Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 102 trang )




1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



ĐỖ VĂN THUẬN



PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HÀ NỘI
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN
THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Dũng





Hà Nội- năm 2007





2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ



ĐỖ VĂN THUẬN



PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở HÀ NỘI
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN
THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Dũng






Hà Nội- năm 2007


3


MỤC LỤC
Trang
Mục lục……………………………………………………… 1
Phần mở đầu 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu 5
3. Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu của đề tài 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 7
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn 7
7. Kết cấu của luận văn 7
Chương 1: Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội
nhập quốc tế: khía cạnh lý luận và kinh nghiệm quốc tế 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tổ chức của kinh tế tư nhân 8
1.1.1 Khái niệm kinh tế tư nhân 8
1.1.2. Những đặc điểm của kinh tế tư nhân 10
1.1.3. Các loại hình tổ chức của kinh tế tư nhân 14
1.1.3.1. Theo quy mô tổ chức sản xuất và hình thức góp vốn có thể
phân loại kinh tế tư nhân thành các loại hình sau: 15
1.1.3.2. Theo ngành và lĩnh vực kinh doanh 15
1.2. Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế 15
1.2.1. Đặc điểm của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời đại ngày nay 15
1.2.2. Vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế 21
1.2.3. Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến phát triển
kinh tế tư nhân 29
1.2.4. Những thời cơ và thách thức của kinh tế tư nhân Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 36
1.2.4.1 Thời cơ: 36
1.2.4.2 Thách thức 37
1.3 Kinh nghiệm của một số nước trong việc sử dụng kinh tế tư nhân


4


thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế 39
1.3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc sử dụng kinh tế tư nhân
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế 39
1.3.2 Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc sử dụng kinh tế tư nhân
thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế 43
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 49
2.1 Khái quát và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
từ năm 1986 đến nay 49
2.2. Những kết quả của phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội
dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế 56
2.2.1. Sự phát triển về số lượng, quy mô trong các loại hình
kinh tế tư nhân 57
2.2.2. Cơ cấu ngành nghề kinh doanh của kinh tế tư nhân ở Hà Nội 59
2.2.3. Những đóng góp của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển
kinh tế-xã hội của Thủ đô Hà Nội 61
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân 68

2.3.1. Những hạn chế của kinh tế tư nhân ở Hà Nội 68
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế 72
Chương 3: Định hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế
tư nhân ở Hà Nội trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc 75
3.1. Triển vọng và quan điểm định hướng phát triển
kinh tế tư nhân ở Hà Nội 75
3.1.1. Bối cảnh mới 75
3.1.2 Những cam kết của Việt Nam khi tham gia Tổ chức thương mại
thế giới WTO và những vấn đề đặt ra với kinh tế tư nhân Hà Nội 78
3.1.2.1 Những cam kết của Việt Nam 78
3.1.2.2 Những vấn đề đặt ra với kinh tế tư nhân Hà Nội 83
3.2. Quan điểm định định hướng phát triển kinh tế tư nhân Hà Nội 87
3.2.1 Phát triển kinh tế tư nhân phải dựa trên sức mạnh của chính
khu vực kinh tế này 87
3.2.2 Sự hỗ trợ của nhà nước cho kinh tế tư nhân là cần thiết nhưng


5


phải phù hợp với những cam kết quốc tế 88
3.2.3 Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội phải đặt trong mối quan hệ
hữu cơ với các thành phần kinh tế khác và các địa phương khác 89
3.3 Các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong
thời gian tới 89
3.3.1. Hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động hợp tác kinh tế với nước ngoài… 90
3.3.2 Tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho
kinh tế tư nhân phát triển 90
3.3.3- Phát triển nguồn lao động cho kinh tế tư nhân 90

