Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




NGUYỄN THỊ HẢI LÝ




NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
CỦA TỈNH THANH HOÁ




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ








Hà Nội, 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



NGUYỄN THỊ HẢI LÝ



NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
CỦA TỈNH THANH HOÁ

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ DẬU






Hà Nội, 2011

MỤC LỤC




Trang

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
i
Danh mục các bảng
iii
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
iiii
Mở đầu

1
Chƣơng 1.
Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lƣợng NNL
6
1.1.
Chất lượng NNL …………
6
1.1.1.
Khái niệm và vai trò của chất lượng NNL
6
1.1.2.
Tiêu chí đánh giá chất lượng NNL
14
1.1.3
Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng NNL
18
1.2.
Nâng cao chất lượng NNL tại một số địa phương và bài
học kinh nghiệm
22
1.2.1.
Nâng cao chất lượng NNL tại TP Hà Nội

22
1.2.2.
Nâng cao chất lượng NNL tại tỉnh Nghệ An
26
1.2.3.
Nâng cao chất lượng NNL tại TP Hồ Chí Minh
30
1.2.4.
Bài học kinh nghiệm
32

Kết luận chương 1
33
Chƣơng 2.
Thực trạng chất lƣợng NNL ở Thanh Hoá
35
2.1.
Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến chất lượng NNL
Thanh Hoá
35
2.1.1.
Đặc điểm kinh tế
35
2.1.2.
Đặc điểm văn hoá – xã hội
38
2.1.3.
Chính sách phát triển NNL
53
2.2.

Phân tích thực trạng chất lượng NNL ở Thanh Hoá
58
2.2.1.
Quy mô và cơ cấu NNL
58
2.2.2.
Phân tích tình hình chất lượng NNL ở Thanh Hoá
60
2.3.
Đánh giá chung về chất lượng NNL ở Thanh Hoá
70
2.3.1.
Những thành công
70
2.3.2.
Những hạn chế và nguyên nhân
72

Kết luận chương 2
77
Chƣơng 3.
Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
78

chất lƣợng NNL ở Thanh Hoá

3.1.
Bối cảnh kinh tế mới và phương hướng nâng cao chất
lượng NNL ở Thanh Hoá
78

3.1.1.
Bối cảnh kinh tế mới đặt ra yêu cầu nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
78
3.1.2.
Quan điểm và phương hướng nâng cao chất lượng NNL
ở Thanh Hoá
87
3.2.
Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
NNL ở Thanh Hoá
93
3.2.1.
Khai thác tốt tiềm năng, phát triển kinh tế nhanh tạo tiền
đề vật chất để nâng cao chất lượng NNL……
93
3.2.2.
Các giải pháp tăng cường nâng cao thể lực NNL
99
3.2.3.
Các giải pháp về đào tạo NNL
103
3.2.4.
Các giải pháp về sử dụng NNL
112
3.2.5.
Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
về NNL.
116


Kết luận chương 3
121

Kết luận
122

Tài liệu tham khảo
124

Phụ lục

i

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

STT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
1
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
2
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
3
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
4
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á-Âu

5

Cao đẳng
6
CMKT
Chuyên môn kỹ thuật
7
CNH
Công nghiệp hoá
8
CNKT
Công nhân kỹ thuật
9
DN
Doanh nghiệp
10
ĐH
Đại học
11
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
12
GDP
Tổng sản phẩm trong nước
13
GD-ĐT
Giáo duc-đào tạo
14
HĐH
Hiện đại hoá

15
KH-CN
Khoa học-công nghệ
16
KT-XH
Kinh tế - xã hội
17


18
LĐKT
Lao động kỹ thuật
19
LĐ-TB&XH
Lao động-thương binh và xã hội
20
NNL
Nguồn nhân lực
21
NXB
Nhà xuất bản
22
THCN
Trung học chuyên nghiệp
23
THCS
Trung học cơ sở
ii

24

THPT
Trung học phổ thông
25
TP
Thành phố
26
UBND
Uỷ ban nhân dân
27
XKLĐ
Xuất khẩu lao động
28
WTO
Tổ chức thương mại thế giới























iii

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1
Cơ cấu kinh tế của Thanh Hoá qua các năm
36
2
Bảng 2.2
Quy mô phát triển khối giáo dục mầm non và phổ
thông
39
3
Bảng 2.3
Mạng lưới trường học
40
4
Bảng 2.4
Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp tỉnh Thanh Hoá

