Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong tiến trình đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (870.99 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




NGUYỄN HẢI ĐĂNG




KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HÀ NỘI TRONG
TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI






LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ






Hà Nội – 2004
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ




NGUYỄN HẢI ĐĂNG



KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HÀ NỘI TRONG
TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị XHCN
Mã số: 50201



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Người hướng dẫn khoa học: Phó Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Kim Giao




Hà Nội – 2004

MỤC LỤC

Trang
Mở đầu ………………………………………………………………………. 3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN………………… 7
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về kinh tế tƣ nhân……………………… 7
1.1.1. Khái niệm kinh tế tƣ nhân………………………………………. 7
1.1.2. Tính tất yếu khách quan tồn tại và phát triển kinh tế
tƣ nhân ở nƣớc ta………………………………………………11
1.1.3. Những ƣu thế của kinh tế tƣ nhân………………………………13
1.2. Kinh tế tƣ nhân Việt Nam trong những năm đổi mới……………….14
1.2.1. Đặc điểm hình thành kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta……………… 14
1.2.2. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc
về kinh tế nhiều thành phần và kinh tế tƣ nhân…………………16
1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta………………….19
1.2.4. Những đóng góp tích cực của kinh tế tƣ nhân nƣớc ta 24
Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƢ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
HÀ NỘI 29
2.1 Đặc điểm môi trƣờng kinh tế – xã hội của Thủ đô………………… 29
2.2. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế tƣ nhân trên
địa bàn Hà Nội………………………………………………………….33
2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế hộ kinh doanh cá thể
trên địa bàn Hà
Nội…………………………………………….33
2.2.2. Tình hình phát triển các doanh nghiệp khu vực tƣ nhân

1
trên địa bàn Hà Nội……………………………………………38
2.3. Đánh giá tình hình phát triển kinh tế tƣ nhân Hà Nội
những năm qua……………………………………………………… 46
2.3.1. Những đóng góp tích cực của kinh tế tƣ nhân Hà Nội………….46
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém của kinh tế tƣ nhân Hà Nội………….50
2.3.3. Những khó khăn, cản trở sự phát triển kinh tế tƣ nhân
Hà Nội…………………………………………………………. 57

2.4. Nguyên nhân thành công và những hạn chế trong việc phát
triển và phát huy vai trò của kinh tế tƣ nhân Hà Nội……………….68
2.4.1. Nguyên nhân của những thành công………………………… 68
2.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế……………………………… 69
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƢ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI…………………… 71
3.1. Bối cảnh kinh tế – xã hội tác động tới sự phát triển kinh tế
tƣ nhân Hà Nội. ……………………………………………………… 71
3.1.1. Bối cảnh quốc tế………………………………………………. 71
3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc…………………………………………….72
3.2. Một số quan điểm về phát triển kinh tế tƣ nhân……………………. 73
3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế tƣ nhân
trên địa bàn Hà Nội……………………………………………………77
3.3.1. Về phía Nhà nƣớc và Thành Phố Hà Nội………………………77
3.3.2. Về phía doanh nghiệp tƣ nhân…………………………………. 90
Kết luận 93
Danh mục tài liệu tham khảo 95




2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là chủ trƣơng lâu dài của
Đảng và Nhà nƣớc nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế – xã
hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng, nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa từng bƣớc đƣợc xây dựng và
ngày càng rõ nét. Những thành tựu to lớn về nhiều mặt, đặc biệt là lĩnh vực

kinh tế đã minh chứng và khẳng định tính đúng đắn của đƣờng lối đó.
Kinh tế tƣ nhân đã có những đóng góp đáng kể vào thành tựu chung
của nền kinh tế, trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng và Nhà nƣớc đã có chính sách
khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này phát triển và xem đó là vấn đề có
tính chiến lƣợc, lâu dài…
Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nƣớc, Thủ đô Hà Nội có
nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế. Phát huy thế mạnh của mình,
trong những năm qua, kinh tế Hà Nội luôn giữ đƣợc mức tăng trƣởng cao.
Trong đó kinh tế tƣ nhân trên địa bàn đã có sự phát triển mạnh mẽ, góp phần
quan trọng đối với việc thực hiện những mục tiêu kinh tế – xã hội chung của
Thành Phố.
Tuy nhiên, kinh tế tƣ nhân cả nƣớc nói chung và Hà Nội nói riêng đang
gặp những khó khăn, vƣớng mắc cũng nhƣ thách thức trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Muốn duy trì tốc độ phát triển nhanh, đảm bảo thực hiện các
mục tiêu chung của Thành phố và đất nƣớc, Hà Nội phải khai thác và phát
huy tốt các nguồn lực, tiềm năng của mọi thành phần kinh tế trong đó có khu
vực kinh tế tƣ nhân. Nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập vào khu vực và thế

3
giới, sức ép cạnh tranh ngày càng tăng lên là thách thức đặt ra cho mọi thành
phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tƣ nhân.
Tiềm năng của kinh tế tƣ nhân còn nhiều, cần tiếp tục phát huy, khai
thác hiệu quả. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có chính sách
của Đảng, Nhà nƣớc và của Thành phố Hà Nội, cũng nhƣ sự nỗ lực của chính
khu vực kinh tế tƣ nhân.
Từ những vấn đề đặt ra trên đây là lý do tác giả lựa chọn đề tài:
“Kinh tế tƣ nhân ở Hà Nội trong tiến trình đổi mới”.
2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề về kinh tế tƣ nhân là mảng đề tài khá mới mẻ, hấp dẫn

