Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Chuyển biến về sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ






NGUYỄN TUẤN HÙNG





CHUYỂN BIẾN VỀ SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ










Hà Nội - 2011

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN TUẤN HÙNG





CHUYỂN BIẾN VỀ SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số : 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH





Hà Nội - 2011
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3.1. Mục đích nghiên cứu 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 6
6. Những đóng góp mới của luận văn 7
7. Bố cục của đề tài 7
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ CHUYỂN
BIẾN VỀ SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG 8
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỞ HỮU NÓI CHUNG
VÀ SỞ HỮU TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG NÓI RIÊNG Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI 8
1.1.1. Một số khái niệm 8
1.1.2. Lý luận về chuyển biến sở hữu trong ngân hàng và tiêu chí đo
lường chuyển biến sở hữu trong ngân hàng 10
1.1.3. Chuyển biến sở hữu trong hệ thống ngân hàng của một số quốc gia
trên thế giới 13
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN VỀ LÝ LUẬN SỞ HỮU VÀ SỞ HỮU TRONG NGÀNH NGÂN

HÀNG VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NỀN KINH TẾ. 22
1.2.1. Những vấn đề mới về sở hữu ở Việt Nam 22
1.2.2. Những điểm mới về sở hữu trong ngành ngân hàng 27
Chƣơng 2: NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH VÀ NỀN KINH TẾ GIAI
ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY 31

2.1. TỔNG QUAN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT
NAM TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN NAY 31
2.1.1. Tổng quan kinh tế Việt Nam 1986 đến nay 31
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển ngành ngân hàng Việt Nam 36
2.2. THỰC TRẠNG CHUYỂN BIẾN SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG THTM Ở VIỆT
NAM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH VÀ NỀN
KINH TẾ 44
2.2.1. Chuyển biến về sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại 44
2.2.2. Tác động của chuyển biến sở hữu đến sự phát triển của ngành ngân
hàng và nền kinh tế 67

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN BIẾN
VỀ SỞ HỮU TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG THỜI GIAN TỚI 83

3.1. NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP 83
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGÀNH NGÂN HÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI 87
3.2.1. Một số gợi ý chính sách trong quá trình tiếp tục cải cánh hệ thống
ngân hàng 87
3.2.2 Một số giải pháp phát triển hệ thống ngân hàng thương mại 93

KẾT LUẬN 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 100

i

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
CNNHNN
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
2
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
3
HT NHVN
Hệ thống ngân hàng Việt Nam
4
NHLD
Ngân hàng lien doanh
5
NHTM
Ngân hàng thương mại
6
NHTM CP
Ngân hàng thương mại cổ phần
7
NHTM NN
Ngân hàng thương mại nhà nước

8
NHTM VN
Ngân hàng thương mại Việt Nam
9
NN
Nhà nước
10
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
ii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1
Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam giai đoạn 1994 - 2000
33
2
Bảng 2.2
Tăng trưởng GDP và đóng góp vào tăng trưởng GDP
theo ngành giai đoạn 2001 - 2005
35
3
Bảng 2.3
Phát triển ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn
1991 - 2000

42
4
Bảng 2.4
Quá trình phát triển NHTMVN giai đoạn 1997- 2009
46
5
Bảng 2.5
Tỷ trọng tài sản/ Tổng tài sản của hệ thống
47
6
Bảng 2.6
Vốn điều lệ của hệ thống NHTM Việt Nam năm 2011
49
7
Bảng 2.7
Nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2008
57
8
Bảng 2.8
Tăng trưởng tín dụng của HTNH VN qua các năm
60
9
Bảng 2.9
Thị phần huy động tiền gửi của các NHTMVN
64
10
Bảng 2.10
Thị phần cho vay của các NHTMVN
66
11

Bảng 2.11
Quy mô vốn tự có của một số NHTM trong khu vực
75
12
Bảng 2.12
Tốc độ tăng trưởng tài sản của HTNH VN so với các
nước khu vực Đông Á
76
13
Bảng 2.13
Tỷ trọng cho vay đối với nền kinh tế của từng nhóm tổ
chức tín dụng (2005-2007)
78
14
Bảng 2.14
Quy mô và tốc độ tăng trưởng của tài chính ngân hàng
so với các ngành dịch vụ và cả nền kinh tế
81
iii

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT
Biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
1
Biểu 2.1
Tỷ trọng về số lượng, tổng nguồn vốn của hệ thống NHTM
VN năm 2009

51
2
Biểu 2.2
Qui mô tổng tài sản hệ thống NHTM Việt Nam
54
3
Biểu 2.3
Tỷ lệ nợ xấu của các NHTMVN với NHTM các nước năm
2005
55
4
Biểu 2.4
Tỷ lệ an toàn vốn (%) của các NHTMVN so với các NH
Asean và OECD
56
5
Biểu 2.5
Diễn biến Thu nhập - Chi phí của NHTMVN (2007- 2009)
57
6
Biểu 2.6
Tổng vốn huy động của hệ thống NHTM (2002-
2007)
63
7
Biểu 2.7
Tổng vốn cho vay của hệ thống NHTM (2002-2007)
66
8
Biểu 2. 8