42
5
Bảng 2.5
Kết quả tuyển sinh đào tạo nghề
42
6
Bảng 2.6
Số lượng cơ sở y tế của tỉnh Thanh Hoá
47
7
Bảng 2.7
Một số chỉ tiêu về y tế của tỉnh Thanh Hoá
48
8
Bảng 2.8
Số lượt người khám-chữa bệnh tại các cơ sở y tế trên
địa bàn tỉnh Thanh Hoá
48
9
Bảng 2.9
Phong trào thể dục thể thao quần chúng
51
10
Bảng 2.10
Số LĐ được giải quyết việc làm trong năm và số LĐ
đi XKLĐ ở nước ngoài
52
11
Bảng 2.11
Dân số các dân tộc chủ yếu của tỉnh Thanh Hoá

58
12
Bảng 2.12
Dân số trong độ tuổi LĐ tỉnh Thanh Hoá
59
13
Bảng 2.13
Cơ cấu LLLĐ chia theo nhóm ngành kinh tế
59
14
Bảng 2.15
Tỷ lệ LĐ qua đào tạo và tỷ lệ LĐ qua đào tạo nghề
66
15
Bảng 2.16
Cơ cấu LĐ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đang
làm việc chia theo nhóm ngành kinh tế quốc dân
68
16
Bảng 3.1
Dự báo LĐ ở Thanh Hoá giai đoạn 2011 – 2015
87





iv

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ


STT

Tên các hình vẽ, đồ thị
Trang
1
Hình 1.1
Sơ đồ hệ thống phân loại nguồn nhân lực
8
2
Hình 2.1
Chi cho giáo dục đào tạo của tỉnh qua các năm
41
3
Hình 2.2
Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ LĐ thiếu
việc làm ở nông thôn qua các năm
53
4
Hình 2.3
Số học sinh thi vào đại học, cao đẳng
63
5
Hình 2.4
Trình độ học vấn của lực lượng LĐ tỉnh
Thanh Hoá
64
6
Hình 2.5
Số LĐ được bồi dưỡng, đào tạo lại

60
7
Hình 1.1
Sơ đồ hệ thống phân loại NNL
8
8
Hộp 2.1
Đào tạo của trường Đại học Hồng Đức
45








1
MỞ ĐẨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, nhất là toàn cầu hóa trên lĩnh vực kinh tế
đã và đang thúc đẩy Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh hơn vào nền kinh tế tri
thức. Việt Nam đang trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, để tạo bước nhảy vọt về phát triển kinh
tế, nhất là khi đã gia nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như
APEC, AFTA, WTO thì vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (NNL)
đủ sức cạnh tranh cho nền kinh tế đang là nhu cầu hết sức cấp bách của Việt
Nam, đòi hỏi những thay đổi mang tính đột phá.
Là một tỉnh ở bắc miền trung, Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng
của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, các tỉnh bắc Lào và

vùng trọng điểm kinh tế trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền bắc bộ với trung bộ.
Trong những năm qua, tỉnh đã rất chú trọng đến phát triển NNL, đặc biệt là vấn
đề nâng cao chất lượng NNL và bước đầu đã có những kết quả nhất định. Tuy
nhiên, trên thực tế về số lượng cũng như chất lượng NNL hiện nay vẫn chưa đáp
ứng được so với yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế và sự nghiệp CNH,
HĐH của tỉnh. NNL, cụ thể là lực lượng lao động (LLLĐ) tuy dồi dào, có tính
cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo nhưng vẫn còn hạn chế không nhỏ
về trình độ chuyên môn, kỹ năng, thể lực và văn hoá lao động (LĐ) công
nghiệp.
Mục tiêu chiến lược của Thanh Hoá đến năm 2020 là: “Phát triển kinh tế -
xã hội nhanh, hiệu quả và bền vững; tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng
tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[13, tr 18]. Để thực hiện được
mục tiêu trên cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó phát triển NNL được
xem là yếu tố then chốt nhất.

2
Quá trình CNH, HĐH càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi phải nâng cao
chất lượng của đội ngũ LĐ nhằm đạt được năng suất, hiệu quả sản xuất kinh
doanh lớn hơn nhiều lần. Vấn đề nâng cao chất lượng NNL đang được đặt ra
như một yêu cầu cấp bách cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn đối với Việt Nam nói
chung và Thanh Hoá nói riêng.
Vậy chất lượng NNL ở Thanh Hoá đã đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội (KT – XH) của tỉnh chưa? Nguyên nhân của vấn đề này là gì?
Giải pháp nào để nâng cao chất lượng NNL tại Thanh Hoá? Đề tài: “Nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Thanh Hoá” sẽ phần nào giải đáp các
câu hỏi trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Để thực hiện CNH - HĐH đất nước và quá trình hội nhập, chất lượng
NNL là yếu tố cơ bản và có tính quyết định do vậy luôn được các nhà khoa học
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về