đƣợc nhiều ngƣời quan tâm nghiên cứu. Trong những năm qua, các đề tài, bài
viết thƣờng tập trung nghiên cứu kinh tế tƣ nhân ở tầm vĩ mô hoặc nghiên cứu
một vài khía cạnh của kinh tế tƣ nhân ở tầm tổng thể quốc gia, rất ít đề tài
nghiên cứu về kinh tế tƣ nhân trên phạm vi Tỉnh, Thành phố.
Một số đề tài đã đƣợc thực hiện là:
- “Các thành phần kinh tế Việt Nam” của tác giả Trần Hoàng Kim, Lê
Thụ, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 1992.
- “Về việc phát triển khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt Nam” của tác giả
Trần Thị Hạnh – Luận án PTS Kinh tế – Hà Nội 1994.
- “Kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Mã số: 94 - 980076/ĐT của Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh của PGS .TS Hồ Văn Vinh, Hà Nội 1995.
- “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ kinh
tế của tác giả Đoàn Đình Nghiệp - Khoa kinh tế Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- “Quản lý nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp khu vực tƣ nhân trên địa

4
bàn Tỉnh Phú Thọ hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Hoàng Dân
Mạc, năm 2000 - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đến nay chƣa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc về
kinh tế tƣ nhân trên địa bàn Hà Nội.
Cái mới của đề tài là đi sâu phân tích và khảo cứu tình hình phát triển
và đƣa ra những giải pháp phát triển kinh tế tƣ nhân trên một địa bàn cụ thể là
Thủ đô Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm kiếm, đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm khai thác, phát huy
những tiềm năng của kinh tế tƣ nhân trên địa bàn, phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận về kinh tế tƣ nhân.
- Phân tích thực trạng tình hình phát triển kinh tế tƣ nhân, những đóng
góp, những lợi thế của kinh tế tƣ nhân trên địa bàn Hà Nội và những vấn đề
vƣớng mắc đang đặt ra.
- Kiến nghị, đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế tƣ nhân trên địa
bàn Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu kinh tế tƣ nhân Hà Nội trong sự vận động của
nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ
nghĩa và mối liên hệ giữa kinh tế tƣ nhân với các thành phần kinh tế khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

5
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình phát triển của khu vực kinh tế tƣ
nhân ở Hà Nội trong những năm đổi mới, đặc biệt là trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn kết hợp sử dụng nhiều phƣơng pháp, trong đó phƣơng pháp
cơ bản là phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Bên cạnh đó đề tài còn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ: Phƣơng
pháp phân tích, tổng hợp, liên hệ, so sánh, phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu và
khảo sát thực tế.
6. Những đóng góp của đề tài
- Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế
tƣ nhân nói chung và kinh tế tƣ nhân Hà Nội nói riêng.
- Đánh giá thực trạng, phân tích những đóng góp, những tiềm năng,
những tồn tại bất cập trong việc phát huy tiềm năng của kinh tế tƣ nhân trên
địa bàn Thành phố Hà Nội.
- Đƣa ra quan điểm, những kiến nghị, đề xuất những giải pháp khai
thác và phát huy tiềm năng của kinh tế tƣ nhân trên địa bàn Hà Nội.

7. Về bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn kết cấu gồm 3 chƣơng.
Chương 1:
Một số vấn đề chung về kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế
thị trƣờng – cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2:
Thực trạng kinh tế tƣ nhân trên địa bàn Hà Nội
Chương 3:
Một số quan điểm, giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế

6
tƣ nhân trên địa bàn Hà Nội

7
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƢ NHÂN TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về kinh tế tƣ nhân
1.1.1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Tìm hiểu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lê nin, thuật ngữ
kinh tế tƣ nhân chƣa đƣợc sử dụng trong tác phẩm của Các Mác, Ph.Ăng
ghen và Lênin, mặc dù các nhà kinh điển đã bàn và nghiên cứu nhiều về chế
độ tƣ hữu, về kinh tế cá thể, kinh tế nông dân kiểu gia trƣởng, về sản xuất tƣ
bản tƣ nhân… Về thực chất chúng ta có thể hiểu dù sử dụng ngôn ngữ khác
nhau nhƣng đều có điểm chung là: Kinh tế tƣ nhân dựa trên quan hệ tƣ hữu về
tƣ liệu sản xuất, là hoạt động kinh tế của những ngƣời kinh doanh riêng biệt.
Kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta mới đƣợc phục hồi và phát triển từ năm
1979, đến năm 1986, đƣợc chính thức thừa nhận. Những vấn đề về kinh tế tƣ
nhân đã thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả. Về mặt cảm

tính hầu nhƣ mọi ngƣời đã hiểu rõ về kinh tế tƣ nhân, nhƣng là vấn đề đang
có nhiều sự bàn cãi, tranh luận, chƣa có sự thống nhất, chƣa có nội hàm xác
định rõ ràng trong khái niệm kinh tế tƣ nhân. Ở nƣớc ta đang tồn tại nhiều
quan niệm khác nhau về kinh tế tƣ nhân.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê chia kinh tế ngoài quốc doanh
(kinh tế tƣ nhân) thành: Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tƣ
nhân, hợp tác xã. Theo quan niệm này, kinh tế tƣ nhân chƣa kể đến kinh tế cá
thể tiểu thủ và không tách riêng kinh tế tƣ bản tƣ nhân, đồng thời xác định
Hợp tác xã cũng thuộc kinh tế tƣ nhân.
Trong “Niên giám Thống kê” lại thấy có sự tách biệt thành phần kinh tế

