh

3
khoản tại Ngân hàng Công thương Việt Nam”, luận văn thạc sỹ kinh tế, học
viên Ngân hàng
Có thể nói, các công trình nghiên cứu đã đề cập đến các khá nhiều vấn
đề của quản trị rui ro tại NHTM, tuy nhiên dưới góc độ nghiên cứu hoạt động
quản trị rủi ro tại một chi nhánh ngân hàng thương mại, và cụ thể ở đây là
Ngân hàng TMCP quốc tế VIB Cầu Giấy thì đề tài nghiên cứu không trùng
lặp với các công trình đã được công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tại ngân
hàng TMCP Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy trên cơ sở khái quát hóa
một số vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro của NHTM và thực trạng quản trị rủi
ro tại VIB Cầu Giấy.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát hóa một số vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro tại các NHTM
- Phân tích thực trạng rủi ro trong các hoạt động của VIB Cầu Giấy
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng quản trị rủi ro cho ngân

hàng VIB Cầu Giấy
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các biện pháp quản trị rủi ro tại ngân hàng
TMCP Quốc tế Việt Nam VIB Cầu Giấy
- Phạm vi nghiên cứu: Quản trị rủi ro tại ngân hàng TMCP Quốc Tế
Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy từ năm 2009 đến 2011
5. Phương pháp nghiên cứu
Để luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài, luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê có chọn lọc kết hợp với phương
pháp so sánh kết quả trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và

4
duy vật lịch sử. trong quá trình phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn cũng
như đánh giá tính khả thi của các giải pháp, luận văn còn sử dụng các công
thức toán học, bảng biểu và đồ thị minh họa để làm tăng tính trực quan và sức
thuyết phục của đề tài.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về rủi ro và quản trị rủi ro tại
NHTM.
Phân tích và đánh giá các biện pháp quản trị rủi ro tại VIB Cầu Giấy, chỉ
ra những mặt thành công cũng như hạn chế và nguyên nhân của hoạt động
quản trị rủi ro tại VIB Cầu giấy.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong quản trị rủi ro
tại VIB Cầu Giấy.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn có kết cấu gồm 3 chương
như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận ngân hàng thương mại và rủi ro trong hoạt
động của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tại ngân hàng TMCP Quốc Tế Việt

Nam VIB Cầu Giấy
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị rủi ro cho
ngân hàng TMCP Quốc Tế VIB Cầu Giấy


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Sự ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng thương mại
Ngân hàng được ra đời từ một công việc rất đơn giản là giữ đồ vật quý
cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu
phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi những công việc này mang
lại nhiều lợi ích cho những người gửi, các đồ vật gửi này càng đa dạng hơn,
và đại diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi
giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển,
nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn
trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng tiền, những người giữ tiền nảy ra
một nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ không phải bao giờ
cũng bị đòi cùng một thời gian, tức là có độ chênh lệch lượng tiền gửi và
lượng tiền cần rút của người chủ sở hữu. Từ đó phát sinh nghiệp vụ đầu tiên
nhưng cơ bản nhất của ngân hàng nói chung đó là huy động vốn và cho vay
vốn. Ngày nay, ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng trong địa phương nói
riêng. Có rất nhiều định nghĩa về NHTM:
- Theo quan điểm của Mỹ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài

chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
- Theo đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa:
“NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là
nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới hình thức

6
khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết
khấu, tín dụng và tài chính”.
Khoản 1, 2 và 3 điều 4 của Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam năm
2010 cũng đã quy định rõ:
“1. Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả
các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
2. Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân
hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
3. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Từ những định nghĩa trên về ngân hàng, có thể rút ra được NHTM
là loại hình ngân hàng giao dịch trực tiếp với các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế và cá nhân thông qua nghiệp vụ tiền gửi, tiền tiết kiệm rồi sử
dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh
toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng lại cho đối tượng trên. Sự đa
dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng
được gọi là các “Siêu thị tài chính”.
1.2. Chức năng và vai trò Ngân hàng thương mại
1.2.1. Chức năng của ngân hàng thương mại
- Chức năng trung gian tín dụng

Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài
chính là hoạt động “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn

7
vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể
có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế. Hoạt động tín dụng
của NHTM đã góp phần khắc phục hạn chế đó.
Thực hiện chức năng này, một mặt NHTM huy động và tập trung các
nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay; mặt khác, trên cơ sở vốn đã huy động được, Ngân
hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của
các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy
kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, NHTM vừa là người đi
vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM
là đi vay để cho vay.
- Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện
thanh toán
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng Ngân hàng là thủ
quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản
hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản.
Ở NHTM chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ
với chức năng trung gian tín dụng. Ngân hàng dùng số tiền gửi của người này
cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng là người thủ quỹ của các doanh
nghiệp, Ngân hàng có đủ điều kiện để thực hiện các dịch vụ thanh toán theo
sự uỷ nhiệm của Ngân hàng. Trong khi làm trung gian thanh toán, Ngân hàng
tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó
(như là séc giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán, ) đã tiết kiệm cho xã hội rất
nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá

trình lưu thông hàng hoá.

8
- Chức năng tạo ra tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức
năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế
và hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTW đặc biệt trong
quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn
định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTW phát hành qua hệ
thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh
tế. Khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng được tính theo công thức:
D = m.MB
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
m =1/rd: hệ số nhân tiền
rd : tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTW có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi
lượng tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của
NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt
được hiệu quả mà mục tiêu chính sách tiền tệ đặt ra.
- Chức năng cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày
nay còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: dịch vụ
thanh toán, dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn, bảo hiểm
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân
hàng cũng phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Chưa bao giờ
các dịch vụ tài chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập
từ thu phí dịch vụ ở các ngân hàng hiện đại có thể chiếm tới 40-50% tổng thu
nhập của ngân hàng.
Đồng thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử


9
dụng vốn, tăng chu chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt
trong lưu thông do đó tiết kiệm được chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng
việc đưa ra các dịch vụ mới làm tăng diện tích cho khách hàng là một yếu tố
để cạnh tranh. Chính vì vậy mà các ngân hàng ngày nay tích cực đầu tư trang
bị cơ sở vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kĩ thuật vào hoạt động
của mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch
vụ, tạo được uy tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để
tăng khả năng huy động vốn.
1.2.2. Vai trò của NHTM
- Vai trò thực thi chính sách tiền tệ:
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về NHTW; để thực thi chính
sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết
khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng Các NHTM là chủ thể chịu sự tác
động trực tiếp của những công cụ này, đồng thời đóng vai trò cầu nối giữa
việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân
hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua NHTM và các định chế tài
chính trung gian khác, tình hình, sản lượng, giá cả, công ăn việc làm, nhu
cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất tỷ giá của nền kinh tế được phản
hồi về cho NHTW để Chính phủ và NHTW có những chính sách điều tiết
thích hợp với tình hình cụ thể. Với vai trò thực thi chính sách tiền tệ, điều
tiết vi mô NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua
các nghiệp vụ tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt, các quan
hệ về tham gia hùn vốn, tư vấn với các quan hệ thường xuyên đó, NHTM
giúp các hoạt động của các doanh nghiệp được tiến hành bình thường và
ngày càng phát triển.