ROA và ROE của hai khu vực NHTM NN và NHTM CP
68
9
Biểu 2.9
Tỷ lệ nợ xấu của HT NHVN từ 2008-2010
72
10
Biểu 2.10
Tỷ lệ nợ xấu của các loại hình ngân hàng
73
11
Biểu 2.11
Nợ xấu của HT NHVN với một số nước trong khu vực
74
12
Biểu 2.12
Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng
trưởng dịch vụ tài chính, tín dụng các năm
80

iv

DANH MỤC CÁC HÌNH

STT
Hình
Tên hình
Trang
1
Hình 2.1

Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam trước khi cải tổ
38
2
Hình 2.2
Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1987 –
1990
40
3
Hình 2.3
Tổ chức hệ thống Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1990 -
1997
41


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, ở bất kỳ một quốc gia nào hệ thống ngân hàng thương mại
đều đóng vai trò là huyết mạch của nền kinh tế. Vì vậy, việc nghiên cứu về
hoạt động cũng như những bước chuyển đổi của các loại hình ngân hàng của
một quốc gia có thể gợi mở rất nhiều giải pháp cho định hướng phát triển
ngành ngân hàng và nền kinh tế. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO, hệ thống ngân hàng thương mại
đang đứng trước vô vàn cơ hội để phát triển cũng như thách thức cạnh tranh
nên nhìn nhận lại những bước chuyển biến của các ngân hàng thương mại có
ý nghĩa thực tiễn.
Trong nhiều năm qua, các ngân hàng thương mại đang đóng góp vai trò
lớn trong công cuộc phát triển nền kinh tế trên lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường ở Việt Nam và sự hội nhập

sâu rộng của nước ta trên mọi lĩnh vực thì hệ thống ngân hàng thương mại
đang gặp không ít khó khăn trong vai trò làm “huyết mạch” cho nền kinh tế.
Những mặt mạnh, mặt yếu đó có nhiều nguyên nhân, trong đó cần xem xét kỹ
vấn đề sở hữu. Phải chăng, tỷ lệ sở hữu nhà nước trong hệ thống ngân hàng có
quan hệ mật thiết tới hiệu quả hoạt động của ngành cũng như sự phát triển của
nền kinh tế. Thực tế cho thấy, hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước hoạt
động không hiệu quả (dịch vụ nghèo nàn, các chỉ số ROE, ROA thấp…); việc
cổ phần hóa loại hình ngân hàng này khó khăn nguyên nhân là do việc giải
quyết lợi ích của các bên, vướng mắc trong định giá tài sản hữu hình, mối
quan hệ “thân tình” trong một nhà “nhà nước” giữa DNNN và NHTM NN…
Những nguyên nhân này xuất phát từ vấn đề cốt lõi là “sở hữu”, “sở hữu nhà
nước trong ngành ngân hàng. Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường
đồng thời thực hiện các cam kết thương mại song phương với Hoa Kỳ, cam
2
kết khi gia nhập WTO chúng ta phải mở cửa dịch vụ ngân hàng. Sự tham gia
của các thành phần kinh tế khác vào lĩnh vực này trong những năm qua đem
lại sự cạnh tranh đấng kể trong khu vực này, cải thiện phần nào chất lượng
dịch vụ, hiệu quả kinh doanh của toàn hệ thống ngân hàng trong những năm
qua. Có thể thấy, việc đa dạng hóa sở hữu trong lĩnh vực này để tăng cường
năng lực và tính cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành, kích
thích tăng trưởng kinh tế là một xu thế tất yếu.
Vì thế, việc lựa chọn đề tài: “Chuyển biến sở hữu trong hệ thống ngân
hàng thương mại ở Việt Nam” để làm luận văn Thạc sỹ Kinh tế - Chuyên
ngành Kinh tế Chính trị là một lựa chọn hợp lý vừa đáp ứng nhu cầu nghiên
cứu của bản thân, vừa có tính thời sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Như trên đã đề cập, việc nghiên cứu về vấn đề “sở hữu”, “sở hữu nhà
nước”, “sở hữu trong ngành ngân hàng” là đi nghiên cứu những mảng đề tài
mang tính khoa học cũng như thời sự sâu sắc. Bởi ai cũng biết rằng, ngân
hàng là một ngành kinh tế đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường.

Phát triển dịch vụ ngân hàng là phát triển năng lực phản ánh qui mô, tính
năng động và xu thế phát triển chung của nền sản xuất hàng hoá trong cơ chế
thị trường của một quốc gia. Đặc biệt, đối với các nước có nền kinh tế chuyển
đổi như ở Việt Nam thì quá trình xây dựng kinh tế thị trường là quá trình
giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước trong tất cả các ngành kinh tế mà gắn chặt nhất đó
là quá trình chuyển biến sở hữu trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước và hệ
thống ngân hàng. Chính vì vậy, ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào đều có
nhiều nghiên cứu về ngân hàng nói chung và sở hữu ngân hàng nói riêng.
Đối với các vấn đề sở hữu nói chung, chúng ta có thể tham khảo tác
phẩm “Trung Quốc 20 năm cải cách và mở cửa: cải cách chế độ sở hữu”
(2001) của tác giả Tề Quế Trân; “Một số vấn đề sở hữu ở nước ta hiện nay”
3
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia) của PGS.TS Nguyễn Văn Thạo và TS.
Nguyễn Hữu Đạt. Hai tác phẩm đều đề cập tới một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về sở hữu ở Trung Quốc và Việt Nam. Hai nước có những bước đi tương
đối giống nhau trong cải cách kinh tế: chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp (nền kinh tế công hữu đơn nhất) sang nền kinh tế
thị trường (lấy chế độ công hữu làm chủ thể cùng cạnh tranh và phát triển với
các chế độ sở hữu khác). Tuy nhiên, trong tác phẩm của Tề Quế Trân chưa có
đánh giá đầy đủ sự thay đổi của chế độ sở hữu đến kết quả của cải cách nói
chung. Trong khi đó, tác phẩm “Một số vấn đề sở hữu của nước ta hiện nay”
đã nêu được một số vấn đề chính trong chuyển biến sở hữu ở hệ thống doanh
nghiệp nhà nước (mà các ngân hàng thương mại nhà nước là một cấu phần) và
trong lĩnh vực đất đai. Ngoài hai tác phẩm trên, có một số sách, luận án tiến sỹ,
bài nghiên cứu nói về vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường và kinh tế
chuyển đổi nhưng nội dung chưa chú trọng đến sự biến chuyển sở hữu và vai trò
của nó trong phát triển kinh tế, đặc biệt rất ít nghiên cứu định lượng.
Về sở hữu ngân hàng thì không có nhiều tài liệu chuyên khảo đi sâu
vào vấn đề này, chủ yếu là các bài nghiên cứu nhỏ, hay kỉ yếu khoa học.
Chẳng hạn như bài viết của TS. Nguyễn Hồng Nga về “Sở hữu nhà nước

trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí Ngân hàng
(Số 11/2007). Bài viết này đã đề cập đến sự thay đổi sở hữu Nhà nước ở Việt
Nam trong hệ thống ngân hàng theo xu hướng giảm dần, nhưng hệ thống ngân
hàng hoạt động chưa thực sự hiệu quả do còn có sự bảo vệ của chính phủ đối
với các ngân hàng thương mại nhà nước, đi trái với hiệu lực của các quy luật
thị trường. Tuy nhiên bài viết chưa đưa ra được đánh giá về tác động của sự
thay đổi tỷ lệ sở hữu trong hệ thống ngân hàng đến sự phát triển của ngành và
nền kinh tế. Cùng quan điểm trên, trong nghiên cứu của Huỳnh Thế Du
(Giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Việt Nam) cho rằng: rất
4
khó để các ngân hàng thương mại nhà nước có thể hội nhập, cạnh tranh thành
công với các ngân hàng nước ngoài khi mà mối quan hệ “thân tình” giữa: Nhà
nước - Ngân hàng Thương mại nhà nước - Doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn
hết sức chặt chẽ. Chính mối quan hệ “anh em” phần nào gây ra tình trạng hoạt
động không hiệu quả của hệ thống Doanh nghiệp nhà nước, hệ thống ngân hàng
thương mại nhà nước và tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn cho cả hai hệ thống này.
Bài giảng “Phát triển hệ thống ngân hàng ở Việt Nam và Trung Quốc”
của TS. Vũ Thành Tự Anh trong chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Việt Nam cung cấp cho người đọc cái nhìn tổng quan về những bước cải cách
chính trong hệ thống ngân hàng ở hai nước và vai trò của nó đối với nền kinh
tế. Qua đó, tác giả cho rằng : Ngân hàng là lĩnh vực phải mở cửa hội nhập
mạnh nhất trong cam kết WTO, BTA; Trung Quốc có con đường cải cách
giống với Việt Nam, họ đang đi trước và đã đạt được một số thành công vì thế
đây là một “điển hình” cho chúng ta học tập.
Về tài liệu tham khảo nước ngoài, trong bài nghiên cứu “Sở hữu nhà
nước trong ngân hàng” (Government Ownership of banks), các tác giả Rafael
La Porta, Florencio Lopez-de-Silanes và Andrei Shleifer đã nghiên cứu số
liệu của 92 quốc gia và kết luận: Sở hữu nhà nước trong các ngân hàng là lớn
và là tình trạng chung ở khắp thế giới; Sở hữu này càng lớn hơn ở các nước
có thu nhập bình quân đầu người thấp, hệ thống tài chính chưa phát triển,

chính phủ can thiệp sâu vào nền kinh tế, quyền sở hữu chưa được bảo
hộ…Tác phẩm “Sở hữu của ngân hàng và hoạt động của ngân hàng” (Bank
Ownership and Performance), các tác giả Alejandro Micco, Ugo Panizza,
Monica Yanez đã sử dụng số liệu của 119 nước trong giai đoạn 1995-2002 để
đánh giá: mối quan hệ sở hữu của ngân hàng với hoạt động ngân hàng cho hai
nhóm nước phát triển và đang phát triển. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:
trong khi sở hữu có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của ngân hàng ở các
5
nước đang phát triển thì điều này không xẩy ra với các nước phát triển. Cụ
thể, các ngân hàng thương mại nhà nước ở các nước đang phát triển dường
như có khả năng sinh lời kém hơn và chi phí cao hơn ngân hàng tư nhân, ngân
hàng nước ngoài. Nghiên cứu này cũng cho thấy: ở các nước đang phát triển,
việc tham gia hoạt động của các ngân hàng nước ngoài sẽ có cú hích “cạnh
tranh” cho các ngân hàng trong nước nâng cao hiệu quả hoạt động.
Bên cạnh các nghiên cứu trên, còn có một số tư liệu khác đề cập tới vấn
đề này cũng như các vấn đề liên quan: sở hữu nhà nước trong ngành ngân
hàng cao hay thấp, vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước ở
Việt Nam, vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng… Nhưng có thể thấy vấn
đề “chuyển biến về sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam”
là tương đối mới mẻ, cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu một cách hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ, hệ thống lại một số nội dung lý luận và đánh giá
thực tiễn của vấn đề chuyển biến sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương
mại ở Việt Nam, luận văn cố gắng đưa ra một số gợi ý và giải pháp cho quá
trình này trong thời gian tới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng; góp phần thúc đẩy hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại đạt hiệu quả cao.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống những vấn đề mới liên quan đến sở hữu và sở hữu trong