8
tƣ nhân và thành phần kinh tế cá thể.
Trong giới nghiên cứu kinh tế cũng chƣa có sự thống nhất, một số ngƣ-
ời quan niệm doanh nghiệp tƣ nhân chỉ là một bộ phận của kinh tế tƣ nhân.
Nhƣng có tác giả lại đồng nhất kinh tế tƣ nhân với thành phần kinh tế tƣ bản
tƣ nhân. Một số nhà kinh tế đồng nhất kinh tế tƣ nhân với khu vực doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Theo cách quan niệm này, một doanh nghiệp (công
ty) sẽ coi là ngoài quốc doanh nếu nhƣ tƣ nhân làm chủ hơn 50% cổ phiếu, cổ
phần, vốn góp.
Theo cách phân chia thành phần kinh tế trong Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam, hiện nay nền kinh tế
quốc dân nƣớc ta đang tồn tại 6 thành phần kinh tế đó là: Kinh tế nhà nƣớc;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tƣ bản tƣ nhân; kinh tế tƣ bản
nhà nƣớc; kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài [9]. Theo cách phân chia này kinh
tế tƣ bản tƣ nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ thuộc về kinh tế tƣ nhân. Tuy vậy,
trên thực tế khu vực kinh tế có 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngoài cũng là kinh tế tƣ
nhân nếu nó thuộc sở hữu tƣ nhân.
Theo cách phân chia trong Văn kiện Nghị quyết TW5 của Ban Chấp
hành TW Đảng khóa IX, kinh tế tƣ nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và

kinh tế tƣ bản tƣ nhân.
Qua các quan niệm trên ta nhận thấy, hiện nay ở nƣớc ta chƣa có khái
niệm với nội hàm rõ ràng, thống nhất về kinh tế tƣ nhân. Chính lý do đó dẫn
đến số liệu thống kê, các số liệu báo cáo về kinh tế tƣ nhân có nhiều khác biệt
và khó xử lý theo một hệ thống nhất quán qua các năm.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả lựa chọn cách phân loại theo Văn
kiện Nghị quyết TW5 của Ban Chấp hành TW Đảng khoá IX. Theo quan
niệm này, kinh tế tƣ nhân gồm hai thành phần kinh tế là thành phần kinh tế cá

9
thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân [10]. Hai thành phần kinh tế
này có sự khác biệt nhất định.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tƣ hữu nhỏ mà thu nhập dựa hoàn
toàn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình họ [4, 17].
Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế tƣ hữu nhỏ nhƣng có thuê lao
động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của bản thân
và gia đình họ [4, 17].
Nhƣ vậy kinh tế cá thể và tiểu chủ thuộc cùng một thành phần kinh tế,
đều dựa trên cơ sở tƣ hữu nhỏ, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động và vốn của
chính bản thân và gia đình họ. Sự khác nhau là kinh tế tiểu chủ có sự thuê
mƣớn lao động còn kinh tế cá thể không có sự thuê mƣớn lao động.
Kinh tế tƣ bản tƣ nhân là thành phần kinh tế dựa trên sự chiếm hữu tƣ
nhân tƣ bản chủ nghĩa về tƣ liệu sản xuất và bóc lột sức lao động của ngƣời
làm thuê. Đây là những đơn vị kinh tế dựa trên cở sở tƣ hữu lớn của một hoặc
một số nhà tƣ bản góp lại để sản xuất kinh doanh và thuê mƣớn nhân công
[4].
Giữa thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần kinh tế tƣ bản tƣ
nhân có đặc điểm giống nhau là dựa trên cơ sở quan hệ tƣ hữu tƣ nhân về tƣ
liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tƣ bản tƣ nhân dựa trên sự tƣ hữu lớn về tƣ
liệu sản xuất, thu nhập chủ yếu dựa vào sự bóc lột nhân công làm thuê và tƣ

bản ứng trƣớc. Trong khi đó, kinh tế cá thể, tiểu chủ là quan hệ tƣ hữu nhỏ về
tƣ liệu sản xuất và không dựa trên cơ sở sự bóc lột vì thu nhập chủ yếu dựa
vào lao động, cũng nhƣ vốn của bản thân và gia đình họ. Tuy nhiên sự thuê
mƣớn phải dựa trên cơ sở thoả thuận giữa các bên và quy định của Nhà nƣớc.

