Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ






NGUYỄN VĂN THIỀNG




CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT
NAM










LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ













HÀ NỘI - 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ






NGUYỄN VĂN THIỀNG




CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT NAM




Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 5.02.01





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC KINH TẾ.







Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Dũng




HÀ NỘI - 2004


MỤC LỤC

TRANG

MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1: CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
6



1.1. DNVVN và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại
6
1.1.1. Khái niệm và các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở các nƣớc
6
1.1.2. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
11
1.1.3. Đặc điểm của DNVVN
12
1.1.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển DNVVN
16


1.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chính sách đối với các DNVVN
23
1.2.1. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
23
1.2.2. Chất lƣợng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách
23
1.2.3. Đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp
24
1.2.4. Sự phát triển và khả năng ứng dụng tiến bộ KH&CN
25
1.2.5. Tình hình thị trƣờng
25


1.3. Chính sách phát triển DNVVN ở một số quốc gia
25

1.3.1. Hàn Quốc
25
1.3.2. Singapore
30
1.3.3. Đài Loan
33
1.3.4. Một số kinh nghiệm của các nƣớc về chính sách phát triển các DNVVN
35


CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DNVVN Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
38
2.1. Tiến trình chính sách và tác động tới sự phát triển DNVVN ở Việt Nam
38
2.1.1. Giai đoạn 1986 - 1990
40
2.1.2. Giai đoạn 1991 - 1999
43
2.1.3. Giai đoạn 2000 đến nay
50


2.2. Những kết quả đạt được và những tồn tại, yếu kém trong chính sách
phát triển DNVVN ở Việt Nam thời gian qua
61
2.2.1. Những kết quả chủ yếu
61
2.2.2. Những tồn tại, yếu kém chủ yếu
66
2.2.3. Một số nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, yếu kém

76


CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH
79


3.1. Một số quan điểm chính trong việc xây dựng chính sách phát triển
DNVVN
79
3.1.1. Không phân biệt đối xử, tạo môi trƣờng cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng
79
3.1.2. Tìm mọi biện pháp để huy động nguồn nội lực tiềm ẩn của đất nƣớc, tiếp
tục xoá bỏ những rào cản kìm hãm
80
3.1.3. Nhà nƣớc không làm thay doanh nghiệp mà chỉ hỗ trợ những gì doanh
nghiệp không thể làm đƣợc
80
3.1.4. Chính sách phát triển DNVVN đặt trong quan hệ với các chính sách khác
81
3.1.5. Tính ổn định cao và rõ ràng của chính sách
81


3.2. Một số khuyến nghị về chính sách phát triển DNVVN
81
3.2.1. Chính sách cạnh tranh
81
3.2.2. Chính sách khoa học và công nghệ
83

3.2.3. Chính sách thƣơng mại
86
3.2.4. Chính sách đầu tƣ
88
3.2.5. Chính sách vốn, tài chính, tín dụng
90
3.2.6. Chính sách thuế
92
3.2.7. Chính sách đất đai
95
3.2.8. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
96
3.2.9. Khuyến khích phát triển hiệp hội DNVVN
97


Kết luận
98


Tài liệu tham khảo



Phụ lục




NHỮNG TỪ VIẾT TẮT


Tiếng Việt:

- CNXH Chủ nghĩa xã hội
- DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ
- DNNN Doanh nghiệp nhà nước
- DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
- CTCP Công ty cổ phần
- KH&CN Khoa học và công nghệ
- KHKT Khoa học kỹ thuật
- CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- TNHH Trách nhiệm hữu hạn
- KCN Khu công nghiệp
- KCX Khu chế xuất
- ĐKKD Đăng ký kinh doanh
- GPMB Giải phóng mặt bằng
- ĐTNN Đầu tư nước ngoài
- LLSX Lực lượng sản xuất
- QHSX Quan hệ sản xuất
- GTGT Giá trị gia tăng
- XNK Xuất nhập khẩu

Tiếng Anh:
- WB Ngân hàng Thế giới
- IFC Công ty tài chính quốc tế


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát
triển rõ rệt. Theo như đánh giá của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII thì thành công của đổi mới đã đưa "nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài". Một trong những
điểm mấu chốt đem lại sự thàng công đó chính là chúng ta đã biết huy
động các nguồn lực của đất nước, tính năng động, chủ động, sáng tạo
của tất cả các doanh nghiệp, trong đó có đóng góp rất quan trọng của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN).
Trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thì loại hình DNVVN chiếm số lượng lớn
trong nền kinh tế ở nước ta và có xu hướng phát triển nhanh. DNVVN
không chỉ thích hợp với nền kinh tế của các nước đang phát triển mà
ngay cả với những nước phát triển. Những ưu thế của loại hình
DNVVN không chỉ được đưa ra trong lý luận mà còn được thể hiện
một cách rõ ràng và thuyết phục trong thực tiễn ở nhiều nước trên thế
giới.
Trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, vấn đề cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt và có sự thay đổi căn bản trong tư duy kinh
tế so với cách đây một thập kỷ. Trình độ phát triển của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay còn hết sức thấp kém, lạc hậu, do đó việc mong
muốn có những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn mạnh chiếm lĩnh
thị trường thế giới là một điều khó có thể thực hiện được ngay lúc này.
Thiết thực hơn, chúng ta nên tìm cách phát triển những loại hình
doanh nghiệp phù hợp với đặc thù, trình độ KH&CN, tiềm lực kinh tế
của mình trên cơ sở phát huy tốt những lợi thế so sánh về thị trường,
về nguồn nguyên liệu và lao động rẻ,… chiếm lĩnh thị phần ở các thị
2
trường ngách, cung ứng ở những phần nhỏ của thị trường quốc tế rộng
lớn có nhiều đối thủ cạch tranh, từng bước tăng dần thực lực, tự tin hội
nhập một cách vững chắc.