ngành ngân hàng, cụ thể là sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại ở
Việt Nam và một số quốc gia. Đặc biệt là vai trò của sở hữu đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
- Làm rõ thực trạng chuyển biến sở hữu (vốn, phương thức quản lý -
kinh doanh, phân phối) trong hệ thống ngân hàng thương mại để đánh giá tác
6
động của những chuyển biến này như thế nào. Luận văn cố gắng kiểm nghiệm
giả thuyết: phải chăng sự thay đổi theo xu hướng giảm dần của sở hữu nhà
nước và đa dạng hóa sở hữu trong hệ thống ngân hàng thương mại có tác
động tích cực đến sự phát triển của ngành cũng như nền kinh tế.
- Đưa ra một số gợi ý và giải pháp về vấn đề chuyển đổi sở hữu trong
hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam dựa trên kết quả nghiên cứu được
nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển hiệu quả, bền
vững cho hệ thống này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề: Chuyển biến sở hữu
trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu những vấn đề lí luận cơ bản, mới về sở hữu
và sở hữu ngân hàng. Trên cơ sở đó đi sâu tìm hiểu rõ sự chuyển biến các nội
dung của vấn đề sở hữu: vốn, phương thức quản lí - kinh doanh, hiệu quả hoạt
động kinh doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Gắn liền
với sự chuyển biến đó sẽ là các phản ứng dây chuyền lên ngành và nền kinh
tế. Về thời gian, luận văn tập trung chủ yếu những mốc chuyển biến chính của
vấn đề nghiên cứu từ 1986 tới nay - tức là khi Việt Nam tiến hành “Đổi mới”
kinh tế cho đến nay. Về không gian, đối tượng nghiên cứu là hệ thống ngân hàng
thương mại gồm: Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ
phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng (chi nhánh ngân hàng) nước ngoài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính là chủ yếu trong
khi vẫn cố gắng ở một chừng mực nào đó sử dụng phương pháp định lượng
trên cơ sở thống kê, phân tích, tổng hợp. Đồng thời sử dụng phương pháp tiếp
cận biện chứng duy vật kết hợp với điều tra, so sánh.
7
6. Những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về sở hữu trong hệ thống ngân hàng
ở Việt Nam và một số quốc gia. Chú trọng việc khái quát các ghiên cứu, lí
luận về “chuyển biến sở hữu trong hệ thống ngân hàng” ở Việt Nam và các
nước có nền kinh tế chuyển đổi. Từ đó, làm nổi bật những tác động mà
chuyển biến trong sở hữu của các ngân hàng thương mại lên ngành ngân hàng
và nền kinh tế. Luận văn cố gắng nghiên cứu có hệ thống vấn đề này nhằm
đưa ra được một số giải pháp cho bối cảnh mới: Việt Nam đang thực hiện các
cam kết của WTO.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chuyển biến sở hữu
trong hệ thống ngân hàng
Chương 2: Những chuyển biến về sở hữu trong hệ thống ngân hàng
thƣơng mại ở Việt Nam và tác động của nó đối với sự phát triển
của ngành và nền kinh tế giai đoạn 1986 - nay
Chương 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp thúc đẩy chuyển biến về sở hữu
trong ngành ngân hàng trong thời gian tới








8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
CHUYỂN BIẾN VỀ SỞ HỮU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SỞ HỮU
NÓI CHUNG VÀ SỞ HỮU TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG NÓI RIÊNG Ở MỘT
SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Một số khái niệm
Quan niệm của các nhà kinh điển về sở hữu
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm tới vấn đề sở
hữu dù cho trong các nghiên cứu họ gần như không đưa ra một định nghĩa
hoàn chỉnh nào về sở hữu, quyền sở hữu, chế độ sở hữu.
Khi phê phán quan niệm của Pruđông về sở hữu đất đai và địa tô trong
tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” Mác đã lưu ý đến tính lịch sử của khái
niệm sở hữu. Theo ông sở hữu là một phạm trù lịch sử: “Nếu muốn định
nghĩa quyền sở hữu như một quan hệ độc lập, một phạm trù riêng biệt, một ý
niệm trừu tượng và vĩnh viễn, thì đó chỉ là ảo tưởng của khoa siêu hình hay của
khoa pháp luật” và việc định nghĩa quyền tài sản “không phải là cái gì khác mà
là trình bày tất cả những quan hệ sở hữu của quan hệ sản xuất” [1, tr.177].
Theo các nhà kinh điển, về thực chất các quan hệ sở hữu là sự biểu hiện
của các quan hệ kinh tế hay nói cách khác nội dung kinh tế của các quan hệ sở
hữu quyết định nội dung pháp lý của chúng, song không vì thế mà đồng nhất
các quan hệ sở hữu vào các quan hệ sản xuất. Bí mật của sở hữu được bộc lộ
ra khi phân tích quan hệ giữa người với người trong sản xuất, trao đổi, phân
phối và tiêu dùng xã hội. Với tư cách là quan hệ chi phối lao động, sở hữu
đồng thời quy định cả phương thức hoạt động của các chủ thể ở mọi lĩnh vực
sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng. Sở hữu là quan hệ cơ bản, quan hệ
xuất phát trong quan hệ sản xuất.