10
Ở đây chúng ta cần làm rõ vấn đề bóc lột của các nhà tƣ bản đối với
ngƣời lao động làm thuê và chế độ bóc lột tƣ bản chủ nghĩa vì đây là vấn đề
đang có nhiều tranh luận trên cả phƣơng diện lý luận và thực tế.
Chế độ bóc lột tƣ bản chủ nghĩa tồn tại trong điều kiện sau:
- Về mặt kinh tế: Giai cấp bóc lột (giai cấp Tƣ sản) nắm trong tay
những tƣ liệu sản xuất chủ yếu, các nguồn lực khác của xã hội [47].
- Về mặt chính trị: Giai cấp bóc lột nắm lấy bộ máy thống trị là Nhà
nƣớc để duy trì và củng cố, bảo vệ quan hệ thống trị đó [47].
Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay các điều kiện trên không tồn tại vì:
- Quan hệ sản xuất bóc lột vẫn tồn tại nhƣng không phải là những quan
hệ sản xuất chủ đạo, thống trị trong nền kinh tế. Các tƣ liệu sản xuất, các
nguồn lực chủ yếu đều thuộc về nhân dân lao động, đƣợc Nhà nƣớc quản lý,
khai thác và sử dụng phục vụ lợi ích của nhân dân.
- Nền kinh tế thị trƣờng đƣợc Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa điều tiết và quản
lý. Nhà nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nƣớc pháp quyền của
dân, do dân, vì dân, phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động.
Nƣớc ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản
xuất nông nghiệp lạc hậu, điều kiện xuất phát điểm thấp nên sự tồn tại đan
xen giữa cái cũ và cái mới là tất yếu. Đảng và Nhà nƣớc thừa nhận sự đa dạng
của các hình thức sở hữu, thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế
nên cũng chấp nhận nhiều quan hệ sản xuất tƣơng ứng trong đó có quan hệ
sản xuất tƣ bản chủ nghĩa.
Trong điều kiện kinh tế – xã hội ở nƣớc ta, xem xét sự bóc lột phải đặt
trong điều kiện và những mối quan hệ dƣới đây.


11
Thứ nhất: Xem xét quan hệ bóc lột giữa nhà tƣ bản và ngƣời lao động
làm thuê trong điều kiện nƣớc ta có dân số trẻ, lực lƣợng lao động đông, đang
thiếu việc làm, lao động dôi dƣ lớn. Do đó, bất cứ ai bỏ vốn kinh doanh theo
pháp luật, tạo việc làm và thu nhập cho ngƣời lao động đều đƣợc khuyến
khích phát triển vì có lợi ích cho quốc kế dân sinh.
Thứ hai: Xét xem quan hệ bóc lột phải đặt trong điều kiện tôn trọng và
tuân thủ những quy định của pháp luật và sự quản lý của Nhà nƣớc Việt Nam.
Thứ ba: Việt Nam đang thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa, cần
tranh thủ và phát huy mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến trình đó. Trong điều kiện
nền kinh tế đang chuyển đổi, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế nhà nƣớc và
kinh tế tập thể đang gặp những khó khăn, chƣa thể đảm nhận giải quyết việc
làm và đáp ứng mọi nhu cầu xã hội thì việc phát triển kinh tế nhiều thành
phần là phù hợp với quy luật phát triển và yêu cầu khách quan của nền kinh
tế.
Tóm lại: Kinh tế tƣ nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ
bản tƣ nhân dựa trên quan hệ sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, khác với sở
hữu nhà nƣớc và sở hữu hỗn hợp. Về phƣơng diện lý luận thì kinh tế cá thể,
tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân là hai thành phần kinh tế khác nhau về trình
độ phát triển của lực lƣợng sản xuất và bản chất của quan hệ sản xuất. Trên
thực tế việc phân định rõ đâu là kinh tế cá thể, tiểu chủ, đâu là kinh tế tƣ bản
tƣ nhân là việc không đơn giản. Điều này xuất phát từ sự vận động, phát triển,
sự biến đổi không ngừng của hai thành phần kinh tế này và ảnh hƣởng của các
yếu tố khác nhƣ yếu tố thời đaị, đặc điểm ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh…
1.1.2. Tính tất yếu khách quan tồn tại và phát triển kinh tế tư nhân ở
nước ta

12
Lê nin đã chỉ ra rằng, ở các nƣớc đi lên chủ nghĩa xã hội phổ biến có ba

thành phần kinh tế cơ bản là kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tƣ bản chủ
nghĩa, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ. Đó là sự đan xen tồn tại giữa cái cũ và
cái mới mang tính khách quan. Do vậy, đặc trƣng của nền kinh tế quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế nhiều thành phần.
Vận dụng vào điều kiện cụ thể của nƣớc ta, Đảng và Nhà nƣớc đã chủ
trƣơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Tính tất yếu của sự tồn tại
nhiều thành phần kinh tế ở nƣớc ta thể hiện qua những căn cứ cơ bản sau:
Thứ nhất: Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
xuất phát điểm thấp. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ phát
triển của lực lƣợng sản xuất nhìn chung là thấp và không đồng đều nên cần có
nhiều hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với từng trình độ phát triển là tất
yếu khách quan.
Thứ hai: Nƣớc ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm thấp
bỏ qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa không có nghĩa là bỏ qua mọi hình thức phát
triển của chủ nghĩa tƣ bản mà chỉ bỏ qua sự xác lập vị trí thống trị của quan
hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa [4, 17].
Thứ ba: Trong bối cảnh thế giới đang tạo ra thời cơ và tiềm ẩn thách
thức đối với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi lên chủ nghĩa xã hội
của cách mạng Việt Nam. Hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
khi Liên xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ. Con đƣờng mà
Đảng và nhân dân ta lựa chọn chƣa có mô hình nguyên mẫu nên chúng ta vừa
làm vừa tìm tòi thử nghiệm. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài
nƣớc không ngừng chống phá cách mạng nƣớc ta. Bối cảnh toàn cầu hoá đang
mở ra cả thời cơ cho Việt Nam có thể phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực,
tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ và tinh hoa văn hoá của nhân