10
- Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về
NHTW. Chức năng này được thể hiện trên 2 mặt:
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Với các chức năng và vai trò của mình, NHTW có đủ
điều kiện thiết lập một khách hàng tổng thể về việc phân bổ sử dụng các
nguồn lực cho nhu cầu phát triển kinh tế, từ đó NHTW trở thành một trong
những trung tâm điều hành mà sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn
vào trung tâm điều hành này. Chính sách tiền tệ là loại công cụ của chính phủ
can thiệp vào nền kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật
vận động của nó. Nhưng NHTW không trực tiếp giao dịch với công chúng,
do đó phải dựa vào thông tin phản hồi từ các định chế tài chính trung gian để
làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vậy, rõ ràng là nếu không có hệ
thống NHTM cung cấp thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính
sách tiền tệ của NHTW sẽ không hoàn hảo.
Thứ hai, chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ NHTW lan ra
đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền của hệ
thống ngân hàng thế giới và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu
không có sự chấp hành của hệ thống Ngân hàng thế giới, thì ý đồ và chính
sách tiền tệ của NHTW sẽ không thực hiện được.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng các
công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết là trong hệ
thống NHTM.
1.3. Rủi ro và phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.3.1. Khái niệm rủi ro
Có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro, nhưng nhìn chung có thể chia
làm hai quan điểm sau:

11

Theo quan điểm truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm hoặc các yếu tố khác liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều
không chắc chắn có thể xảy ra cho con người. Xã hội loài người ngày càng
phát triển, hoạt động của con người càng đa dạng, thì nhiều loại rủi ro mới
phát sinh.
Theo quan điểm trung hòa: Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được.
Rủi ro vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực, theo nghĩa rủi ro có
thể mang đến cho con người những tổn thất, mất mát, nguy hiểm, nhưng
cũng có thể mang đến những cơ hội, thời cơ không ngờ. Nếu tích cực nghiên
cứu, nhận dạng rủi ro, chúng ta có thể tìm ra được những biện pháp phòng
ngừa, hạn chế mặt tiêu cực và tận dụng, phát huy mặt tích cực do rủi ro mang
tới. Rủi ro là một sự không chắc chắn hay một tình trạng bất ổn. Tuy nhiên
chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào có thể ước đoán được xác suất
xảy ra mới được xem là rủi ro [5]. Rủi ro rất đa dạng và có thể được phân
tích theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu chỉ xin đề
cập đến một số loại rủi ro đặc thù trong hoạt động ngân hàng. Một ngôn ngữ
chung về rủi ro là rất quan trọng đối với ngân hàng và các đối tượng liên
quan để có thể trao đổi một cách hiệu quả về các vấn đề giám sát. Bảy loại
rủi ro kể cả các tiểu loại rủi ro trong một số loại rủi ro (như rủi ro lãi suất, rủi
ro giá cả, và rủi ro ngoại hối là các tiểu loại rủi ro thuộc rủi ro thị trường)
phản ánh thuật ngữ thông dụng trong ngành ngân hàng. Khi hoạt động ngân
hàng phát triển thì bản thân các ngân hàng cần phải nhận thức được rủi ro và
có cách thức ứng phó với từng loại rủi ro.
1.3.2. Phân loại rủi ro
1.3.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hoặc vốn phát sinh khi
người vay hoặc đối tác không thực hiện đúng điều khoản của hợp đồng hoặc

12
không thực hiện đầy đủ như thỏa thuận tại điều khoản của hợp đồng

Rủi ro tín dụng là loại rủi ro dễ nhận thấy nhất liên quan đến hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, định nghĩa này hàm chứa nhiều khía
cạnh hơn một định nghĩa truyền thống vốn cho rằng rủi ro tín dụng chỉ liên
quan đến các hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng cũng phát sinh trong nhiều
loại hoạt động ngân hàng, kể cả việc lựa chọn các sản phẩm cho danh mục
đầu tư, các chi nhánh, đại lý, các đối tác kinh doanh sản phẩm phái sinh hay
các đối tác ngoại hối. Rủi ro tín dụng cũng có thể phát sinh từ rủi ro quốc gia,
cũng như phát sinh một cách gián tiếp thông qua hoạt động bảo lãnh.
Rủi ro tín dụng tồn tại trên cả nội bảng và ngoại bảng cân đối của ngân
hàng. Rõ ràng rủi ro tín dụng phát sinh từ các món cho vay nhưng còn có các
nguồn khác gây ra rủi ro tín dụng như:
- Tài trợ và chấp thuận thương mại;
- Giao dịch liên ngân hàng;
- Cam kết và bảo lãnh;
- Các phái sinh lãi suất, ngoại hối, tín dụng (kể cả hợp đồng hoán
đổi, quyền chọn, các hợp đồng kỳ hạn lãi suất, và các hợp đồng tài chính
tương lai);
- Nắm giữ trái phiếu và cổ phiếu;
- Thực hiện giao dịch…
Các loại giao dịch được liệt kê trên đây có thể chứa đựng các rủi ro khác
nhưng rủi ro tín dụng là nổi bật nhất xuất phát từ việc không thực hiện như kế
hoạch và thoả thuận. Rủi ro tín dụng có ở trong từng loại giao dịch được liệt
kê này.
Ví dụ: khi tất cả các điều kiện của một thư tín dụng tài trợ thương mại đã
được đáp ứng thì ngân hàng phát hành thư tín dụng đó phải thanh toán. Nếu
người xin mở thư tín dụng không thể thanh toán cho ngân hàng phát hành thì