vấn đề này, trong đó cần kể đến những công trình sau đây:
- Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến với đề tài khoa học
độc lập cấp nhà nước “Phát triển LĐKT ở Việt Nam giai đoạn 2001-2010”.
- Tác giả Trần Thị Tuyết Mai với luận án tiến sĩ kinh tế: “Phát triển
NNL trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”
- Tác giả Phạm Văn Quý với luận án tiến sĩ kinh tế “Các giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển NNL khoa học công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá”
- Tác giả Nguyễn Văn Thành với đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
“NNL chất lượng cao: hiện trạng phát triển, sử dụng và các giải pháp tăng
cường”

3
- Tác giả Vương Quốc Được với đề tài thạc sĩ “Xây dựng NNL cho
CNH, HĐH thành phố Đà Nẵng”.
- Tác giả Lê Ngọc Trà với đề tài cấp Sở “Quy hoạch tào tạo NNL tỉnh
Bình Thuận giai đoạn 2002-2010”.
- Tác giả Phạm Kim Sơn với đề tài cấp thành phố “Chính sách phát
triển nhân lực và thu hút nhân tài công nghệ thông tin thành phố Đà Nẵng”.
Ở nhiều góc độ, cấp độ nghiên cứu khác nhau, các công trình khoa học
nêu trên đã đưa ra những phương diện về lý luận cũng như thực tiễn xoay
quanh nội dung phát triển NNL ở một số tỉnh, thành phố và trên phạm vi cả
nước.
Tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tập trung
vào vấn đề nâng cao chất lượng NNL của Thanh Hoá trên giác độ kinh tế
chính trị một cách hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn và đưa ra
những giải pháp cần thiết cho vấn đề này. Các công trình nói trên là những tài
liệu tham khảo bổ ích cho tác giả khi viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích

Trên cơ sở những lý luận cơ bản về chất lượng NNL, đề tài phân tích,
đánh giá thực trạng chất lượng NNL ở Thanh Hóa; từ đó tìm ra nguyên nhân
của tình hình và đề ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
NNL tại Thanh Hoá.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng NNL.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân về chất lượng NNL và
vấn đề nâng cao chất lượng NNL tại Thanh Hoá.

4
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
NNL tại Thanh Hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu: đề tài ngiên cứu chất lượng NNL trên góc độ
kinh tế chính trị
*Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu chất lượng NNL ở Thanh
Hóa, (có nghiên cứu kinh nghiệm của thành phố (TP) Hà Nội, tỉnh Nghệ An
và TP Hồ Chí Minh).
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích các báo cáo và tư liệu thực tế về NNL của sở
Lao động, Thương binh-Xã hội, của sở Kế hoạch Đầu tư, của Uỷ ban nhân
dân (UBND) tỉnh Thanh Hóa.
- Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp trừu tượng khoa học, phương pháp phân tích - tổng hợp,
thống kê, so sánh, đối chiếu…. và các công cụ phân tích kinh tế như: dãy số
liệu, chỉ số, biểu đồ…
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thêm lý luận và thực tiễn về chất lượng NNL và vấn đề nâng

cao chất lượng NNL.
- Đánh giá những thành công, những hạn chế và nguyên nhân về chất
lượng NNL ở Thanh Hoá; trên cơ sở đó đề xuất các định hướng và giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng NNL ở Thanh Hóa .

5
- Là tài liệu tham khảo về nâng cao chất lượng NNL có thể được sử
dụng ở Thanh Hóa, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo và
phát triển NNL tại địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng NNL
Chương 2: Thực trạng chất lượng NNL ở Thanh Hoá
Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
NNL ở Thanh Hoá.



















6
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHẤT LƢỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
1.1. Chất lƣợng nguồn nhân lực
1.1.1. Khái niệm và vai trò của chất lượng nguồn nhân lực
1.1.1.1. Khái niệm
*Nguồn nhân lực
Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều coi NNL là yếu tố cơ bản, có vai
trò quyết định nhất đối với sự phát triển nhanh và bền vững.
NNL theo nghĩa rộng là nguồn lực con người của một quốc gia, là một bộ
phận của các nguồn lực có khả năng huy động, quản lý để tham gia vào quá trình
phát triển KT-XH. Đó là bộ phân dân số trong độ tuổi quy định và có khả năng
LĐ, tức là những người LĐ có kỹ năng, đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ
cấu LĐ, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước.
Theo nghĩa hẹp (xét theo từng thời kì) NNL là nguồn lực của một quốc
gia, là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia LĐ.
Theo giáo trình Kinh tế học phát triển (Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh): “NNL là một bộ phận của dân số trong độ tuổi theo quy định của
luật pháp có khả năng tham gia LĐ”[8, tr 95].
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực LĐ của Bộ Lao động -Thương binh và
Xã hội: “NNL là tiềm năng về LĐ trong một thời kỳ xác định của một quốc
gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay
một vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội”
[5,tr16]
Trong thực tế, khái niệm “NNL” ngoài nghĩa rộng được hiểu như khái