13
loại để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hóa rút ngắn, thực
hiện mục tiêu xây dựng nƣớc Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Bên cạnh thời cơ là nguy cơ tụt hậu và tụt hậu ngày

càng xa nếu Việt Nam không bắt kịp với xu thế phát triển của quốc tế, nguy
cơ bị hoà tan và chệch hƣớng xã hội chủ nghĩa khi hội nhập …
Từ những luận cứ trên có thể khẳng định Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã
hội từ xuất phát điểm là nƣớc nông nghiệp lạc hậu tất yếu trải qua thời kỳ quá
độ. Trong nền kinh tế thời kỳ quá độ tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
trong đó sự tồn tại của kinh tế tƣ nhân là tất yếu khách quan.
1.1.3. Những ưu thế của kinh tế tư nhân
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu là quan trọng nhất,
quyết định quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm [4, 17].
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, quan hệ sản xuất của khu vực kinh
tế tƣ nhân có những ƣu thế cơ bản sau:
- Về quan hệ sở hữu: là quan hệ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất,
chủ doanh nghiệp là ngƣời bỏ vốn thành lập, trực tiếp sở hữu và sử dụng tài
sản, tiền vốn của mình. Trên thực tế cơ chế quản lý và sử dụng tài sản riêng
luôn đảm bảo chặt chẽ và có hiệu quả cao hơn việc sử dụng tài sản chung. Do
tính chất tƣ hữu nên chủ doanh nghiệp có thể truyền lại cho thế hệ sau (Thế hệ
con cháu) cả tài sản, kinh nghiệm quản lý, những kiến thức về thị trƣờng và
những bí quyết kinh doanh. Đây là một trong những ƣu thế mà các thành phần
kinh tế khác khó thực hiện.
- Về quan hệ quản lý: Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định việc
tổ chức bộ máy quản lý và điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Bộ máy
quản lý của các doanh nghiệp tƣ nhân thƣờng gọn nhẹ và hiệu quả vì lợi ích
của ngƣời chủ gắn chặt với lợi ích của doanh nghiệp sẽ kích thích chủ doanh
nghiệp luôn tìm tòi và hoàn thiện công tác quản lý. Doanh nghiệp tƣ nhân

14
thƣờng tận dụng đƣợc nhân lực trong gia đình tham gia bộ máy quản lý, họ
luôn có ý thức trách nhiệm cao trong công việc. Các quyết định đƣợc đƣa ra
nhanh nhƣng vẫn đảm bảo sự thận trọng. Quyền tự chủ, tính tự quyết, sự năng
động, linh hoạt của kinh tế tƣ nhân phù hợp với sự biến động thƣờng xuyên

của nền kinh tế thị trƣờng. Đây là ƣu thế rất lớn của kinh tế tƣ nhân, vấn đề
này sẽ khó thực hiện ở các thành phần kinh tế Nhà nƣớc và kinh tế tập thể.
- Về quan hệ phân phối: Lợi ích của doanh nghiệp (lợi nhuận) gắn chặt
với lợi ích của chủ sở hữu (chủ doanh nghiệp) là động lực quan trọng thúc đẩy
kinh tế tƣ nhân phát triển, gia tăng hiệu quả kinh tế, không ngừng năng động
và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Chủ doanh nghiệp có quyền quyết định
phân phối trong doanh nghiệp, đƣợc toàn quyền sử dụng lợi nhuận cho việc
chi tiêu cá nhân hay tích luỹ để đầu tƣ mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong
thực tế, phƣơng thức trả lƣơng và thƣởng của các đơn vị kinh tế tƣ nhân có
hiệu quả hơn so với các thành phần kinh tế khác. Cơ chế trả lƣơng của doanh
nghiệp tƣ nhân thƣờng theo hiệu quả công việc, ai làm nhiều, làm tốt, mang
lại cho doanh nghiệp nhiều lợi ích sẽ đƣợc trả lƣơng cao và ngƣợc lại.
1.2. Kinh tế tƣ nhân Việt Nam trong những năm đổi mới
1.2.1. Đặc điểm hình thành kinh tế tư nhân ở nước ta
Thời kỳ trƣớc đổi mới, về phƣơng diện lý luận, chúng ta thừa nhận nền
kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thành phần kinh tế,
nhƣng trên thực tế nền kinh tế nhiều thành phần đã không đƣợc thừa nhận. Ở
thời kỳ đó nền kinh tế quốc dân đƣợc phân thành hai bộ phận: kinh tế xã hội
chủ nghĩa gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể; kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa gồm kinh tế tƣ nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ. Các thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa đƣợc chú trọng phát triển bằng nhiều biện pháp trong đó chủ
yếu là các biện pháp hành chính. Với phong trào quốc doanh hóa, tập thể hoá

15
đã thúc đẩy kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh, tỷ trọng của thành phần
kinh tế này ngày càng chiếm ƣu thế tuyệt đối trong nền kinh tế. Do nhận thức
không đúng đắn, tƣ tƣởng nóng vội, chủ quan và sự định kiến đối với thành
phần kinh tế tƣ nhân (kinh tế phi xã hội chủ nghĩa) nên khu vực kinh tế này bị
miệt thị, bị ngăn cấm không cho phát triển hoặc bị cải tạo, có phần bị xoá bỏ,
thu hẹp…Tuy nhiên, thành phần kinh tế này vẫn tồn tại nhƣng hoạt động dƣới