9
Đối với mọi nền sản xuất xã hội, đặc biệt là sản xuất xã hội chủ nghĩa,
việc coi các quan hệ sở hữu là điểm xuất phát trong việc lý giải các vấn đề là
cần thiết. Khi phân tích đặc trưng của mọi phương thức sản xuất, người ta
phải chỉ rõ vai trò quy định của các quan hệ sở hữu đó với các quan hệ sản
xuất và đối với toàn bộ các mặt của xã hội nói chung.
Các quan niệm khác về sở hữu:
Trong quá trình cải cách kinh tế ở Liên Xô cũ, Trung Quốc, các nước
Đông Âu và cả ở Việt Nam, vấn đề sở hữu được quan tâm nghiên cứu. Thực
tiễn đổi mới ở các nước trên đã chỉ ra rằng, nếu không xem xét, giải quyết
đúng đắn, triệt để vấn đề sở hữu thì khó có thể đưa nền kinh tế vượt qua tình
trạng trì trệ và khủng hoảng. Tuy nhiên, khi đi vào nghiên cứu những vấn đề
cụ thể, người ta thấy rằng không thể giải quyết triệt để vấn đề sở hữu nếu
không giải quyết những vấn đề lý luận- phương pháp luận về sở hữu, mà bắt
đầu từ định nghĩa sở hữu là gì.
Các nhà khoa học đã định nghĩa sở hữu theo nhiều cách khác nhau:
“Từ điển kinh tế học”, sở hữu được xem như là hình thức chiếm hữu
nhất định về của cải vật chất được hình thành trong lịch sử.
“Từ điển triết học” định nghĩa: sở hữu là sự chiếm hữu tài sản, sự biểu
hiện chiếm hữu tài sản trong xã hội.
“Từ điển tiếng Việt” định nghĩa: sở hữu được xác định là cái mình có.
Ngoài ra, còn có một số định nghĩa khác:
Chẳng hạn, sở hữu là một loại hình chiếm hữu của cải vật chất hoặc
tinh thần trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Sở hữu là mối quan hệ xã hội là quan hệ giữa con người với con người
đối với việc chiếm hữu của cải xã hội mà trước hết là tư liệu sản xuất và kết
quả lao động của sản xuất [8, tr.17].
Sở hữu là quan hệ giữa lao động với những điều kiện khách quan của
lao động.
10

Qua một số định nghĩa trên, có thể thấy rằng khái niệm sở hữu được
hiểu theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào nhiều góc độ xem xét như: góc
độ kinh tế, góc độ chính trị và pháp luật. Nhìn chung, các định nghĩa thường
nhấn mạnh đến quan hệ giữa người đối với vật trong sở hữu và điều đó đã dẫn
người ta đi đến lý giải các vấn đề sở hữu theo trình độ của sự thống nhất giữa
yếu tố người và yếu tố vật. Vì vậy, không có một định nghĩa nào phản ánh
được đầy đủ tất cả các khía cạnh kinh tế, pháp luật, chính trị - xã hội và lịch
sử của sở hữu.
Đi tới sâu xa, bản chất của sở hữu là lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế.
Nếu không có lợi ích thì bản thân sở hữu sẽ không có ý nghĩa gì cả. Sở hữu
không có ý nghĩa tự thân mà là phương tiện để con người thông qua nó mà
thực hiện lợi ích của mình. Ví dụ, một người nào đó sở hữu một nhà máy,
nhưng ngoài sự sở hữu ấy ra, anh ta không có đủ điều kiện cần thiết để đưa
nhà máy đó vào họat động thì anh ta sẽ chẳng thu được lợi ích gì và nhà máy
đó với anh ta có cũng như không.
Tóm lại, ta có thể hiểu: Sở hữu là quan hệ giữa con người với con
người đối với việc chiếm hữu của cải và qua quan hệ ấy, con người thực hiện
mục đích thỏa mãn các nhu cầu của mình.
1.1.2. Lý luận về chuyển biến sở hữu trong ngân hàng và tiêu chí đo
lƣờng chuyển biến sở hữu trong ngân hàng
Đã có rất nhiều nghiên cứu liên quan tới sự chuyển biến về sở hữu
trong hệ thống ngân hàng ở các nước trên thế giới. Mỗi nghiên cứu có một
cách tiếp cận khác nhau. Nhưng trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng
công trình “Sở hữu của ngân hàng và hoạt động của ngân hàng” (Bank
Ownership and Performance)” của các tác giả Alejandro Micco, Ugo Panizza,
Monica Yanez như là khuôn khổ lý thuyết để chúng tôi áp dụng cho trường
hợp của Việt Nam [34].
11
Trong tác phẩm này, các tác giả Alejandro Micco, Ugo Panizza,
Monica Yanez đã sử dụng số liệu của 119 nước trong giai đoạn 1995-2002 để