niệm “nguồn lực con người”, thường được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn LĐ
(tổng số người đang có việc làm, số người thất nghiệp và số LĐ dự phòng).

7
Thậm chí có khi còn được hiểu là LLLĐ (số người trong độ tuổi LĐ và có khả
năng LĐ).
Nguồn nhân lực được nghiên cứu trong luận văn là tổng hợp những con
người, chủ thể với những năng lực, phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham
gia vào quá trình CNH, HĐH.
NNL được biểu hiện trên hai mặt:
- Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi LĐ và thời gian
làm việc có thể huy động được của họ. Nguồn nhân lực tại một thời điểm
thường được xác định là bao nhiêu hay chiếm tỷ lệ bao nhiêu phần trăm trong
tổng dân số. Việc quy định cụ thể độ tuổi LĐ của mỗi quốc gia (kể cả cận
dưới và cận trên) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của
nền kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn. Hiện nay, Bộ luật LĐ Việt Nam quy
định độ tuổi LĐ từ đủ 15 đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15 đến 55 (với nữ).
- Về chất lượng NNL, đó là các chỉ tiêu về tình trạng sức khoẻ, trình độ
kiến thức, tay nghề, tác phong nghề nghiệp, cơ cấu NNL về tuổi tác, giới tính,
phẩm chất đạo đức
NNL bao gồm (xem hình 1.1):
- NNL sẵn có: Gồm toàn bộ những người trong độ tuổi LĐ, có khả
năng LĐ, không kể đến trạng thái có hay không tham gia hoạt động kinh tế và
những người trên độ tuổi LĐ đang tham gia hoạt động kinh tế. Theo thống kê
của Liên Hợp quốc, khái niệm này gọi là dân cư hoạt động, nghĩa là tất cả
những người có khả năng làm việc tính theo độ tuổi LĐ quy định.
- NNL dự trữ: Chênh lệch giữa NNL sẵn có trong dân cư và NNL tham
gia hoạt động kinh tế là NNL dự trữ, bao gồm:
+ Những người đang đi học ở các trường THPT và chuyên nghiệp được
coi là NNL dự trữ quan trọng và có chất lượng. Đây là NNL ở độ tuổi thanh

niên, có học vấn, có trình độ cao, cần chia cụ thể để sử dụng một cách hợp lý .

8
+ Những người đang làm nghĩa vụ quân sự.
+ Những nguời làm công việc nội trợ gia đình. Đây là nguồn nhân lực
đáng kể bao gồm đại bộ phận LĐ là nữ. Khi có thuận lợi, họ có thể gia nhập
vào các hoạt động kinh tế xã hội.
+ Những người trong độ tuổi LĐ nhưng chưa có nhu cầu làm việc.
- NNL tham gia vào hoạt động kinh tế: còn gọi là LLLĐ bao gồm
những người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc
dân và những người đang không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc và
sẵn sàng làm việc (gọi tắt là những người thất nghiệp)












Hình 1.1: Sơ đồ hệ thống phân loại NNL
* Chất lượng NNL
Chất lượng NNL là trạng thái nhất định của NNL, thể hiện mối quan hệ
giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của NNL, nó luôn có sự vận
động và phản ánh trình độ phát triển KT- XH cũng như mức sống, dân trí của
dân cư. Chất lượng NNL không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển

NNL sẵn có trong dân

NNL dự trữ
NNL tham gia hoạt
động kinh tế
Đang
làm
nghĩa
vụ
quân
sụ
Lực
lượng lao
động
đang thất
nghiệp
Lao động
đang làm
việc trong
các ngành
kinh tế
quốc dân
Đi
học
Nội
trợ
Chưa

nhu
cầu

làm
việc

9
kinh tế mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội.
Chất lượng NNL cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ
là nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã
hội nhất định.
NNL đáp ứng nhu cầu CNH - HĐH bao gồm những con người có đức
có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, được chuẩn bị tốt về kiến thức văn
hóa, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực kinh
doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có tình yêu quê hương
đất nước, ý thức giai cấp,…
Chất lượng NNL thể hiện trạng thái nhất định của NNL với tư cách vừa
là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế
và các quan hệ xã hội.
Như vậy: Chất lượng NNL là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh
bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất và phát triển
con người. Đó là những nét đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực, năng lực,
phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL: trạng thái sức khoẻ,
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành
phần xã hội
Trong các yếu tố cấu thành chất lượng NNL, trình độ học vấn là yếu tố
quan trọng nhất vì nó không chỉ là cơ sở để đào tạo kỹ năng nghề nghiệp mà
còn là yếu tố hình thành nhân cách và lối sống của mỗi con người. Chất lượng
NNL liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực như đảm bảo dinh dưỡng và chăm
sóc sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, LĐ và việc làm gắn với tiến bộ kỹ thuật,
trả công LĐ và các mối quan hệ xã hội khác. Chất lượng NNL cao có tác
động làm tăng năng suất LĐ. Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một nước cần và
có thể đưa chất lượng NNL vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất


10
trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật – công nghệ, hoà nhập với
nhịp độ phát triển của nhân loại.
1.1.1.2. Vai trò của chất lượng NNL
NNL là nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất trong quá trình
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vị trí, vai trò của NNL được thể
hiện ở tất cả các mặt, lĩnh vực, các quan hệ trong đời sống KT - XH, an ninh,
quốc phòng của quốc gia, đặc biệt có vai trò quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh của toàn
cầu hoá kinh tế và của nền kinh tế tri thức.
Thứ nhất, Chất lượng NNL với tăng trưởng kinh tế.
Bài toán tăng trưởng kinh tế của bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó
giàu hay nghèo cũng đều được giải đáp bằng việc phát huy, sử dụng có hiệu
quả bốn nguồn lực cơ bản đó là NNL, tài nguyên thiên nhiên, vốn và công
nghệ. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, sử dụng, phát huy định
lượng, tỷ trọng và định tính các nguồn lực trong tăng trưởng kinh tế ở mỗi
quốc gia là rất khác nhau và trình độ kết hợp chúng hiệu quả cũng đem lại kết
quả tăng trưởng kinh tế khác nhau.
Thực tiễn các nước phát triển cho thấy, giữa các nguồn lực thúc đẩy
quá trình phát triển KT-XH có mối quan hệ nhân quả với nhau trong quá trình
phát triển của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, NNL với yếu tố hàng
đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết
bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến
đâu cũng chỉ là yếu tố hữu hạn, chúng không có sức mạnh tự thân và sẽ cạn
kiệt dần trong quá trình khai thác, sử dụng của con người. Hơn thế nữa, các
nguồn lực này chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp được với nguồn lực
con người một cách có hiệu quả. Do vậy, chỉ có NNL mới là tài nguyên vô
tận, không bao giờ bị cạn kiệt, có khả năng phục hồi và tự tái sinh nếu biết


11
nuôi dưỡng, thúc đẩy nó phát triển. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: vốn, nguyên
vật liệu, công nghệ - đều có thể mua hoặc vay được trong nền kinh tế thế giới.
Một nước có thể mua những thiết bị thông tin viễn thông, máy tính, máy phát
điện và máy bay chiến đấu hiện đại nhất. Thế nhưng những hàng hoá vốn này
chỉ có thể được sử dụng và duy trì hữu hiệu bởi những người công nhân có kỹ
năng và được đào tạo. Trình độ văn hoá, sức khoẻ, kỷ luật được nâng cao và
gần đây nhất là khả năng sử dụng máy tính đã làm cho năng suất LĐ tăng
thêm rất nhiều.
Nhiều nước phát triển trong khu vực và các nước ASEAN trong thập
niên cuối của thế kỷ 20 đã trở thành những “con rồng”, “con hổ”, thực chất là
các quốc gia đó đã biết điều chỉnh chiến lược tăng trưởng theo hướng khai
thác tối đa nguồn lực con người và coi đào tạo NNL là quốc sách hàng đầu.
Đối với Việt Nam, một nước mà cho đến nay vẫn còn ở tình trạng của
một nước nghèo, lạc hậu, để mau chóng thoát khỏi tình trạng đó, tránh nguy
cơ tụt hậu xa hơn so với các nước có cùng hoàn cảnh trong khu vực, Việt
Nam không có con đường nào khác ngoài con đường tiến hành CNH, HĐH.
Song để đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thắng lợi, Việt Nam không thể chỉ
dựa vào nguồn lực tự nhiên sẵn có mà trước hết và trên hết phải dựa vào đội
ngũ những người LĐ, xây dựng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam
đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, hợp lý về cơ cấu. Chỉ có trên cơ sở tạo ra
một NNL bao gồm những người LĐ Việt Nam “phát triển cả về trí lực và thể
lực, cả về khả năng LĐ, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình
cảm trong sáng” [6, tr 9] mới có được nguồn lực quan trọng nhất, ổn định
nhất và bền vững nhất cho CNH, HĐH.
Thứ hai, chất lượng NNL với nâng cao khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá.