13
rủi ro tín dụng sẽ chuyển thành tổn thất tín dụng.
1.3.2.2. Rủi ro thị trường

Rủi ro thị trường là rủi ro tiềm ẩn xảy ra tại một tổ chức tín dụng nào khi
có những biến động giá cả thị trường gây ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập hoặc
vốn của tổ chức tín dụng. Rủi ro thị trường có nhiều hình thức nên được chia
ra làm 3 loại là rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, và rủi ro giá cả. Ba loại này
nằm trong khái niệm rộng về rủi ro thị trường cũng như phù hợp với cách
thức đo lường rủi ro này trong nội bộ ngân hàng. Rủi ro lãi suất cũng có thể
phân thành các loại nhỏ hơn, chính xác hơn để định rõ nguồn gốc gây ra rủi ro
lãi suất ở nội và ngoại bảng cân đối của một ngân hàng.
a. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là rủi ro tiềm ẩn có ảnh hưởng bất lợi đến thu nhập hoặc
vốn phát sinh từ những biến động về lãi suất
b. Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hoặc vốn phát sinh do
có sự biến động của tỷ giá ngoại hối. Rủi ro này chủ yếu xảy ra trong thời
gian tổ chức tín dụng có trạng thái mở, ở cả nội bảng và ngoại bảng, và/ hoặc
trên thị trường giao ngay hoặc thị trường kỳ hạn.
Rủi ro này có liên quan đến cả các hoạt động đầu tư và kinh doanh xuyên
quốc gia, cũng như hoạt động kinh doanh và đầu tư nội địa bằng ngoại tệ bao
gồm các khoản vay, các khoản tiền gửi, các khoản đầu tư vốn cổ phần (ví dụ
như đầu tư xuyên quốc gia). Các quy tắc kế toán đòi hỏi định kỳ phải đánh giá
lại các tài khoản này với tỷ giá giao ngay hiện tại. Việc đánh giá lại phải này
chuyển đổi tài khoản ngoại tệ sang đồng Việt Nam.
Ví dụ: Một tổ chức tín dụng có thể cấp một khoản vay ngoại tệ hoặc
nhận một khoản tiền gửi ngoại tệ từ các khách hàng nội địa. Lượng ngoại tệ
này có thể định giá tại thời điểm cuối của kỳ báo cáo hoặc kỳ kế toán bằng

14
VND thể hiện trên bảng cân đối tài chính.
Tổ chức tín dụng phải chịu các rủi ro khác nữa liên quan đến tài sản có
và tài sản nợ bằng ngoại tệ. Rủi ro thanh khoản phải được đánh giá cho mỗi