Tuy nhiên, DNVVN dù sao cũng có nhưng hạn chế của nó, để
có thể phát huy tối đa năng lực còn tiềm ẩn của loại hình doanh nghiệp
này thì rất cần phải có những chính sách hỗ trợ hợp lý của Chính phủ.
Thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy chỉ khi nào có được những
chính sách đúng đắn định hướng cho chiến lược phát triển DNVVN thì
mới có thể phát huy tốt những ưu thế của nó, phục vụ đắc lực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Xuất phát từ suy nghĩ đó nên tôi đã chọn đề tài "Chính sách phát
triển DNVVN ở Việt Nam" nhằm phân tích, luận giải về DNVVN trước
những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; quan điểm, cách
đánh giá thực trạng chính sách phát triển DNVVN Việt Nam hiện nay;
đưa ra những khuyến nghị, giải pháp về mặt cơ chế, chính sách góp phần
vào thúc đẩy sự phát triển DNVVN Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa
kinh tế, trước yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2.Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đề tài DNVVN đã được
thực hiện ở nước ta, chẳng hạn: Báo cáo định hướng chiến lược và chính
sách phát triển DNVVN ở Việt Nam đến năm 2010 ( của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư - MPI), Phát triển DNVVN: Kinh nghiệm nước ngoài và phát
triển DNVVN ở Việt Nam ( của Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thu Hòa),… Đề
tài này không chỉ nhận được sự quan tâm nghiên cứu của Chính phủ, các
Bộ, Ngành, Viện nghiên cứu, các nhà khoa học trong nước mà còn có sự
hỗ trợ tích cực của các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức quốc
tế như: DNVVN Việt Nam: Trên đường đi đến phồn vinh ( Leila Webster,
MPDF 1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và
đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các
3
DNVVN tại Việt Nam (Dự án US/VIE/95/004), DNVVN-Hiện trạng và
những kiến nghị giải pháp (Viện Friedrich Ebert, 2000),… những nghiên
cứu đó đã góp phần rất quan trọng trong công việc nhận thức đầy đủ rõ

ràng hơn về DNVVN. Nhiều kiến nghị và giải pháp đã được trình cho
chính phủ làm cơ sở cho việc hoạch định những chính sách kinh tế quan
trọng khuyến khích phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Mặc dù đã có những chuyển biến về nhận thức đối với các
DNVVN nhưng các chính sách của chính phủ vẫn còn tồn tại nhiều bất
cập đòi hỏi cần phải tiếp tục sủă đổi bổ sung cho phù hợp. Bên cạnh đó,
xu thế toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạng
mẽ và có những tác động rất lớn tới tất cả các quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là về kinh tế, đòi hỏi Việt Nam cần phải nhanh chóng điều
chỉnh về mặt chính sách kinh tế theo xu thế chung của thời đại, phù hợp
với thông lệ quốc tế. Do vậy cũng đã có một số công trình chỉ tập trung
nghiên cứu về chính sách phát triển của Chính phủ đối với các DNVVN.
Nhiều công trình đuợc biên soạn khá công phu và đã đưa ra được nhiều
giải pháp hay, chẳng hạn như: Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN Việt
Nam (PGS. TS. Nguyễn Cúc), Giải pháp phát triển DNVVN ở Việt Nam
(của GS. TS. Nguyễn Đình Hương),… Tuy nhiên, những kết quả nghiên
cứu trên chưa thể coi là kết luận cuối cùng, đặc biệt trong giai đoạn nền
kinh tế nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và thế giới.
Do đó, việc nghiên cứu các chính sách phát triển DNVVN Việt
Nam cần được tiếp tục nhằm bổ sung những cơ sở khoa học giúp Chính
phủ trong việc hoạch định chính sách kinh tế trong tình hình mới. Luận
văn này cũng chỉ hy vọng và mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé vào
sự nghiệp phát triển kinh tế chung của đất nước.
3. Mục đích của luận văn
Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế về sự phát triển
của DNVVN, tác động của chính sách phát triển đối với DNVVN, luận
4
văn đưa ra khuyến nghị về các chính sách cụ thể như: chính sách công
nghệ, chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các DNVVN, chính sách
thương mại,… nhằm hoàn thiện các chính sách đối với DNVVN, góp