12
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang ngày càng đi vào chiều sâu,

diễn ra một cách nhanh chóng, khách quan, không một quốc gia nào có thể
đứng ngoài.
Trong thời gian qua nhờ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại
cho nền kinh tế Việt Nam những thành quả đáng khích lệ. Thực hiện chủ
trương đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, đến nay nước ta đã có
quan hệ thương mại với 221 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã tham gia vào các tổ
chức, diễn đàn quốc tế lớn như: ASEAN, APEC, ASEM, WTO…. Nhờ gia
tăng quan hệ kinh tế thương mại, gia tăng kim ngạch xuất khẩu nên đã góp
phần tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua. Từ một nước có tốc độ
tăng trưởng kém, đến nay, Việt Nam luôn đạt tốc độ tăng trưởng hơn 7%,
đứng thứ hai sau Trung Quốc.
Song, theo đánh giá của thế giới, năng lực cạnh tranh nền kinh tế là
vấn đề thách thức, đáng lo ngại nhất hiện nay. Báo cáo năng lực cạnh tranh
toàn cầu 2011-2012 do Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) công bố xếp Việt
Nam ở vị trí thứ 65 trên tổng số 142 quốc gia được khảo sát, rớt 6 bậc so với
năm 2010. Báo cáo xếp loại dựa trên 12 tiêu chí: các định chế, cơ sở hạ tầng,
kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục tiểu học, hàng hóa và tính hiệu quả của thị
trường, giáo dục đào tạo bậc cao, tính hiệu quả của thị trường LĐ, tính sẵn có
của công nghệ, sự phát triển thị trường tài chính, quy mô thị trường, kinh
nghiệm trong kinh doanh và đổi mới [52]. Trong 12 tiêu chí đó, các chỉ tiêu
cơ sở hạ tầng, hàng hoá và tính hiệu quả của thị trường, giáo dục đào tạo bậc
cao và đặc biệt là chỉ tiêu tính sẵn có của công nghệ cũng như chỉ tiêu kinh
nghiệm trong kinh doanh và đổi mới được xếp thứ hạng thấp.
Tuy những chỉ số này để tham khảo, nhưng không được phép coi nó là
bình thường. Về mặt lượng của một nền kinh tế có thể là tăng trưởng cao,

13
nhưng tụt hạng năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với tụt hậu xa hơn về mặt chất
của nền kinh tế.
Thực tế đã chỉ rõ muốn tồn tại và phát triển trong một “thế giới phẳng”

nhưng cạnh tranh khốc liệt hiện nay, vượt lên trên lợi thế về tài nguyên, vị trí
địa lý,…vv chính là yếu tố chất lượng NNL, yếu tố này đóng vai trò quyết
định nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đây sẽ là đội ngũ LĐ có có
kỹ năng nghề cao, sẵn sàng sáng tạo, áp dụng những thành quả công nghệ
hiện đại vào trong sản xuất, tạo ra những sản phẩm, hàng hoá có chất lượng,
giá cả rẻ, giá trị gia tăng lớn. Do vậy, muốn cải thiện thứ bậc năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam, thu hẹp được khoảng cách so với các nước
trong khu vực và thế giới, không còn con đường nào khác là phải nâng cao chất
lượng NNL đủ khả năng cạnh tranh với khu vực và quốc tế.
Thứ ba, chất lượng NNL với tiếp cận kinh tế tri thức.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam không thể đi theo con đường
truyền thống và kéo dài được, một mặt phải có quy trình, trình tự hợp lý
nhưng đồng thời phải có bước nhảy vọt, đi tắt, đón đầu hợp lý và mạnh dạn,
táo bạo đi ngay vào trình độ hiện đại để có những bước bứt phá mạnh mới
khắc phục tình trạng tụt hậu xa hơn về kinh tế, rút ngắn, đẩy nhanh quá trình
CNH, HĐH đất nước theo hướng hiện đại. Vì vậy, phát triển kinh tế tri thức
được xem là rất cần thiết ở nước ta.
Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, kinh tế tri thức ngày càng giữ vai
trò chủ đạo. Sức cạnh tranh sẽ xoay quanh tâm điểm là hàm lượng KH - CN,
chất xám quyết định giá trị sản phẩm. Sự phát triển kinh tế tri thức làm tăng
nhu cầu cung cấp NNL chất lượng cao, đòi hỏi người LĐ phải có kiến thức,
kỹ năng, năng lực tiếp thu tri thức mới, có khả năng hội nhập và thích ứng
nhanh với môi trường toàn cầu hoá về kinh tế. Đào tạo NNL chất lượng cao
để tạo ra tri thức, sử dụng tri thức vào quá trình sản xuất để tạo ra những sản