đánh giá: mối quan hệ sở hữu của ngân hàng với hoạt động ngân hàng cho hai
nhóm nước phát triển và đang phát triển. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng:
trong khi sở hữu có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của ngân hàng ở các
nước đang phát triển thì điều này không xẩy ra với các nước phát triển. Cụ
thể, các ngân hàng thương mại nhà nước ở các nước đang phát triển dường
như có khả năng sinh lời kém hơn và chi phí cao hơn ngân hàng tư nhân, ngân
hàng nước ngoài. Đối với hai chỉ số lãi suất tiêu chuẩn: ROA và ROE, ở hầu
hết các vùng, các ngân hàng nước ngoài đều có lợi nhuận hơn các ngân hàng
trong nước, cả ngân hàng nhà nước và ngân hàng tư nhân. Ngoại trừ Nam Á,
Trung Đông và Bắc Phi nơi các ngân hàng nước ngoài có ít lợi nhuận hơn các
ngân hàng trong nước, và các nước công nghiệp nơi các ngân hàng nước
ngoài có ít lợi nhuận hơn các ngân hàng tư nhân trong nước nhưng lại nhiều
lợi nhuận hơn các ngân hàng nhà nước. Ở Châu Mỹ Latinh, các ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng tư nhân trong nước đều có mức lợi nhuận ngang
nhau. Ở mọi nơi trên thế giới, các ngân hàng nhà nước đều có lợi nhuận thấp
nhất. Lợi nhuận lại đặc biệt khác ở Nam và Đông Á, Châu Mỹ Latinh, Đông
Âu. Thậm chí ở các nước công nghiệp, các ngân hàng công có lợi nhuận bằng
khoảng một nửa so với các ngân hàng tư nhân.
Nghiên cứu này cũng cho thấy: ở các nước đang phát triển, việc tham
gia hoạt động của các ngân hàng nước ngoài sẽ là “cú hích” cho các ngân
hàng trong nước nâng cao hiệu quả hoạt động (được thể hiện bởi tổng chi phí
thấp hơn) và khả năng cạnh tranh của ngành ngân hàng (được thể hiện bởi lợi
nhuận biên thấp hơn). Chính sự hoạt động kém hiệu quả của các ngân hàng
trong nước là lý do thu hút các ngân hàng nước ngoài thâm nhập thi trường
mới. Sức ép cạnh tranh buộc các ngân hàng trong nước hoàn thiện và hoạt
12
động hiệu quả hơn. Đây là kết quả quan trọng bởi vì nó cho thấy sự thâm nhập
của ngân hàng nước ngoài (có thể liên quan với công nghệ mới và các rào cản
thâm nhập thấp hơn) dẫn đến sự chuyển biến về sở hữu của ngành ngân hàng cả
về qui mô lẫn cấu tạo là một hiện tượng có lợi đóng vai trò quan trọng trong việc

tăng hiệu quả của ngành ngân hàng ở một số nước đang phát triển.
Các tác giả đã đưa ra một số tiêu chí đánh giá mối quan hệ về sự
chuyển biến sở hữu tới hoạt động của hệ thống ngân hàng như thế nào và đó
cũng là những tiêu chí mà tôi cố gắng xem xét trường hợp của Việt Nam
trong luận văn này:
- Đối với hai chỉ số ROA, ROE: ở hầu hết các nước nghiên cứu, các
ngân hàng nước ngoài đều có nhiều lợi nhuận hơn các ngân hàng trong nước;
ở các nước phát triển ngân hàng tư nhân có nhiều lợi nhuận hơn ngân hàng
nước ngoài và cả hai loại hình này đều có nhiều lợi nhuận hơn ngân hàng tư
nhân trong nước. Ở mọi nơi trên thế giới ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước
đều có lợi nhuận thấp nhất, ở các nước phát triển lợi nhuận của các ngân hàng
công bằng khoảng một nửa ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân.
- Tổng tài sản và thị phần của ngân hàng cũng phản ánh hoạt động của
ngân hàng hiệu quả đến mức nào. Tổng tài sản đánh giá quy mô tuyệt đối và
thị phần phản ánh qui mô tương đối của ngân hàng.
- Tổng chi phí và tỷ lệ tổng chi phí trên tổng tài sản. Tỷ lệ này có thể
được giải thích là một đánh giá hiệu quả bởi bên cạnh lợi nhuận thì đây là
biến số phản ánh chân thực hoạt động của các ngân hàng. Ở các nước phát
triển các ngân hàng nhà nước đều có xu hướng có tổng chi phí cao hơn các
ngân hàng tư nhân và các ngân hàng nước ngoài.
- Chỉ số việc làm được “bình thường hóa” bởi tổng tài sản là số liệu
đánh giá lượng nhân công được thuê đối với 1.000.000 USD trên tổng tài sản.
Đây có thể được hiểu là một chỉ số của hiệu quả và có thể đưa ra ý kiến xem
13
quan hệ sở hữu có tương quan với tiết kiệm nhân công hay không. Ở cả nước
phát triển và đang phát triển ngân hàng công có xu hướng có lượng nhân công
làm việc lớn hơn.
- Tỷ lệ nợ xấu hay những khoản vay không hiệu quả và những điều
khoản cho vay. Tỷ lệ nợ xấu phản ánh sự thiếu khả năng trong triển khai và
quản lý cũng như sự không hiệu quả trong quá trình phát triển của một ngân