phần nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN trước những yêu cầu
bức xúc của hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng:
Nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đối với các DNVVN
khu vực kinh tế tư bản tư nhân từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới đến
nay.
b. Phạm vi nghiên cứu:
Trong luận văn này, tác giả có chủ đích tập trung vào nghiên cứu
đối tượng các DNVVN trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân (xét theo
thành phần kinh tế), bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty cổ
phần, công ty TNHH, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Những phương pháp cụ thể đước
sử dụng là: nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lý luận khoa học, khảo sát
thực tiễn có đối chứng, so sánh với lý luận khoa học kết hợp với việc tư
duy phân tích kinh tế; sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để giải
quyết vấn đề đặt ra.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ những tác động của các chính sách của Chính phủ đối
với các DNVVN trong thời gian qua, từ đó phát hiện ra những mâu
thuẫn, hạn chế trong các chính sách phát triển DNVVN.
5
- Đề xuất các khuyến nghị trong việc hoạch định và hoàn thiện
các chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục đích, mục lục, danh mục các tài
liệu tham khảo (và phụ lục), luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Chính sách đối với DNVVN trong nền kinh tế hiện đại: Cơ

sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
Chương 2: Chính sách phát triển DNVVN ở Việt Nam thời gian qua
Chương 3: Quan điểm và một số khuyến nghị về chính sách phát triển
đối với DNVVN Việt Nam































6
Chƣơng 1
CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DNVVN TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN ĐẠI.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
1.1. DNVVN và vai trò của nó trong nền kinh tế hiện đại
1.1.1. Khái niệm và các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở một số
nước và Việt Nam
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng, khái
niệm DNVVN được "du nhập" từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí
DNVVN là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu
vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về DNVVN rõ ràng phải dựa
trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường, đó là các tiêu chí về số
nhân công, vốn đăng k ý, doanh thu,… các tiêu chí này thay đổi theo từng
quốc gia, từng thời điểm khác nhau.
Ở Việt Nam, vấn đề này đã được giải quyết tạm thời bằng Công văn
số 681/CP-KTN ngày 20/6/1998 của Chính phủ, theo đó DNVVN là những
doanh nghiệp có số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.600
USD vào thời điểm ban hành Công văn số 681) và có số lao động trung bình
hàng năm dưới 200 người. Tiêu chí này được xác định nhằm xây dựng một
bức tranh chung về các DNVVN ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định
chính sách. Tiếp sau đó Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 đưa
ra định nghĩa chính thức DNVVN như sau: "DNVVN là cơ sở sản xuất,
kinh doanh độc lập, đã đăng k ý kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
vốn đăng k ý không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm
không quá 300 người."
* Các tiêu thức chủ yếu để xác định DNVVN ở các nước và ở Việt Nam:

Trong thực tế việc xác định DNVVN của một nước thường được cân
nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung
trong cả nước và tính chất nền kinh tế của nước đó. Như vậy việc xác định
DNVVN không có tính chất "cố định" mà có xu hướng thay đổi theo tính
chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển của
7
doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để xác định DNVVN có thể là: Tổng vốn đầu tư
giá trị tài sản cố định, số lao động sử dụng thường xuyên, doanh thu, lợi
nhuận, vốn bình quân trong lao động Mỗi nước có những quan niệm khác
nhau và lựa chọn tiêu thức không hoàn toàn giống nhau. Chúng tôi nghiên
cứu cách phân loại DNVVN một số quốc gia, lãnh thổ trên thế giới và trong
khu vực sau:
Đài Loan: DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: là
doanh nghiệp có vốn dưới 40 triệu đô la Đài Loan, số lao động thường
xuyên dưới 300 người; trong khai khoáng có vốn dưới 40 triệu đô la Đài
Loan, số lao động thường xuyên dưới 500 người; trong thương mại, vận tải
và dịch vụ khác: có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đô la Đài Loan,
số lao động dưới 50 người.
Thái Lan: Là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh.
Họ quan niệm doanh nghiệp quy mô vừa có từ 50 đến 200 lao động, doanh
nghiệp quy mô nhỏ có dưới 50 lao động. Thái Lan chỉ quan tâm đến một tiêu
thức là lao động và cũng không tính đến tính chất đặc thù của ngành kinh tế
(tiêu thức này gần giống với Việt Nam).
Phillipines: Trong sản xuất, doanh nghiệp được chia thành 4 loại:
Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: có vốn dưới 1,5 triệu pêsô.
Doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1,5 triệu đến 15 triệu pê sô.
Doanh nghiệp vừa có vốn từ 15 triệu đến 100 triệu pê sô.
Doanh nghiệp lớn có vốn trên 100 triệu pê sô.
Philipines lấy tiêu thức chủ yếu là vốn.
Nhật Bản: DNVVN được phân loại như sau:

Đối với doanh nghiệp sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động
và vốn đầu tư dưới 100 triệu Yên. Trong số này, doanh nghiệp có dưới 20
lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ. Đối với doanh nghiệp bán buôn:
doanh nghiệp có dưới 100 lao động và vốn đầu tư dưới 30 triệu Yên. Trong
số này, doanh nghiệp có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 50 lao động
8
và vốn đầu tư dưới 10 triệu Yên. Trong số này, doanh nghiệp có dưới 20
lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Như vậy, Nhật Bản chỉ quan tâm đến 2 tiêu thức là vốn và lao động.
Đối với tiêu thức lao động của loại hình doanh nghiệp nhỏ thì Nhật Bản quan
niệm gần giống với Hàn Quốc, rất thấp so với các nước trong khu vực châu Á.
Phải chăng các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, nguồn nhân lực có hạn thì họ
quan tâm đến tiêu thức đầu tư vốn nhiều hơn.
Có thể nói, hầu hết các nước khi xác định DNVVN đều dựa vào 2
tiêu chí cơ bản đó là vốn và lao động. Hai tiêu chí này là hai tiêu chí cơ
bản hợp thành doanh nghiệp. Song do đặc điểm của một số ngành nghề
kinh doanh, ngoài hai tiêu chí trên còn tham khảo thêm doanh số hoặc
doanh thu bán hàng. Việc phân chia doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các
nước theo ngành nghề có khác nhau trong từng thời kỳ. Còn trị số các tiêu
chí thì rất khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của từng
nước. Trong một nước lại có sự khác nhau theo từng thời kỳ và từng lĩnh
vực sản xuất kinh doanh, nhưng tựu chung lại, những doanh nghiệp được
gọi là DNVVN có tổng số vốn pháp định hoặc tổng giá trị tài sản dưới 1
triệu USD và số lao động dưới 500 người.
Do tiêu chí xác định DNVVN ở các nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều
kiện của từng nước, cũng như quan điểm về chính sách của từng nước.
Bảng 1: TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH DNVVN Ở MỘT SỐ NƢỚC.
Nƣớc
Các tiêu chí áp dụng

Lao động
Tổng vốn hoặc
giá trị tài sản
Doanh thu
Ôxtrâylia
<500 trong CN và DV


Canada
<500 trong CN và DV

< 20 triệu $Canada
Hồng Kông
<100 trong CN và <50 trong DV


Inđônêxia
<100
<0.6 tỷ Rupi
<2 tỷ Rupi
Nhật
<50 trong bán lẻ
<100 trong bán buôn
<300 trong các ngành khác
<10 triệu Yên
<30 triệu Yên
<100 triệu Yên

Philippin
<200

<100 triệu Pêsô

Singapore
<100
<499 triệu $ Singapore

Thái Lan
<200


Mỹ
<500


Nguồn: [22, tr.47].
9
Tiêu chí xác định DNVVN phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng
hỗ trợ của Chính phủ ở từng thời kỳ nên các tiêu chí xác định DNVVN ở
một số nước cũng không phải là không thay đổi. Trái lại các tiêu chí này
cũng thay đổi theo thời gian tuỳ thuộc vào ý đồ và chiến lược của Chính
phủ muốn hỗ trợ ngành nào hoặc doanh nghiệp có quy mô nào ở từng thời
kỳ phát triển của nước đó.
Ngay trong cùng một nước, các tiêu chí để xác định doanh nghiệp
được nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó cũng không phải bao giờ cũng
trùng với tiêu chí của các tổ chức khác hoặc trùng với tiêu chí theo quy
định trong luật của Chính phủ (đối với những nước có luật về DNVVN).
Tuy nhiên nếu là chính sách của Nhà nước thì tất nhiên chính sách đó phải
tuân thủ luật pháp và phải lấy tiêu chí do luật định để xác định các đối
tượng được hưởng chính sách đó. Do vậy, tiêu chí xác định DNVVN của các
nước là căn cứ tham khảo tốt đối với Việt Nam.

Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ quy
định DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế
- xã hội cụ thể của ngành, địa phương, hai tiêu chí trên có thể linh hoạt áp
dụng đồng thời hoặc một trong hai chỉ tiêu trên (Điều 3, Định nghĩa
DNVVN).
Theo Nghị định này, chúng tôi xin cụ thể hoá thêm: "Doanh nghiệp
nhỏ là doanh nghiệp có số lao động ít hơn 50 người hoặc có tổng số vốn
dưới 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 51
đến 300 người hoặc có tổng số vốn từ 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng; doanh
nghiệp lớn là doanh nghiệp có số lao động trên 300 người hoặc có tổng giá
trị vốn trên 10 tỷ đồng".
Tóm lại, DNVVN là tổ chức kinh tế, có đầu tư và xúc tiến hoạt động
sản xuất, kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ về tài chính, đăng ký và chịu
10
sự quản lý của các cấp chính quyền Nhà nước theo luật pháp, đáp ứng
những quy định của Chính phủ về quy mô lao động và vốn.
Tuy nhiên tiêu thức xác định DNVVN nêu trên chỉ nên coi là tiêu chí
chung có tính chất "khung" để định hướng và điều chỉnh các chủ trương,
chính sách phát triển khu vực kinh tế này. Trong quá trình điều hành cũng
cần có sự xem xét, cụ thể hoá tiêu chí xác định DNVVN cho từng lĩnh vực
kinh tế từng ngành nghề cho phù hợp.
Trong luận văn này, tác giả có chủ đích tập trung vào nghiên cứu đối
tượng là các DNVVN trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân (xét theo thành
phần kinh tế), bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty cổ phần,
công ty TNHH, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn ĐTNN.
Tuy nhiên, theo phân loại về thành phần kinh tế như Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam, thì thành phần