loại tiền tệ mà tổ chức tín dụng có các hạng mục tài sản chủ yếu. Việc tăng
giá trị tiền tệ cũng có thể ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng, đặc biệt là đối với
người đi vay phải trả những khoản nợ bằng loại tiền có giá trị đang tăng lên.
c. Rủi ro biến động giá
Rủi ro biến động giá là rủi ro tiềm ẩn có tác động xấu đến vốn hoặc thu
nhập do có những thay đổi bất lợi về giá trị của các công cụ tài chính và các
khoản đầu tư hay tài sản có do tổ chức tín dụng hay các đơn vị trực thuộc nắm
giữ, cả nội và ngoại bảng, do có thay đổi về giá trị hay giá thị trường.
Ví dụ: Các tổ chức tín dụng có trạng thái đầu tư vốn cổ phần vào các
công ty và các dự án có rủi ro giá cả.
Khi giá trị của một trong các công ty và dự án thay đổi thì các giá trị
mà tổ chức tín dụng nắm giữ cũng sẽ thay đổi theo. Các giá trị có thể thay đổi
do hoạt động của công ty, do thay đổi trên bảng cân đối kế toán hoặc do
những thay đổi về giá cổ phiếu được kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Các trạng thái này được định giá theo giá trị trường theo các quy định kế toán
để thể hiện chính xác giá trị của mỗi trạng thái mà tổ chức tín dụng nắm giữ.
1.3.2.3. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là rủi ro tiềm ẩn có tác động xấu tới thu nhập hoặc
vốn phát sinh khi:
- Tổ chức tín dụng không có khả năng đáp ứng các nghĩa vụ khi đến
hạn, hoặc
- Tổ chức tín dụng có khả năng đáp ứng nghĩa vụ khi đến hạn nhưng phải
chịu tổn thất lớn để thực hiện nghĩa vụ đó.
Thanh khoản là khả năng đáp ứng việc giảm tài sản nợ và tăng tài sản có.

15
Một ngân hàng đảm bảo được tính thanh khoản khi ngân hàng đó có đủ quỹ,
hoặc bằng cách tăng tài sản nợ hoặc bằng cách chuyển đổi tài sản có một cách
nhanh chóng với mức chi phí hợp lý. Tính thanh khoản là đặc biệt quan trọng
đối với tất cả các ngân hàng để bù đắp cho những biến động dự tính và những

biến động không biết trước của bảng cân đối tài chính và cung cấp nguồn vốn
để phát triển hoạt động.
Vì nhu cầu về thanh khoản được đáp ứng bằng cách nắm giữ các tài sản
có giá ngắn hạn chất lượng cao, giá của thanh khoản là sự hy sinh thu nhập do
không nắm giữ những tài sản có dài hạn hơn hoặc có chất lượng thấp hơn.
Nếu nhu cầu về thanh khoản không được đáp ứng nhờ nắm giữ các tài sản có
tính lỏng cao thì ngân hàng buộc phải tiến hành tái cơ cấu hoặc huy động
thêm tài sản nợ trong những điều kiện bất lợi của thị trường.
Ví dụ: Một tổ chức tín dụng có 1 tài sản có (trái phiếu chính phủ) và 1 tài
sản nợ (tiền gửi) với số tiền ngang nhau và thu nhập cố định. Thời gian đáo
hạn của tài sản có là 6 tháng, và tài sản nợ là 3 tháng. Tổ chức tín dụng phải
đối mặt với vấn đề thanh khoản ở tháng thứ 3, khi đó trái phiếu vẫn còn dư nợ
nhưng tiền gửi thì đã đến hạn phải trả. Khi đó ngân hàng có thể cố gắng
khuyến khích người gửi tiền ban đầu gửi tiếp tiền tại ngân hàng bằng cách
tăng lãi suất; ngân hàng có thể tìm kiếm các khoản tiền gửi mới và sử dụng
chúng để chuyển trả cho người gửi tiền trước đó hoặc có thể sử dụng trái
phiếu để thế chấp vay tiền từ cửa sổ chiết khấu Ngân hàng Nhà nước nếu trái
phiếu đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy định của Nhà nước về việc cho
ngân hàng vay thế chấp bằng giấy tờ có giá.
1.3.2.4. Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp tồn tại trong hầu hết các bộ phận của ngân hàng có thực
hiện nghiệp vụ giao dịch kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc các hoạt động
chấp nhận rủi ro. Vì rủi ro tác nghiệp tồn tại tiềm tàng trong các hoạt động

16
của một ngân hàng cũng như các đơn vị hoạt động, trong hệ thống máy tính
của ngân hàng và trong hầu hết các giao dịch, cam kết hoặc quyết định mà các
nhân viên ngân hàng thực hiện, ngân hàng phải tập trung vào những lĩnh vực
quan trọng nhất của rủi ro tác nghiệp để có các biện pháp quản lý và giảm
thiểu rủi ro tác nghiệp.