hàng. Ở hầu hết các nước, các khoản vay không hiệu quả thường rất cao ở các
ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và các ngân hàng này cũng có xu hướng
đưa ra các điều khoản cao hơn so với ngân hàng tư nhân và nước ngoài. Điều
đó đúng với các trường hợp nghiên cứu về Hàn Quốc và Nhật Bản dưới đây.
Và đây cũng là một chỉ số tốt khi nghiên cứu hoạt động của hệ thống ngân
hàng Việt Nam ở chương 2.
1.1.3. Chuyển biến sở hữu trong hệ thống ngân hàng của một số
quốc gia trên thế giới
* Một số nước phát triển
Hiện nay sự chuyển biến về sở hữu trong ngành ngân hàng gắn chặt với
quá trình cải cách hệ thống ngân hàng. Ở hầu hết các quốc gia, quá trình này
diễn ra theo các hướng chính là tư nhân hóa, quốc hữu hóa hay sáp nhập và
mua lại và cổ phần hóa.
- Tƣ nhân hóa
Theo quan niệm của nhiều nước tư bản chủ nghĩa thì tư nhân hóa là
một quá trình chuyển đổi về hình thức sở hữu của một doanh nghiệp từ nhà
nước sang tay tư nhân.
Ở các nước theo nền kinh tế thị trường, việc tư nhân hóa các doanh
nghiệp và tổ chức luôn được đặt ra lập tức khi nó hoạt động không có hiệu
quả. Hãng truyển thông BBC của Hoa Kỳ là một dẫn chứng điển hình của
việc này.
14
Khoảng mười năm trước, mọi người đều cho rằng, tư nhân hoá là một
phương pháp tốt để cải thiện tình hình kinh tế châu Âu. Các chính phủ thuộc
các đảng phái khác nhau đều đã lựa chọn con đường tư nhân hoá do cựu Thủ
tướng Anh Margaret Thatcher vạch ra. Bằng cách chuyển các tài sản thuộc sở
hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân, thông qua việc bán các cổ phiếu, có thể
mang lại hiệu quả kinh tế cao và qua đó thu được nhiều tiền cho ngân sách
nhà nước.
Tư nhân hoá đã lan rộng ra tất cả các nước châu Âu. Đức đã đem bán

một số tài sản nhà nước, chẳng hạn như đã bán nhiều đợt tài sản của Công ty
Viễn thông Deutsche Telecom trên thị trường chứng khoán năm 1997. Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha cũng đã tiến hành tư nhân hoá một cách tích cực, cụ
thể là Tây Ban Nha đã bán toàn bộ một công ty nhà nước hàng đầu là Công ty
Iberia trong năm 2001. Tư nhân hoá đã lan rộng đến mức nó không chỉ là hiện
tượng ở châu Âu, mà trở thành một hiện tượng của toàn thế giới. Trong số 35
vụ phát hành cổ phiếu lớn nhất từ trước tới nay trên các thị trường chứng
khoán, thì các vụ phát hành cổ phiếu tư nhân hoá đã chiếm 30 vụ. Hiện nay,
Hàn Quốc đang xúc tiến kế hoạch tư nhân hóa Tập đoàn Tài chính Woori -
ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc, với việc hoàn tất các thủ tục cần thiết để bán
57% cổ phần của chính phủ ở tập đoàn này. Woori được thành lập từ năm
2001 sau khi sát nhập 4 ngân hàng Hanvit, Peace, Kwangju và Kyongnam
Banks với Ngân hàng đầu tư Hanaro. Tập đoàn này được cổ phần hóa và được
nhà nước tiếp quản thông qua ngân sách của Tập đoàn Bảo hiểm Tiền gửi
Hàn Quốc (KDIC).
Quá trình tư nhân hóa làm cho cơ cấu sở hữu trong từng ngành và trong
nền kinh tế thay đổi theo hướng tỷ trọng sở hữu tư nhân ngày càng cao, trong
khi các thành phần sở hữu khác có xu hướng giảm.
15
- Quốc hữu hóa
Các ngân hàng cần được quốc hữu hóa do nguyên nhân: một số ngân
hàng lớn đang ở bên bờ vực thẳm, và có thể đã sụp đổ nếu các nhà đầu tư
không kỳ vọng vào sự cứu trợ của chính phủ. Chẳng hạn, vụ phá sản của
Lehman Brothers năm 2008 đã gây ra tác hại to lớn hệ thống tài chính thế
giới do đó không thể để điều đó xảy ra với những ngân hàng lớn hơn như
Citigroup và Bank of America. Tuy nhiên, việc quốc hữu hóa cũng chỉ là tạm
thời để cứu hệ thống ngân hàng khỏi tiếp tục suy thoái hay khủng hoảng.
+ Hàn Quốc
Hàn Quốc là nền kinh tế hàng đầu Châu Á. Hàn Quốc đã thành công
trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và trở thành một nước