3.3.4- Hỗ trợ kinh tế tư nhân nâng cao khả năng cạnh tranh
với các doanh nghiệp nước ngoài 91
3.3.5. Mở rộng các hình thức liên kết trong sản xuất và kinh doanh
của kinh tế tư nhân 93
3.3.6- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành uỷ, nâng cao hiệu lực quản lý
nhà nước của UBND thành phố Hà Nội đối với các hoạt động của
kinh tế tư nhân …………93
Kết luận 96
Danh mục tài liệu tham khảo 98
















6


PHẦN MỞ ĐẦU


1- Tính cấp thiết của đề tài
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần do Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng đã tạo cho kinh tế tư nhân có điều
kiện và cơ sở phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Cùng với các thành phần
kinh tế khác, kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng sức sản xuất của toàn xã
hội, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn, tăng trưởng kinh tế nhanh.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội
lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong những năm qua, cùng với cả nước kinh tế tư nhân ở Hà Nội đã
được khôi phục và phát triển nhanh chóng, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng
và phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô ở mức cao theo hướng bền vững. Trong 3
năm (2001-2003) bình quân GDP của Thủ đô tăng 10,7%; giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 20,7%; giá trị các ngành dịch vụ tăng 9,6%; đời sống vật chất và
tinh thần của nhân đân Thủ đô không ngừng được cải thiện. Hệ thống chính trị
dược củng cố, an ninh quốc phòng được giữ vững đã tạo điều kiện xây dựng
Thủ đô Hà Nội theo hướng văn minh hiện đại. Vị thế của Thủ đô trong quan hệ
quốc tế ngày càng được nâng cao.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Hà Nội đã huy động, khai thác và sử
dụng ở mức đáng kể các nguồn lực của xã hội vào sản xuất-kinh doanh, tạo
thêm nhiều việc làm mới, phát huy nội lực nhằm tạo nên sức mạnh cho kinh tế
Thủ đô, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm
nghèo và giảm được các tệ nạn xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dich cơ
cấu kinh tế của Thủ đô, tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương Hà Nội…
Như vậy phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế-xã hội của cả nước nói chung và ở Thủ đô Hà Nội
nói riêng.
Là trung tâm đầu não chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước và có vị trí

địa lý thuận lợi trung tâm đồng bằng sông Hồng, tiếp giáp với 5 tỉnh: Bắc Ninh,
Thái Nguyên, Hà Tây, Hưng yên, Vĩnh Phúc nên so với các địa phương khác


7


Hà Nội có vị trí địa lý hết sức thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và kinh
tế tư nhân nói riêng. Mặc dù diện tích chỉ có 921 km2 (chiếm khoảng 0,28%
diện tích cả nước) nhưng Hà Nội lại là đầu mối giao thông quan trọng về đường
bộ, đường thuỷ, đường hàng không rất thuận lợi cho vận chuyển lưu thông giữa
các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, cả nước và trong giao lưu quốc tế. Do có vị trí địa
lý, kinh tế, chính trị và hệ thống giao thông thuận nên Hà Nội đã, đang và sẽ là
đầu mối lớn về xuất, nhập khẩu, phát luồng bán buôn hàng hoá đi các tỉnh đồng
bằng Bắc bộ và trong cả nước. Đồng thời đây sẽ là thị trường tiêu thụ vật tư,
nguyên liệu và hàng hoá tiêu dùng và phục vụ sản xuất và đời sống của dân cư
trong địa bàn. Cùng với số lượng dân cư tương đối lớn (3,145 triệu người bằng
3,78% dân số cả nước và mật độ dân số là 3415 người/1km
2
) so với các địa
phương khác, hàng năm Hà Nội có lưu lượng người qua lại rất đông thì nhu cầu
về các loại sản phẩm phục vụ cho hoạt động của các cơ quan, doanh nghiệp,
khách du lịch cũng hết sức đa dạng, phong phú, từ sản phẩm hàng hoá bình dân
đến những sản phẩm hàng hoá cao cấp. Mặt khác Hà Nội là Thủ đô của cả nước
nên kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội được nhà nước quan tâm đầu tư hơn so với
các địa phương khác về hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống chợ,
cửa hàng kho bãi và các cơ sở hạ tầng khác. Những điều kiện thuận lợi đó tạo
cơ hội và có khả năng cho kinh tế tư nhân ở Hà Nội phát triển mạnh mẽ và đặc
biệt là lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đang trong tiến trình hội nhập quốc