kinh tế tư bản tư nhân không bao gồm thành phần kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài, mà thành phần này được xếp là một thành phần kinh tế riêng
(Xin xem thêm Bảng phụ lục 15 Sơ đồ phân loại doanh nghiệp). Bên cạnh
đó, nếu xét về quy mô DNVVN thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, số DNVVN trong loại hình
này rất ít (quy mô vốn lớn hơn 10 tỷ đồng).
Cho đến nay, việc phân loại các doanh nghiệp theo quy mô vẫn chưa
được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, Những tiêu chí phân loại quy mô đôi
khi cũng rất khác nhau khiến cho việc tổng hợp số liệu không thực hiện được
một cách có hệ thống. Có một số nghiên cứu từ nhiều nguồn khác nhau cho
phép khẳng định kết luận: "DNVVN chiếm tỷ lệ đa số trong khu vực kinh tế
tư nhân"[19, tr.42] và quy mô các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay theo
thống kê của Tổng cục Thống kê năm 2002 cũng cho thấy điều này (xin tham
khảo Phụ lục số 9). Thêm vào đó, những quan sát đầu tiên về DNVVN ở Việt
Nam cũng thường được thực hiện ở khối tư nhân, nơi có tỷ lệ DNVVN chiếm
11
đa số. Điều này đã giúp cho các nhà nghiên cứu vượt qua được vấn đề thiếu số
liệu và đưa ra được các kết luận đa chiều.


1.1.2. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế
Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, các DNVVN
hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý phù hợp sẽ đóng một vai
trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò
của các DNVVN và tiềm năng phát triển của các DNVVN được thể hiện ở
các điểm sau:
+ Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá và dịch vụ: Các
DNVVN có thể sản xuất nhiều loại hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong
nước và các loại máy móc, thiết bị, công cụ và linh kiện cần thiết cho các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp.

+ Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp: Nhiều DNVVN có thể tạo
ra công ăn việc làm cho số lượng lớn người lao động. ở những nước khác,
DNVVN là một trong những khu vực tạo ra nhiều việc làm nhất, giải quyết
cơ bản một trong những vấn đề phức tạp mà các quốc gia phải đương đầu
với nạn thất nhiệp trong quá trình phát triển.
+ Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho
nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn: Các DNVVN có thể phát triển và
sử dụng hiệu quả nguồn tài chính được huy động trong nước và các nguồn
nguyên liệu vật liệu hoặc các sản phẩm trung gian có sẵn trong nước.
+ Các DNVVN có thể đóng góp vào nỗ lực phân bổ các ngành công
nghiệp đến nhiều vùng dân cư khác nhau, nhờ đó giảm bớt được khoảng
cách phát triển giữa các khu vực khác nhau và tạo ra được sự phát triển cân
đối giữa các vùng khác nhau trên toàn quốc.
+ Các DNVVN có thể hỗ trợ cho các ngành công nghiệp lớn cung
cấp đầu vào cho các ngành này và tạo sự cạnh tranh cần thiết để đẩy mạnh
quá trình phát triển và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường.
12
+ Các DNVVN có thể đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát
triển các ngành nghề thủ công truyền thống nhằm sản xuất các loại hàng
hoá mang bản sắc dân tộc.

Nói tóm lại, vai trò của các DNVVN thể hiện ở mức độ đóng góp vào
sự phát triển kinh tế của quốc gia, thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá
trị gia tăng, góp phần tăng trưởng kinh tế là tầng cơ sở trong cấu trúc của
nền sản xuất xã hội. Số liệu thống kê của các nước cho thấy, tỷ trọng thu
hút lao động, tạo ra giá trị gia tăng của khu vực các DNVVN ở một số nước
khu vực châu Á là rất đáng kể.
Từ số liệu thống kê ở bảng ta có thể thấy các DNVVN chiếm từ 81
đến 98% số doanh nghiệp, thu hút 30 - 60% lao động và tạo ra 20 - 40% giá
trị gia tăng trong nền kinh tế ở các nước này. Như vậy, dù ở trình độ phát

triển kinh tế cao hay thấp, DNVVN vẫn có vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế của các nước.
Bảng 2: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng
của các DNVVN ở một số nƣớc châu Á
Nƣớc
Tỷ trọng thu hút
lao động (%)
Giá trị gia tăng
tạo ra (%)
Singapore
35,2
26,6
Malaysia
47,8
36,4
Hàn Quốc
37,2
21,1
Nhật Bản
55,2
38,8
Hồng Công
59,3
40,1
Nguồn: [22, tr.48]