14
phẩm có giá trị gia tăng lớn cho xã hội, có sức cạnh tranh nổi trội là động lực
chủ yếu của phát triển nền kinh tế tri thức. Vì vậy, phải đầu tư mạnh vào giáo
dục, đào tạo, đầu tư vào nghiên cứu KH - CN, phát triển con người.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng NNL

Chất lượng NNL được thể hiện qua một hệ thống các tiêu chí, trong đó
có các tiêu chí chủ yếu sau:
Thứ nhất, Tình trạng sức khoẻ NNL
Sức khoẻ là sự phát triển hài hoà của con ngườii về thể chất cũng như
tinh thần. Sức khỏe thể chất là sự cường tráng, năng lực LĐ chân tay. Sức
khỏe tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, khả năng vận động của
trí tuệ, khả năng biến tư duy thành hành động thực tiễn, khả năng thích ứng
đối phó với các biến động của môi trường xã hội. Hiến chương của tổ chức Y
tế thế giới đã nêu: Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất,
tinh thần chứ không chỉ không có bệnh tật hay thương tật. Tình trạng sức
khỏe của NNL được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu: tuổi thọ bình
quân của dân số; chiều cao, cân nặng trung bình của người LĐ; chỉ tiêu về y
tế, bệnh tật.
Bên cạnh việc đánh giá tình trạng sức khỏe của người lao đông người ta
còn đưa ra các chỉ tiêu đánh giá của một quốc gia như: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ
lệ tăng tự nhiên, tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới một và năm tuổi, tỷ lệ thấp cân
trẻ sơ sinh, tuổi thọ trung bình, cơ cấu giới tính, tuổi tác, mức GDP/đầu người
v.v…
Sức khoẻ của con người là cơ sở tự nhiên giúp con người hoạt động tốt
trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội. Con người không có sức khoẻ sẽ rất
hạn chế trong quá trình hoạt động. Vì vậy sức khoẻ con người là chỉ tiêu quan
trọng phản chất lượng NNL.
Bộ y tế Việt Nam quy định có 03 loại thể lực:

15
Loại A: Thể lực tốt, không có bệnh tật, có khả năng LĐ tốt;
Loại B: Trung bình, khả năng LĐ bị hạn chế một phần nào đó;
Loại C: Yếu, không có khả năng LĐ.
Sức khoẻ và dinh dưỡng là yếu tố quan trọng tác động đến chất lượng
dân số và NNL. Mối quan hệ giữa sức khoẻ và phát triển là mối quan hệ hai

chiều, bản thân sự phát triển kinh tế có tác động cải thiện điều kiện sức khoẻ
và ngược lại, sức khoẻ và dinh dưỡng được cải thiện sẽ nâng cao chất lượng
NNL, tạo động lực phát triển kinh tế. Bản thân sức khoẻ tốt cũng là mục tiêu
quan trọng của sự phát triển, đồng thời sức khoẻ làm tăng mọi tiềm năng của
con người. Người LĐ có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực
tiếp bằng việc nâng cao sức mạnh, sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung
cao trong khi làm việc. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ tốt cho trẻ em
sẽ là yếu tố làm tăng năng suất LĐ trong tương lai, giúp đỡ trẻ trở thành
những người LĐ khoẻ về thể chất, lành mạnh về tinh thần, đồng thời nhanh
chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết thông qua giáo dục đào tạo.
Thứ hai, Trình độ văn hoá của NNL
Trình độ văn hoá của NNL là trạng thái hiểu biết cao hay thấp của
người LĐ về những kiến thức phổ thông tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hóa
là khả năng về học vấn để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản và tri thức
chuyên môn- kỹ thuật. Trong chừng mực nhất định trình độ văn hóa của dân
số biểu hiện mặt bằng dân trí của quốc gia đó. Trình độ văn hóa của một quốc
gia được biểu hiện thông qua các số liệu như: Số lượng người biết chữ và
chưa biết chữ; Số người có trình độ tiểu học; Số người có trình độ trung học
cơ sở (THCS); Số người có trình độ trung học phổ thông (THPT).
Trình độ văn hóa của dân số hay của NNL là một chỉ tiêu hết sức quan
trọng phản ánh chất lượng NNL và có tác động mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế-xã hội. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng

16
một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Trình độ
học vấn càng cao càng tạo thuận lợi mang tính nội sinh để phát triển giáo dục,
kỹ thuật đào tạo nghề, là nhân tố quan trọng để nâng cao chất lượng NNL.
Thứ ba, Trình độ chuyên môn kỹ thuật NNL:
Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết, khả năng thực hành về
lĩnh vực, ngành nghề nào đó của người LĐ. Trình độ chuyên môn - kỹ thuật

của NNL được đánh giá thông qua các chỉ tiêu: Tỷ lệ LĐ đã qua đào tạo và
chưa đào tạo; Cơ cấu LĐ đã qua đào tạo theo các cấp trình độ: công nhân kỹ
thuật và sơ cấp, trung học chuyên nghiệp (THCN), cao đẳng, ĐH, trên ĐH.
Theo thống kê điều tra LĐ – việc làm hàng năm, LLLĐ có chuyên môn
kỹ thuật bao gồm:
- Những người đã tốt nghiệp các trường đào tạo từ công nhân kỹ thuật
trở lên
- Những người có bằng sơ cấp, chứng chỉ nghề.
- Những người tuy chưa qua trường lớp nào nhưng tự tìm hiểu, tự học,
vừa học vừa làm, hoặc được truyền nghề mà có trình độ chuyên môn kỹ thuật
tương đương và thực tế đã đảm nhận những công việc đòi hỏi phải có kỹ thuật
từ 5 năm trở lên.
Trong tổng số LĐ có chuyên môn kỹ thuật, những người có trình độ từ
công nhân kỹ thuật có bằng trở lên là bộ phận chủ yếu quyết định chất lượng
của lực lượng LĐ, là vốn nhân lực để phát huy khả năng sáng tạo của con
người góp phần tăng năng suất LĐ xã hội, thúc đẩy nhanh quá trình phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng CNH, HĐH.
Chỉ tiêu trình độ chuyên môn kỹ thuật của NNL là chỉ tiêu quan trọng
nhất phản ánh chất lượng NNL, thông qua chỉ tiêu quan trọng này cho thấy
năng lực sản xuất của con người trong ngành, trong một quốc gia, một vùng
lãnh thổ, khả năng sử dụng khoa học hiện đại vào sản xuất.

17
Thứ tư, Chỉ số phát triển con người (HDI – Human Development
Index):
Để xác định trình độ phát triển con người của các nước người ta sử
dụng chỉ số phát triển con người, chỉ số này được Liên hợp quốc đưa ra lần
đầu tiên vào năm 1990 và được cộng đồng thế giới công nhận là chỉ tiêu quan
trọng nhất để đo lường và đánh giá một cách tổng hợp mức độ phát triển của
một quốc gia hay một cộng đồng. Chỉ số này được xác định theo ba chỉ tiêu

chủ yếu:
+ Tuổi thọ bình quân: Được đo bằng tuổi thọ kỳ vọng bình quân.
+ Mức sống: Được đo bằng GDP bình quân đầu người theo ngang giá
sức mua thực tế.
+ Trình độ học vấn: Được đo bằng tỷ lệ người lớn biết chữ kết hợp tỷ lệ
ghi danh theo học chung ở tất cả các cấp học.
Như vậy chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển của con người về
mặt kinh tế, mà còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến
bộ xã hội.
Ngoài những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên người ta có thể
xem xét các chỉ tiêu định tính khó có thể định lượng đươc như:
- Chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người LĐ: chỉ tiêu này nhấn mạnh
đến ý chí, năng lực tinh thần của người LĐ.
- Các chỉ tiêu đánh giá về tính năng động xã hội của người LĐ: đó là
khả năng sẵn sàng làm việc, tình trạng việc làm, khả năng cạnh tranh, khả
năng thích ứng trong công việc….
1.1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng NNL
1.1.3.1. Hệ thống giáo dục, đào tạo
Giáo dục và đào tạo có vai trò to lớn trong việc nâng cao chất lượng
NNL-cơ sở của sự phát triển KT-XH. Đó là một quá trình hoạt động có mục

×