tế mạnh mẽ thì phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội đang gặp nhiều khăn khó
như: thiếu vốn, công nghệ và cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, chất lượng nguồn
lao động và khả năng cạnh tranh chưa cao… Bên cạnh đó, những khó khăn
vướng mắc về cơ chế, chính sách cộng với nền hành chính còn lạc hậu làm cho
kinh tế tư nhân ở Hà Nội chưa phát huy được thế mạnh của mình trong quá
trình phát triển và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, “Phát triển kinh
tế tư nhân ở Hà Nội trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” là một vấn đề
cấp bách cần được nghiên cứu, nhằm phát huy vai trò tích cực của kinh tế tư
nhân ở Hà Nội phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế của Thủ đô.
2- Tình hình nghiên cứu
Kinh tế tư nhân hiện nay là thành phần kinh tế có nhiều tiềm năng và có
những đóng góp to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, ở Việt Nam và


8


trên thế giới, vấn đề này rất được quan tâm. Đến nay, đã có nhiều công trình
khoa học và những bài viết về kinh tế tư nhân ở Hà Nội dưới những góc độ
khác nhau như:
- Thương mại tư nhân ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp phát triển của
PGS.TS Hoàng Đức Thân, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 3-2003.
- “Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta
hiện nay” của GS.TS Hồ Văn Vĩnh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội,
2002.
- Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.Luận văn Thạc sĩ-
Nguyễn Minh Thảo-Khoa kinh tế -Đại học Quốc gia Hà Nội. 2003.
- Kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong tiến trình đổi mới. Luận văn Thạc sĩ-
Nguyễn Hải Đăng -Khoa kinh tế -Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội-2004.

- Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân-Lý luận và chính
sách, Nxb Chính trị Quốc gia. PGS. TS. Hà Huy Thành chủ biên. Hà Nội –
2002.
- Vị thế của kinh tế tư nhân- Thời báo kinh tế Việt nam ngày 02/8/2005.
- “Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh” của
TS Phan Ngọc Trung, Tạp chí Lý luận chính trị, tháng 12/2004.
- “ Quan điểm của Đảng ta về kinh tế tư nhân” của Đặng Hiêú, Tạp chí
Cộng sản, năm 2006.
Các công trình trên đây đã nghiên cứu kinh tế tư nhân và kinh tế tư nhân
ở Hà Nội dưới những góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, trong bối
cảnh mới của hội nhập kinh tế quốc tế, những nghiên cứu đó là chưa đủ.
3- Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu của đề tài
+ Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân ở Hà Nội
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, luận văn đề xuất phương hướng và các
giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong thời gian tới.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ khái niệm, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.


9


- Phân tích làm rõ thực trạng của kinh tế tư nhân ở Hà Nội, chỉ ra những
thành công và hạn chế của quá trình này.
- Đề xuất những phương hướng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh
tế tư nhân ở Hà Nội trong thời gian tới.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu kinh tế tư nhân ở Hà Nội với tư cách là một thành

phần kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế chung của nền kinh tế.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến 2005.
- Phạm vi nghiên cứu: Trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những phương pháp cụ thể là: trừu tuợng
hóa khoa học, lô gích và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, đối chiếu
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
-Phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội trong bối cảnh
hội nhập kinh tế thời gian qua nhằm tìm ra những thành tựu, hạn chế và những
nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu để phát triển kinh
tế tư nhân trong thời gian tới.
7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 3 chương.
Chƣơng 1: Kinh tế tƣ nhân trong nền kinh tế thị trƣờng mở cửa, hội
nhập quốc tế: khía cạnh lý luận và kinh nghiệm quốc tế.
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển kinh tế tƣ nhân ở Hà Nội trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 3: Định hƣớng và các giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế tƣ
nhân ở Hà Nội trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.