dạng kinh doanh ngầm mà chúng ta không thể kiểm soát đƣợc.
Dƣới ánh sáng đƣờng lối đổi mới, Đảng ta đã thừa nhận cả trên lý luận
và thực tiễn nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta
gồm nhiều thành phần kinh tế và khẳng định phát triển kinh tế nhiều thành
phần là chủ trƣơng nhất quán, lâu dài nhằm phát huy nguồn lực của mọi thành
phần kinh tế, đồng thời hoàn thiện cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà
nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Đƣờng lối đổi mới đúng đắn đã khơi
dậy các nguồn lực kinh tế của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tƣ
nhân đã vƣơn lên phát triển mạnh mẽ, trở thành bộ phận quan trọng của nền
kinh tế nhiều thành phần. Trong những năm qua, kinh tế tƣ nhân không ngừng
gia tăng về số lƣợng và quy mô, phát triển ở cả ba miền, có mặt ở hầu hết các
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.Tìm hiểu tình hình phát triển của kinh tế tƣ
nhân nƣớc ta có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản sau:
- Về quan hệ sở hữu: Kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta mới đƣợc phục hồi và
phát triển, không có thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ nhƣ kinh tế tƣ bản tƣ nhân ở
các nƣớc tƣ bản, quá trình tích luỹ chƣa nhiều. Sở hữu của các đơn vị kinh tế
tƣ nhân là quan hệ tƣ hữu nhỏ về tƣ liệu sản xuất. Đa số các đơn vị kinh tế tƣ
nhân có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu
so với kinh tế tƣ nhân ở các nƣớc tƣ bản phát triển. Tuy vậy, quy mô của các
đơn vị kinh tế tƣ nhân đang tăng nhanh cùng với quá trình tích luỹ và nhu cầu
hợp tác kinh doanh.

16
- Về quan hệ quản lý: Do mới đƣợc phục hồi nên trình độ, kinh nghiệm
quản lý còn non yếu, đa số các doanh nghiệp tƣ nhân quản lý dựa vào kinh
nghiệm mà chƣa có kiến thức và phƣơng pháp quản lý hiện đại. Tình trạng
thiếu hiểu biết về pháp luật, về kinh tế thị trƣờng, đặc biệt là kiến thức về
cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế là khá phổ biến. Hầu hết các doanh
nghiệp chƣa có chiến lƣợc kinh doanh, công nghệ sản xuất lạc hậu, tính
chuyên sâu kinh doanh chƣa cao, chủ yếu là kinh doanh đa lĩnh vực. Từ đó

dẫn đến năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tƣ nhân còn nhiều hạn chế.
Khả năng cạnh tranh là tiêu chí tổng hợp của nhiều nhân tố hợp lại, phản ánh
sức mạnh của mỗi đơn vị, mỗi thành phần kinh tế cũng nhƣ của một nền kinh
tế nhất định. Tuy nhiên, kinh tế tƣ nhân nƣớc ta cũng có đặc điểm là sự nhạy
bén, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh. Các quyết định kinh doanh thƣờng
đƣa ra nhanh và có hiệu quả dựa trên sự tính toán cẩn trọng hơn so với khu
vực kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể.
- Về quan hệ phân phối: Kinh tế tƣ nhân nƣớc ta luôn chấp hành tốt các
quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ tiền lƣơng, phúc lợi xã hội đối với
ngƣời lao động. Do trình độ quản lý còn nhiều hạn chế, quy mô nhỏ, công
nghệ sản xuất lạc hậu, năng lực cạnh tranh yếu, lợi nhuận thấp nên ảnh hƣởng
đến quy mô tích luỹ. Trên thực tế cơ chế trả lƣơng của các doanh nghiệp tƣ
nhân nƣớc ta linh hoạt, hiệu quả hơn so với khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc
và kinh tế tập thể. Thông thƣờng mức thu nhập của ngƣời lao động trong các
đơn vị kinh tế tƣ nhân là cao hơn so với doanh nghiệp nhà nƣớc và kinh tế tập
thể.
1.2.2. Quá trình đổi mới quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước
về kinh tế nhiều thành phần và kinh tế tư nhân
Trong thời kỳ khôi phục kinh tế (1954 -1959), quan điểm kinh tế nhiều
thành phần đã đƣợc Đảng ta phát triển và vận dụng trong điều kiện thực tế ở

17
nƣớc ta. Nhờ kiên trì thực hiện quan điểm phát triển kinh tế nhiều thành phần
nên trong thời kỳ này các nguồn lực, trí tuệ trong nhân dân đã đƣợc huy động
vào việc phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Đến năm 1959, chúng ta chủ trƣơng chuyển sang kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp, kinh tế tƣ nhân không đƣợc thừa nhận và trở thành đối
tƣợng cần đƣợc cải tạo, xoá bỏ. Thực hiện chủ trƣơng cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với công thƣơng nghiệp tƣ bản tƣ doanh ở Miền Bắc, khu vực kinh tế tƣ
nhân đƣợc chuyển dần sang hình thức doanh nghiệp công tƣ hợp doanh hoặc