công nghiệp phát triển thông qua việc hình thành và xây dựng được các tập
đoàn kinh tế lớn (cheabol). Tuy nhiên, sự lớn mạnh của các cheabol phụ thuộc
nhiều vào chính sách của chính phủ và sự hỗ trợ to lớn của hệ thống ngân
hàng thương mại Hàn Quốc.
Nhằm phục vụ cho chính sách hướng về xuất khẩu, Chính phủ Hàn
Quốc buộc các ngân hàng thương mại nước này phải cho các cheabol vay với
lãi suất thấp. Bên cạnh đó, chính phủ sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho những
khoản vay này trong trường hợp doanh nghiệp phá sản và thua lỗ. Do bị chính
phủ can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng, nhất
là quy định giới hạn mức lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nên lợi nhuận
của hệ thống ngân hàng thuộc loại thấp nhất trong các nền kinh tế mới nổi.
Điều đó đặt các ngân hàng thương mại Hàn Quốc đối diện với rủi ro trong
việc quan lý nợ và đối mặt với nhiều khoản nợ xấu. Việc mở cửa thị trường
Hàn Quốc diễn ra một cách chậm chạp nên các ngân hàng Hàn Quốc chưa sẵn
sàng cho sự canh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Khi cuộc khủng hoảng
tài chính Châu Á nổ ra (1996-1997) và kéo Hàn Quốc vào vòng xoáy thì hệ
16
thống ngân hàng Hàn Quốc bộc lộ rõ những yếu kém của mình. Đứng trước
hoàn cảnh đó, để thoát ra khỏi khủng hoảng, Chính phủ Hàn Quốc đã thực thi
chính sách cải tổ toàn diện ngân hàng bắt đầu từ tháng 11-1997. Có 2 trong số
6 ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc bị quốc hữu hóa, khoảng 10 ngân hàng bị tịch
thu giấy phép hoạt động và rất nhiều ngân hàng, các tổ chức tín dụng đang
đứng bên bờ vực phá sản. Tháng 3 - 1998, ủy ban giám sát tài chính
(Financial Supervisory Commision - FSC) được thành lập nhằm xem xét và
thu hồi giấy phép, đình chỉ hoạt động của các tổ chức tài chính không thể tiếp
tục hoạt động, hợp nhất các ngân hàng nhỏ thành các ngân hàng lơn theo mô
hình ngân hàng của Hoa Kỳ và Châu Âu, cho phép các ngân hàng đã tái cơ
cấu tham gia vào quá trình tái cơ cấu các cheabol. Tiếp đó, Chính phủ Hàn
Quốc yêu cầu các ngân hàng được phép hoạt động hợp nhất với nhau hoặc tự
tìm đối tác nước ngoài có khả năng. Hai trong số 7 ngân hàng đang hoạt động

có điều kiện là Ngân hàng Hanil và Ngân hàng thương mại đã hợp nhất thành
Ngân hàng Hanvit để trở thành 1 trong 6 ngân hàng lớn nhất Hàn Quốc. Xu
hướng hợp nhất các ngân hàng sau đó phát triển mạnh với việc hợp nhất của
Ngân hàng Chohung Bank với Ngân hàng Hana, rồi ngân hàng mới này lại
hợp nhất với Ngân hàng Boram; Ngân hàng Kookmin hợp nhất với Ngân
hàng Tín dụng dài hạn Hàn Quốc. Đồng thời chính phủ Hàn Quốc cũng tạo
điều kiện và khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào hệ thống
ngân hàng nước này. Đến năm 2001, 40% cổ phần của Ngân hàng KorAm do
các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ, tỷ lệ này ở ngân hàng Kookmin là 11%
Trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, chính phủ Hàn Quốc đã
phải trực tiếp nắm quyền sở hữu một lượng lớn Ngân hàng thương mại. Ngay
sau khi tiến hành đổi mới và thực hiện các biện pháp cần thiết để nâng cao
hiệu quả hoạt động, chính phủ Hàn Quốc đã khẩn trương tiến hành tư nhân
hóa các ngân hàng này.
17
Có thể thấy, vai trò của chính phủ Hàn Quốc trong đổi mới ngân hàng
nước này là rất lớn dù cho cuối cùng phần lớn cổ phần của hệ thống ngân
hàng thuộc về tư nhân và nhà đầu tư nươc ngòai (chủ động tư nhân hóa).
+ Nhật Bản
Trước những năm 90 của thế kỷ trước, hệ thống ngân hàng Nhật Bản
hướng ưu tiên cho vay vào khách hàng cá nhân và các công ty kinh doanh bất
động sản. Nhưng sau đó nền kinh tế Nhật bắt đầu đi vào suy thoái, giá trị bất
động sản giảm mạnh, giá trị tài sản cầm cố mất giá nghiêm trọng, các doanh
nghiệp không có khả năng trả nợ, hệ thống ngân hàng hoạt động trì trệ và bắt
đầu rơi vào khủng hoảng từ đây. Cuối năm 1996, Nhật Bản thực hiện một
cuộc đại cải cách nhằm đem lại cho hệ thống Ngân hàng thương mại một
năng lực cạnh tranh mới. Trong đó mục tiêu của cải cách là: Tăng cường khả
năng thanh khoản của những ngân hàng gặp khó khăn; trợ giúp tài chính cho
kế hoạch hợp nhất giữa các ngân hàng; Trợ giúp vốn cho những ngân hàng
yếu nhưng còn khả năng tồn tại; Quốc hữu hóa những ngân hàng không thể

tồn tại. Nét đặc biệt trong cải cách hệ thống ngân hàng ở Nhật Bản là: Quốc
hữu hóa và Cải cách ngân hàng chịu nhiều ảnh hưởng của chính trị.
Một giải pháp quan trọng trong cải tổ hệ thống ngân hàng Nhật Bản là
quốc hữu hóa một số ngân hàng thương mại của Nhật Bản nhằm giúp Nhà
nước kiểm soát chặt chẽ hơn hệ thống ngân hàng. Cách thức quốc hữu hóa là
chuyển cổ phiếu ưu đãi do Nhà nước cấp thành cổ phiếu phổ thông có quyền
biểu quyết. nhưng phương thức này bị phản đối vì một ngân hàng bị quốc hữu
hóa là ngân hàng yếu và mất niềm tin nên càng làm cho hoạt động của ngân
hàng tồi tệ hơn.
Năm 2002, cố vấn tài chính tối cao Nhật Bản ông Heizo Takenaka đã
đưa ra bản kế hoạch làm hồi sinh hệ thống ngân hàng Nhật Bản thông qua
những biện pháp thắt chặt tài chính. Chương trình của ông Takenaka gặp phải

×