1.1.3. Đặc điểm của DNVVN:
- Nhu cầu vốn không lớn, phù hợp với khả năng đầu tư của một
người, một hộ gia đình hoặc một nhóm người, không cần có sự đầu tư của
Nhà nước. Vốn của các DNVVN thường có vòng quay nhanh hơn các

doanh nghiệp lớn.
13
- Sử dụng được đông đảo lao động xã hội và sử dụng được đa dạng
các loại thiết bị với trình độ và công nghệ khác nhau. Hoạt động với chi phí
thấp nhưng dễ mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nhanh chóng góp
phần hạn chế được nạn thất nghiệp. Nước ta có nguồn lao động dồi dào,
DNVVN lại có ưu thế trong việc tạo việc làm, bên cạnh đó, vốn đầu tư cho
mỗi chỗ làm việc thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với
doanh nghiệp lớn; tổng đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao, có thể
phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động, yêu cầu đối với người lao động và
trình độ tay nghề không cao.
- Doanh nghiệp nhỏ có thể phát triển gắn với nguồn nguyên liệu và
cung ứng hàng hoá, do đó rất thích hợp với lĩnh vực sản xuất, chế biến
nông lâm sản, chế biến thuỷ hải sản và lĩnh vực bán lẻ.
- Tổ chức quản trị kinh doanh, quản trị doanh nghiệp rất gọn nhẹ; cơ
chế tổ chức không có bộ máy gián tiếp cồng kềnh dẫn đến chi phí kinh
doanh hoặc giá sản phẩm quá cao.
Với quy mô vừa và nhỏ các doanh nghiệp loại hình này còn rất linh
hoạt, ứng biến nhanh nhạy với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường. Do
đó, phát triển DNVVN là rất thích hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay.

Từ những đặc điểm trên, có thể thấy DNVVN có những lợi thế sau:
DNVVN có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có
hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao
động với trình độ khoa học kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là sự mềm mại
và nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu thay đổi của kinh tế thị trường, do
vậy nó có nhiều lợi thế:
+ Dễ dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường
Thành lập DNVVN rất dễ dàng vì đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng
kinh doanh không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản; có thể thay đổi

nhanh chóng với những thay đổi nhu cầu của thị trường; sẵn sàng đầu tư
vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
14
DNVVN chỉ cần một số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có
thể khởi sự doanh nghiệp, vòng quay sản phẩm nhanh, do đó có thể sử
dụng vốn tự có hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng; tổ chức quản lý gọn
nhẹ, dễ quyết định khi nhu cầu thị trường thay đổi. Khi doanh nghiệp gặp
khó khăn có thể dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ thống nhất.
+ Dễ phát huy bản chất hợp tác:
DNVVN chỉ tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình
sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh, mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp
với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị
trường. Do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến
hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải.
+ Thu hút nhiều lao động, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp
Các DNVVN do nguồn vốn ít vì vậy đầu tư vào tài sản cố định cũng
ít và số lao động không nhiều nhưng vẫn có thể đem lại những dịch vụ về
sản phẩm mới một cách có hiệu quả. Việc đào tạo đội ngũ thợ lành nghề và
lực lượng lao động cũng ít tốn kém và cần ít thời gian hơn doanh nghiệp
lớn nên có thể khai thác triệt để được nguồn lực sẵn có. Họ thường tận
dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là các nước có lực lượng lao động
dồi dào và giá lao động thấp như nước ta để tiến hành sản xuất - kinh doanh
phục vụ dân sinh, và thường họ đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao.
+ Không có hoặc ít có xung đột giữa người sử dụng lao động và
người lao động.
Do quy mô vừa và nhỏ, sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động
và người lao động không lớn và bản thân người chủ, người sử dụng lao
động luôn sát với công việc của người lao động, do vậy nếu có xung đột,
mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết.
+ Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh

Các DNVVN thường không có tình trạng độc quyền, dễ dàng và sẵn
sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để
phát huy mọi tiềm lực.
15
+ Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước
Sự phát triển DNVVN ở giai đoạn ban đầu là phương thức tốt để sản
xuất thay thế nhập khẩu. Các nước đang phát triển như nước ta, chỉ cần lựa
chọn một số mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và
vốn đầu tư thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua
của dân, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
+ Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
DNVVN có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước
như vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi,… lấp vào khoảng trống và thiếu
vắng của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng
góp phần ổn định kinh tế trong cả nước, đây là một chiến lược kinh tế xã
hội quan trọng của đất nước.
+ DNVVN là một trong những nơi đào tạo huấn luyện các nhà doanh
nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn.
Qua thực tế hoạt động sản xuất - kinh doanh, một mạng lưới
DNVVN trên khắp mọi miền của đất nước đã đào tạo, sàng lọc các nhà
doanh nghiệp. Có thể nói đây là một trong những nơi đào tạo hữu hiệu
nhất. Mặt khác, quá trình phát triển DNVVN cũng là quá trình tích tụ vốn,
tìm kiếm mở mang thị trường… để phát triển thành doanh nghiệp lớn. Nhìn
lại lịch sử, hầu hết các doanh nghiệp ở các nước phát triển đều trải qua mô
hình vừa và nhỏ, trừ một số doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Riêng ở Việt
Nam, DNVVN còn có một lợi thế là mới phát triển, quy mô nhỏ bé, tồn tại
ở mọi thành phần kinh tế và đang trong quá trình vận động chuyển hoá, có
khả năng chuyển hoá dễ dàng nhanh chóng các công nghệ mới thành cơ hội
làm ăn, có điều kiện đi vào ngành nghề truyền thống, đạt hiệu quả cao, do
đó có nhiều thuận lợi để phát triển, nó chưa chịu ảnh hưởng lớn của độc