các hợp tác xã. Các phƣơng pháp này tiếp tục đƣợc áp dụng ở Miền Nam sau
khi đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất.
Đến cuối những năm 1970, trƣớc tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội,
tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung Ƣơng khoá IV (tháng 9 -1979)
đã chủ trƣơng cho sản xuất bung ra và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng năm 1982 tiếp
tục khẳng định chủ trƣơng trên và thừa nhận ở Miền Nam vẫn còn năm thành
phần kinh tế. Tuy vậy, thời kỳ này, khu vực kinh tế tƣ nhân vẫn chỉ đƣợc coi
là tồn tại tạm thời, giữ vai trò thứ yếu trong nền kinh tế và bổ trợ cho kinh tế
quốc doanh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 -1986) đánh dấu bƣớc
quan trọng trong việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nƣớc ta,
Đại hội đã khẳng định sự tồn tại lâu dài của kinh tế tƣ nhân. Tuy vậy, kinh tế
tƣ nhân chỉ đƣợc tồn tại trong lĩnh vực sản xuất, còn trong lĩnh vực lƣu thông
chúng ta vẫn chƣa cho phép tƣ nhân tham gia.
Nghị quyết 16 của Bộ chính trị và Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành
Trung ƣơng Đảng khoá VI, tiếp tục khẳng định đƣờng lối đổi mới của Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đã bổ sung, cụ thể hoá một bƣớc quan trọng,

18
đồng thời khẳng định “kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lƣợc lâu dài,
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế tƣ nhân đƣợc
phát triển không hạn chế về địa bàn, quy mô, các ngành nghề mà pháp luật
không cấm”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tiếp tục thực hiện đƣờng lối đổi
mới đƣợc khởi xƣớng từ Đại hội VI và khẳng định “Nhà nƣớc thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không
đƣợc tƣớc đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá, không áp đặt hình
thức kinh doanh, khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi cho
quốc kế dân sinh”.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới, Hội nghị lần thứ hai
Ban Chấp hành TW khoá VII năm 1992 đã đƣa ra một số chủ trƣơng, biện
pháp lớn để phát huy tiềm năng của kinh tế tƣ nhân, cá thể với những nội
dung
cơ bản sau:
- Bổ sung, sửa đổi thể chế nhằm đảm bảo cho kinh tế tƣ nhân đƣợc phát
huy không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà
pháp luật không cấm; đƣợc tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên
doanh với nƣớc ngoài theo luật định.
- Xoá bỏ những cấm đoán, ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà gây
khó khăn cho việc phát triển sản xuất - kinh doanh của nhân dân.
- Cải cách bộ máy quản lý Nhà nƣớc từ Trung ƣơng đến điạ phƣơng để
thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc đối với tất cả các thành phần kinh tế.

19
- Khuyến khích thành lập các tổ chức kinh tế - xã hội của các doanh
nghiệp tƣ nhân và cá thể, làm ngƣời đại diện cho các thành viên trong việc đối
nội, đối ngoại và làm cầu nối giữa doanh nghiệp với Nhà nƣớc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng năm 1996 khẳng định
vai trò quan trọng của kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta và nhấn mạnh “ Khuyến
khích kinh tế tƣ bản tƣ nhân đầu tƣ sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài, bảo hộ
quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp” [8].
Hội nghị lần thứ tƣ Ban chấp hành Trung ƣơng khoá VIII, tháng 12
năm 1997 khẳng định: “Tiếp tục cụ thể hóa chủ trƣơng nhất quán xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần” và “Khuyến khích phát triển, quản lý tốt kinh tế
tƣ bản tƣ nhân”, đồng thời chủ trƣơng “phát triển các hình thức hợp tác, liên
doanh, liên kết giữa các thành phần kinh tế. Nhà nƣớc chủ động đầu tƣ và gọi
vốn của các thành phần kinh tế…Nghiên cứu thí điểm việc Nhà nƣớc góp vốn
mua cổ phần của các công ty tƣ nhân, doanh nghiệp nhà nƣớc thuê doanh
nhân tƣ nhân làm quản lý doanh nghiệp”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng năm 2001 tiếp tục
khẳng định chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, bổ sung thành
phần kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và sắp xếp các thành phần kinh tế theo
thứ tự phù hợp hơn, coi trọng phát triển kinh tế tƣ nhân trong nƣớc, chú trọng
hơn đến vấn đề phát huy nội lực của nền kinh tế. Đại hội đã khẳng định:
“Đảng ta chủ trƣơng thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh” [9].
Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng là quá trình nhận thức ngày
càng đầy đủ, đúng đắn hơn về kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế nhiều thành

20
phần ở nƣớc ta. Những quan điểm đó đã đƣợc cụ thể hoá trong Hiến pháp
1992, Luật doanh nghiệp tƣ nhân 1990, Luật công ty năm 1990, Luật khuyến
khích đầu tƣ trong nƣớc năm 1994, Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật doanh
nghiệp năm 1999… Chính phủ đã ban hành các văn bản quan trọng nhƣ Nghị
định 27/ HĐBT năm 1998 quy định về chính sách đối với kinh tế tƣ nhân, cá
thể; Nghị định 66/HĐBT năm 1992 đối với các cơ sở kinh doanh dƣới vốn
pháp định…
Các quan điểm, chính sách phát triển kinh tế tƣ nhân trong đƣờng lối
phát triển kinh tế nhiều thành phần ngày càng phù hợp với điều kiện thực tế
của Việt Nam. Những đóng góp của kinh tế tƣ nhân ngày càng đƣợc xã hội
thừa nhận và đánh giá cao. Điều đó càng khẳng định vai trò, vị trí của khu vực
kinh tế này trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nƣớc ta.
1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta
Tình hình phát triển kinh tế tƣ nhân ở nƣớc ta trong những năm qua
đƣợc khái quát nhƣ sau: Gần 20 năm qua, thực hiện đƣờng lối, chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nƣớc, đƣợc sự đồng tình, hƣởng ứng tích cực của nhân
dân, kinh tế tƣ nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tƣ bản tƣ nhân,

hoạt động dƣới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp
tƣ nhân đã phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nƣớc đóng góp quan trọng
vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh
doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nƣ-
ớc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội [10].
Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế tƣ nhân
đã góp phần giải phóng lực lƣợng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã
hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lƣợng