10



CHƢƠNG 1:
KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
MỞ CỬA HỘI NHẬP QUỐC TẾ: KHÍA CẠNH
LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tổ chức của kinh tế tư
nhân
1.1.1. Khái niệm kinh tế tƣ nhân
Kinh tế tư nhân ra đời là một tất yếu của sự phát triển lịch sử, gắn với sự
phát triển của sản xuất hàng hoá. Khi nhu cầu con người gia tăng thì nó thúc
đẩy quá trình trao đổi, phân công lao động, hình thành thị trường Cũng như
mọi sự vật, kinh tế tư nhân cũng có quá trình hình thành và phát triển. Xét về
góc độ lịch sử, sự nhìn nhận về kinh tế tư nhân cũng có sự khác nhau ở từng
thời kỳ. Cụ thể:
Thời kỳ đầu tiên, khi sản xuất hàng hoá ra đời thì kinh tế tư nhân phát
triển mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội. Vốn sở dĩ
kinh tế tư nhân là gắn với quyền sở hữu tư nhân, cá nhân, riêng lẻ, độc lập thì
việc phát triển tự phát của kinh tế tư nhân ở giai đoạn này là rất nhanh, với
nhiều loại hình kinh doanh, sản xuất, buôn bán rất đa dạng và phong phú. Lúc
này trong nền kinh tế với quy mô sản xuất nhỏ, thì sự tồn tại của kinh tế tư
nhân là chiếm tỷ trọng lớn nhất, quyết định mọi nhu cầu trong một quốc gia.
Giai đoạn xã hội ở chế độ xã hội phong kiến với sự thống trị của tầng lớp
vua, chúa, quan lại phong kiến, với cơ chế ban phát - cống nạp thì quan hệ
buôn bán trong xã hội dường như bị ngăn cấm, bài xích. Kinh tế tư nhân với
đặc trưng nội tại của nó (sở hữu tư nhân) nhằm đạt tới lợi nhuận tối đa, dưới cơ
chế này thì nó bị kiểm soát, hạn chế phát triển. Trong nền kinh tế ở giai đoạn
này tính ưu thế của kinh tế tư nhân không còn như giai đoạn trước, tính kế
hoạch mệnh lệnh được đề cao do tư liệu sản xuất trong xã hội tập trung vào một
số ít người thuộc tầng lớp thống trị.

Giai đoạn xã hội TBCN với cơ chế thị trường, quy luật cung cầu thì quan
hệ buôn bán, trao đổi trên thị trường được thúc đẩy khuyến khích phát triển với


11


sự thuận lợi về mặt pháp lý. Kinh tế tư nhân ở thời kỳ này phát triển mạnh mẽ
cả về số lượng, quy mô lẫn loại hình. Kinh tế tư nhân được đánh giá cao và
được coi là động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, đóng góp lớn cho nền kinh tế.
Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoach hoá tập trung-hành chính-bao cấp,
kinh tế tư nhân không được chấp nhận và khong có điều kiện phát triển
Trong cơ chế thị trường thì mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế
tư nhân ở từng quốc gia đều có cơ hội phát triển và được thừa nhận về mặt
pháp lý, được khuyến khích phát triển. Kinh tế tư nhân tiếp tục được phát triển
và đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về kinh tế tư nhân.
Nếu chia sở hữu ra hai loại hình là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân thì nền
kinh tế có hai bộ phận cấu thành là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh
tế tư nhân.
Sở hữu Nhà nước được hiểu là hình thức sở hữu mà nhà nước là người
đại diện cho nhân dân nắm giữ các tư liệu sản xuất, còn sở hữu tư nhân là sở
hữu cá nhân của người sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Theo cách
phân chia này thì khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
Nếu quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: khu vực quốc doanh, ngoài
quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy theo cách
phân loại này thì kinh tế tư nhân gồm loại hình doanh nghiệp hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp 2000, các hộ kinh doanh cá thể, người sản xuất nhỏ.
Theo quan niệm này thì thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế tư