quyền và cạnh tranh quyết liệt với nhau.
Tuy nhiên, xuất phát từ những đặc điểm của nó, DNVVN cũng có những
hạn chế và khó khăn về nhiều mặt, trong đó tập trung vào các mặt sau đây:
16
- Thứ nhất, DNVVN gặp nhiều khó khăn về vốn để sản xuất và mở
rộng sản xuất.
Thị trường cung ứng vốn cho DNVVN chủ yếu là thị trường tài
chính không chính thức. Chủ doanh nghiệp thường phải vay với lãi suất
cao, vay của thân nhân, bạn bè, ít được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
chính thức của hệ thống ngân hàng.
Tình trạng thiếu vốn của DNVVN có nhiều nguyên nhân, trong đó
đáng chú ý là: Hệ thống tín dụng ngân hàng chưa tiếp cận với cầu tín dụng
của các loại doanh nghiệp này vì nguồn vốn bị phân tán, chi phí cho vay lớn,
khó đòi nợ và độ rủi ro cao; nhiều DNVVN không có khả năng đáp ứng đòi
hỏi của ngân hàng về thủ tục lập dự án, thủ tục thế chấp và điều kiện lãi suất;
một số chủ DNVVN không muốn vay ngân hàng mà thường vay của tư nhân;
trình độ kinh doanh yếu, rủi ro lớn nên khó tích tụ vốn và khó trả nợ ngân
hàng.
Thứ hai, trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ yếu.
Trình độ trang thiết bị, máy móc và công nghệ của DNVVN nói
chung là yếu kém và lạc hậu. Nhiều DNVVN sử dụng thiết bị thải loại của
DNNN, thiết bị chế tạo trong nước hoặc tự thiết kế, chế tạo với trình độ
thiết kế và gia công thấp. Đáng chú ý là trang thiết bị và công nghệ của
DNVVN phổ biến thiếu trang bị xử lý môi trường như tiếng ồn, chất thải
rắn, chất thải lỏng, khí độc nên thường gây ô nhiễm môi trường xung quanh
rất nặng, có hại tới sức khoẻ người lao động và người dân sống xung
quanh.
Thứ ba, trình độ tay nghề của lao động và đội ngũ quản lý thấp.
Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được
đào tạo cơ bản, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, đặc biệt đối với các

doanh nghiệp quy mô nhỏ. Khó khăn nhất đối với đội ngũ quản lý DNVVN
là trình độ và kỹ năng quản trị kinh doanh yếu, thiếu cơ bản và rất lúng túng
trước sự biến động của thị trường.
17
Thứ tƣ, với dân số khoảng 80 triệu dân, trong đó có khoảng 75% dân
số sống ở nông thôn là điều kiện thuận lợi về mặt thị trường cho DNVVN.
Tuy nhiên thị trường rộng lớn của DNVVN đang bị thu hẹp lại do sức mua
của người nông dân quá thấp; do hàng hoá nhập lậu qua biên giới không thể
nào kiểm soát đã làm giảm đáng kể thị phần của DNVVN; do khả năng cạnh
tranh của hàng hóa của loại hình doanh nghiệp này lại rất yếu, do công nghệ
lạc hậu, trình độ tay nghề của người lao động và trình độ quản trị kinh doanh
yếu. Khả năng tiêu thụ hàng trong nước đã khó, xuất khẩu lại càng khó hơn.

1.1.4. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển DNVVN
Xuất phát từ vai trò của loại hình doanh nghiệp này và những lợi ích
to lớn do việc hỗ trợ đó mang lại cả cho chính các DNVVN cũng như có lợi
cho Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
* Lợi ích của chính sách hỗ trợ đối với Nhà nƣớc và xã hội
Thực tế của nhiều nước cho thấy, sự hỗ trợ không chỉ có lợi đối với các
doanh nghiệp mà có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Lợi ích đó thể hiện trên các
mặt:
+ Trước hết sự hỗ trợ các doanh nghiệp là cách thức để nuôi dưỡng
các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
+ Hỗ trợ doanh nghiệp là một cách đầu tư gián tiếp của Nhà nước thay
vì Nhà nước phải đầu tư trực tiếp để thành lập các DNNN như mô hình
kinh tế hiện vật trước đây bằng việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp đã có, đặc
biệt là các DNVVN khu vực tư nhân.
+ Thông qua chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển
sản xuất hiệu quả hơn vì vừa huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân,
vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước.