1.4. Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh doanh của NHTM có thể nảy sinh từ
những đặc điểm nội tại của hoạt động kinh doanh ngân hàng song cũng có thể
chịu ảnh hưởng từ những điều kiện và môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội.
Trên cơ sở đó, các chuyên gia tài chính ngân hàng đã phân chia nguyên nhân
rủi ro thành ba nhóm như sau:
1.4.1. Nguyên nhân từ môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội
Đây là những nguyên nhân xảy ra rủi ro như thảm họa tự nhiên (bão lụt,
hạn hán, động đất v.v) hay những thay đổi về chính sách quản lý kinh tế - xã
hội của chính phủ gây thiệt hại khách hàng hoặc trực tiếp cho các ngân hàng.
Đặc điểm chung của nhóm nguyên nhân này là cả khách hàng và ngân hàng
không thể có bất kỳ hành động nào để hạn chế ngoài việc dự đoán, dự phòng
và chịu đựng. Do vậy các NHTM luôn phải dự phòng để khắc phục rủi ro là
điều có ý nghĩa hơn cả.
1.4.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Bao gồm các cá nhân và doanh nghiệp, kể cả các NHTM và các định chế
tài chính khác. Khi các đối tượng khách hàng không thể hoặc không muốn
thực hiện những cam kết với ngân hàng thì ngân hàng phải chịu những tổn
thất. Trên thực tế, điều rất dễ nhận thấy là trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và đời sống của khách hàng là có thể gặp phải rủi ro và ít nhất thì một
phần rủi ro đó sẽ được chia sẻ hay chuyển sang cho ngân hàng. Nói cách khác
NHTM cùng phải chịu tổn thất từ những rủi ro trong quá trình sản xuất kinh

17
doanh và đời sống của khách hàng. Có thể nói phần lớn (trên 90%) khách
hàng không thực hiện cam kết với ngân hàng vì bản thân họ gặp rủi ro.
Ngoài ra số ít hơn (dưới 5%) khách hàng chủ động chối bỏ không thực hiện
những cam kết vì những lợi ích nhất thời nào đó và một số khách hàng
(khoảng 3%) chủ động thực hiện những hành vi lừa đảo đối với ngân hàng.
So với nhóm nguyên nhân thứ nhất, nhóm nguyên nhân này có thể được

ngân hàng hạn chế ở mức độ nhất định thông qua biện pháp hỗ trợ, tư vấn
để khắc phục sự yếu kém về năng lực quản lý, kinh nghiệm và trình độ
công nghệ giúp ngân hàng phòng tránh và hạn chế được rủi ro sau khi đã
tiến hành các biện pháp sàng lọc phân loại để loại bỏ những khách hàng có
hành động hay động cơ không tốt.
1.4.3. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Đối với các ngân hàng trên thế giới, nhóm nguyên nhân này được coi là
quan trọng nhất vì khả năng phòng chống và hạn chế rủi ro phụ thuộc chủ yếu
bởi năng lực của ngân hàng. Có thể thấy rất rõ là từ sự hợp lý từ chính sách
đến trình độ công nghệ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên
làm việc trong ngân hàng đều là các nhân tố tác động đến mức độ rủi ro của
mỗi ngân hàng.
Các ngân hàng có trình độ công nghệ cao, chủng loại sản phẩm đa dạng
phong phú, nguồn nhân lực có phẩm chất tốt luôn có mức độ rủi ro ở mức
thấp, thậm chí, ngay cả khi rủi ro đã xảy ra các ngân hàng vẫn có thể hạn chế
hậu quả thông qua các biện pháp kinh tế và thị trường để giảm thiểu tổn thất
tài chính và uy tín.
1.5. Quản trị rủi ro của ngân hàng thương mại
1.5.1. Khái niệm quản trị rủi ro
Mọi NHTM hoạt động kinh doanh đều hướng tới mục tiêu tạo ra lợi thế
cạnh tranh và đem lại giá trị tăng thêm cho những đối tác bên trong và bên