21
nhân công, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện chủ trƣơng xã hội
hoá y tế, giáo dục, văn hoá…
* Về tình hình phát triển của các hộ kinh doanh cá thể
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2000 cả nƣớc có 9.793.878
hộ kinh doanh cá thể, giải quyết việc làm cho 20.122.422 lao động. Trong đó
có 2.137.713 hộ kinh doanh phi nông nghiệp, chiếm 21,83%; số hộ kinh danh
nông nghiệp là 7.656.165 hộ, chiếm 78,17% [2].
- Về tình hình hộ kinh doanh phi nông nghiệp
Năm 2000 có 2.137.713 hộ kinh doanh cá thể, so với năm 1996 tốc độ
tăng là 4,47% số hộ/năm, bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 30 nghìn hộ.
Theo số liệu của Tổng cục Thuế: Năm 1990 có khoảng 36 vạn hộ, đến năm
1991, sau khi có Luật doanh nghiệp tƣ nhân và Luật công ty, số hộ cá thể tăng lên
gần 50 vạn hộ, đến cuối năm 1992 là hơn 70 vạn hộ. Đến năm 2000, số kinh
doanh có môn bài là 1,5 triệu hộ, trong đó có khoảng 1,2 – 1,3 triệu hộ nộp thuế
thƣờng xuyên, số còn lại không nộp thuế thƣờng xuyên hoặc đƣợc miễn thuế [2].
Trong tổng số hộ kinh doanh phi nông nghiệp, số hộ kinh doanh thƣơng
mại, dịch vụ có số lƣợng nhiều nhất, chiếm 51,89%, số hộ kinh doanh trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp chiếm 30,21%; số hộ kinh doanh trong lĩnh vực
xây dựng chiếm 0,81%; lĩnh vực giao thông vận tải chiếm 11,63%, số hộ còn

lại kinh doanh các ngành nghề khác.
Về quy mô của hộ kinh doanh cá thể nhìn chung rất nhỏ, vốn ít, sử
dụng lao động trong gia đình là chính. Bình quân mỗi hộ có 1,78 lao động, số
vốn bình quân sử dụng vào sản xuất kinh doanh của mỗi hộ ƣớc đạt 29,78
triệu đồng. Số hộ sản xuất kinh doanh có quy mô nhỏ tập trung chủ yếu ở các
vùng nông thôn, miền núi. Tuy nhiên theo khảo sát ở cơ sở, số lao động thực
tế lớn hơn số liệu thống kê từ 20% - 30%, thậm chí có nhiều cơ sở hoạt động

22
dƣới hình thức hộ kinh doanh cá thể thuê đến hàng chục, hàng trăm lao động
với số vốn hàng trăm triệu đồng. Số này tập trung chủ yếu ở các thị xã, thành
phố, các trung tâm lớn [2].
Địa phƣơng có số hộ kinh doanh cá thể nhiều nhất là thành phố Hồ Chí
Minh, khoảng 185.000 hộ; tiếp đến là Hà Tây, khoảng 97.280 hộ; Thanh Hoá,
khoảng 96.777 hộ; Đồng Tháp 95.049 hộ; thành phố Hà Nội 92.302 hộ [2].
- Về tình hình hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp
Nếu nhƣ trƣớc đây số hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp tham gia các
hợp tác xã nông nghiệp là chủ yếu, thì hiện nay số hộ kinh doanh ngoài Hợp
tác xã là 7.656.165 hộ, chiếm 62,7% tổng số hộ sản xuất kinh doanh nông
nghiệp. Trong số đó hộ kinh doanh nông nghiệp chiếm 89,2%, số hộ kinh
doanh lâm nghiệp chiếm 0,5%, hộ kinh doanh ngƣ nghiệp chiếm 4,6%, số còn
lại là các ngành nghề khác [2].
Cùng với quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, quá trình tích luỹ
vốn của kinh tế tƣ nhân ngày một lớn. Những năm qua, mô hình kinh tế trang
trại ở nƣớc ta đã đƣợc phục hồi, phát triển khá nhanh. Theo số liệu của Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tính đến năm 2000, cả nƣớc đã có
khoảng 55.852 trang trại; năm 2001 (tháng 10/2001) có 61.017 trang trại, tăng
15.209 trang trại so với năm 1999 và bằng 3,54 lần so với năm 1995. Trong
đó có 48,3% trang trại trồng cây hàng năm, 20,4% trang trại trồng cây lâu
năm; có 2,9% trang trại chăn nuôi, 3,5% trang trại lâm nghiệp, 20,8% trang

trại nuôi trồng thuỷ sản, 4,1% trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp [2].
Nhìn chung kinh tế hộ cá thể trong nông nghiệp quy mô nhỏ, sử dụng ít
lao động, vốn và mặt bằng sản xuất kinh doanh, canh tác nhỏ. Bình quân vốn
đầu tƣ của các hộ nông nghiệp năm 2000 ƣớc tính khoảng 1,4 triệu đồng/1 hộ,
riêng bộ phận kinh tế trang trại có quy mô lớn hơn. Tính trung bình, năm

×