+ Bằng việc hỗ trợ các DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải quyết
những vấn đề xã hội (như vấn đề lao động thất nghiệp) mà bất cứ nước nào
cũng phải đương đầu, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vốn hạn hẹp của
Nhà nước: thay vì chỉ thành lập mới các DNNN, thì với số vốn đó có thể hỗ
18
trợ cho một số lượng doanh nghiệp đã có nhiều gấp bội. Ngoài ra, Nhà
nước có thể thông qua chính sách hỗ trợ để định hướng phát triển các
DNVVN.
Các DNVVN ở Việt Nam hiện nay còn tồn tại rất nhiều hạn chế như
đã đề cập ở phần trên. Do đó, để các doanh nghiệp này phát huy được vai
trò của mình, cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Hơn nữa có nhiều
vấn đề mà các doanh nghiệp không thể tự giải quyết được như tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường,
đào tạo nguồn nhân lực, Nhiều vấn đề khác nếu được sự hỗ trợ của Nhà
nước sẽ làm giảm bớt những khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp đứng vững trên thị trường và phát triển thuận lợi. Kinh
nghiệm cho thấy, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có chính sách hỗ
trợ phát triển DNVVN.
Phát triển DNVVN cũng là một cách nhằm thúc đẩy sự cạnh tranh
bình đẳng trong nền kinh tế, tận dụng được ưu thế riêng của loại hình này
trong việc sử dụng các nguồn lực trong nước phục vụ những nhu cầu đa
dạng của người dân trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển. Cạnh tranh
là sức sống, là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường
so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Để cạnh tranh thì trên thị trường phải
có nhiều chủ thể tham gia. Phát triển DNVVN chính là để duy trì cạnh
tranh cần thiết trong nền kinh tế thị trường, tránh những méo mó do sự độc
quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể kinh
tế trong một môi trường kinh doanh mà tính năng động và linh hoạt có vai
trò cho sự sống còn của một doanh nghiệp.
DNVVN, một bộ phận tuy còn nhỏ bé trong nền kinh tế nước ta hiện

nay nhưng lại tiềm ẩn khả năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai đang còn
hạn chế nhiều mặt. Nếu không có những chính sách hỗ trợ phát triển hợp lý
thì khó có thể phát triển phù hợp với những yêu cầu đòi hỏi mới của tình
hình. Sự hỗ trợ hợp lý của Nhà nước đối với DNVVN, chính là phải đảm
bảo được sự bình đẳng trong hoạt động kinh tế chống lại sự độc quyền trong
19
kinh doanh của các công ty lớn và mạnh nhằm đẩy các DNVVN vào tình
trạng phá sản do mất thị trường.
Như vậy, khuyến khích phát triển DNVVN chính là để duy trì sự cạnh
tranh trong nền kinh tế, tức là duy trì và tạo ra động lực cho sự phát triển.
Phát triển DNVVN chính là huy động mọi nguồn vốn phát triển kinh tế,
tăng thu nhập bình quân đầu người, tạo thêm nhiều việc làm góp phần thực
hiện mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020. Nước ta đang cần nhiều vốn để đầu tư phát triển, Nhà nước chỉ có
khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chính thay vì chủ
yếu đầu tư vào các ngành sản xuất như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác. Phát triển DNVVN
chính là cách tốt nhất huy động có hiệu quả các nguồn đầu tư của nhân dân
để phát triển kinh tế.
Phát triển DNVVN chính là cách để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp
sang lao động công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ phát triển ở các vùng
nông thôn; giải quyết sức ép về lao động, việc làm và vấn đề xã hội do tình
trạng di cư vào các trung tâm đô thị và thành phố lớn.
Phát triển DNVVN tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền
kinh tế, giúp các doanh nghiệp thích ứng được trước những biến đổi nhanh
chóng của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Các DNVVN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất thích
ứng nhanh với tình hình. Đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị
trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh

doanh. Phát triển DNVVN còn góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập của
nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Với những căn cứ đã phân tích ở trên, chúng ta có thể khẳng định rằng
Nhà nước cần phải có những chính sách hỗ trợ tích cực nhằm phát triển DNVVN
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
* Các chính sách đối với DNVVN
20
Thuật ngữ "chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các
phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều
có chính sách của mình. Ví dụ có chính sách của các cá nhân, chính sách
của doanh nghiệp, chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia,
chính sách của một liên minh các nước, hay tổ chức quốc tế vv…
Tuyên bố chính sách có nghĩa là một cá nhân hay một tổ chức đã
quyết định một cách thận trọng và có ý thức, cách giải quyết những vấn đề
tương tự. Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết
định. Vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở
những nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào
là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động
của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện mục tiêu chung của tổ
chức. Ta có thể hiểu theo nghĩa rộng về chính sách của một đất nước là: tổng
thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những
phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước. Hoặc có
thể hiểu một cách ngắn gọn: “Chính sách là những hành động của Nhà
nước nhằm hướng tới những mục tiêu của đất nước”. Với quan niệm này
chính sách là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải pháp và
công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược. Hay “chính sách là quyết sách
của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chín muồi đã đặt ra của đất
nước, thông qua hoạt động thực thi của các ngành các cấp có liên quan
trong bộ máy Nhà nước".
Tóm lại, chính sách là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải

pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế -
xã hội nhằm giải quyết các vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu
nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Một số chính sách chủ yếu có tác động quan trọng tới DNVVN
- Chính sách hỗ trợ tín dụng.

×