18
ngoài của đơn vị mình gắn kết chặt chẽ với hoạt động của mình. Để có thể đạt
được mục tiêu đó, các NHTM thường xây dựng cho mình chiến lược hoạt
động cùng hàng loạt những chương trình, kế hoạch để thực thi những chiến
lược đã được đề ra. Trong quá trình thực thi chiến lược sẽ thường có nhiều rủi
ro xảy ra làm ảnh hưởng đến quá trình tiến tới mục tiêu của NHTM. Hệ thống
quản trị rủi ro được thiết lập nhằm san lấp những khiếm khuyết này.
Quản trị rủi ro là việc nhận diện, phân tích, đánh giá và đưa ra các

chính sách, quy trình, phương pháp để kiểm soát, phòng ngừa, giảm thiểu
hoặc loại bỏ các rủi ro. [5]. Một ngân hàng có thể dùng giả định rủi ro, tránh
rủi ro, chuyển rủi ro hay bất cứ chiến lược nào kể cả kết hợp để có thể quản lý
rủi ro được nhận diện.
1.5.2. Vai trò của quản trị rủi ro đối với Ngân hàng
Thứ nhất, Quản trị rủi ro giúp ngân hàng đề ra các chiến lược kinh
doanh: Quản trị rủi ro giúp các NHTM có thể dự đoán được những rủi ro có
thể xảy ra để chủ động có phương án đối phó nhằm phòng ngừa, hạn chế và
khắc phục rủi ro. Từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh cho phù hợp để đảm
bảo mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng và hạn chế tối đa rủi ro có thể
xảy ra.
Thứ hai, trong điều kiện hội nhập hiện nay thì cạnh tranh luôn luôn hiện
hữu trong tất cả các lĩnh vực, và hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Để phát huy được lợi thế cạnh tranh thì các NHTM cần
phải làm tốt công tác quản trị rủi ro để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Thứ ba, quản trị rủi ro tốt giúp NHTM chủ động trong việc xác định và
đo lường mức vốn tối thiểu cần cho hoạt động và đo lường được khả năng
thanh toán của ngân hàng một cách chính xác nhất khi đã lượng hoá được
những rủi ro có thể gặp phải.

19
Thứ tư, Quản trị rủi ro tốt giúp cho lãnh đạo ngân hàng có thể chủ động
trong việc phòng ngừa, hạn chế rủi ro, từ đó có thể đưa ra những quyết định
quản trị phù hợp.
Thứ năm, quản trị rủi ro giúp các phòng, ban liên quan định giá lại các
khoản mục kinh doanh: quản trị rủi ro giúp cho ngân hàng chủ động trong
việc nhận biết, phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Qua đó các phòng ban có thể định giá lại các khoản mục kinh
doanh để có phương án kinh doanh phù hợp.

Thứ sáu, báo cáo và kiểm soát rủi ro là việc làm quan trọng trong công
tác quản trị rủi ro; quản trị rủi ro và lập báo cáo rủi ro gửi lên ban quản lý rủi
ro thì việc kiểm soát rủi ro sẽ mang lại hiệu quả.
Thứ bẩy, quản trị rủi ro giúp ngân hàng quản lý danh mục đầu tư trong
giao dịch: đầu tư là một trong những hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi
nhuận cho ngân hàng nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, vì thế việc xác định
được danh mục đầu tư phù hợp là rất quan trọng. Để làm tốt được việc đó thì
mỗi ngân hàng cần làm tốt công tác quản trị rủi ro.
1.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản trị rủi ro
Trong quá trình quản trị rủi ro của ngân hàng, có 5 yếu tố chính cần
được lưu ý đó là:

×