bản tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ .Kinh tế tư nhân bao gồm nhữngcơ sở
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng
lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh.
Kinh tế cá thể là khu vùc kinh tế dựa trên sở hữu nhỏ về tư liêu sản xuất
và lao động của bản thân và gia đình. Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế
tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập chủ yếu dựa vào sức lao
động vốn có của bản thân và gia đình. Khu vùc kinh tế này cũng giữ một vị trí


12


quan trọng trong nhiều ngành nghề. Có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả
về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình.
Như vậy, ở Việt Nam có 3 quan điểm về kinh tế tư nhân:
- Quan niệm thứ nhất: kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Theo quan niệm này, kinh tế tư nhân bao gồm
kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân và các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Quan niệm thứ hai: Nền kinh tế gồm ba khu vực: khu vực quốc doanh,
ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, theo
quan niệm này, kinh tế tư nhân gồm loại hình doanh nghiệp hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp 2000, các hộ kinh doanh cá thể, người sản xuất nhỏ.
- Quan niệm của Đảng CSVN: Đại hội Đảng toàn quốc lần X của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định, trong năm thành phần kinh tế thì kinh tế cá
thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là thuộc về kinh tế tư nhân. Kinh tế tư
nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
1.1.2 Những đặc điểm của kinh tế tƣ nhân
Thứ nhất: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục

đích hàng đầu là lợi nhuận.
Trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hay kinh tế
tập thể, mục tiêu lợi nhuận với họ không phải là hàng đầu và ngoài ra còn có
một số doanh nghiệp trong lĩnh vực công cộng hoạt động vì mục tiêu phi lợi
nhuận. Trong khi đó kinh tế tư nhân luôn coi mục tiêu sinh lời đặt lên vi trí
hàng đầu, nếu không sinh lời thì đồng nghĩa với việc phá sản. Chính vì vậy,
thước đo về mức độ sinh lời cũng phản ánh được sự phát triển lớn mạnh của
khu vực kinh tế này. Đương nhiên để sinh lời thì kinh tế tư nhân phải nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải luôn đổi mới công nghệ và quản lý… Điều
đó làm cho kinh tế tư nhân luôn năng động, linh hoạt và là động lực phát triển
cho nền kinh tế.
Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động kinh doanh nhằm mục đích
lợi nhuận là hàng đầu, chính vì vậy đây là đặc điểm khác biệt so với một số
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.


13


Thứ hai: Kinh tế tư nhân có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hoá tổ
chức sản xuất.
Với đặc điểm hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
nên kinh tế tư nhân luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hoá tổ
chức sản xuất, cũng chính vì lẽ đó mà kinh tế tư nhân tồn tại với quy mô rất đa
dạng, từ các công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đây cũng là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các
doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thường có quy mô khá lớn, rất ít các
doanh nghiệp quy mô nhỏ. Lý do tồn tại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô
lớn ở một số nước bởi lẽ, một số doanh nghiệp cung cấp hàng hoá công cộng
hoặc vì một lý do nào đó mà doanh nghiệp đó được tồn tại độc quyền nên quy

mô lớn mới hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp quy mô lớn
thuộc sở hữu nhà nước thường mở rộng quy mô không vì sự tối ưu hoá sản xuất
mà vì động cơ muốn mở rộng doanh nghiệp để có thêm các đặc quyền và uy
lực của người lãnh đạo. Điều này khác với kinh tế tư nhân, quy mô sản xuất có
thể mở rộng hoặc thu hẹp để đạt mục tiêu tối ưu hoá sản xuất. Cũng chính vì
khả năng lựa chọn quy mô sản xuất hợp lý mà các doanh nghiệp thuộc khu vực
tư nhân sử dụng lao động một cách hiệu quả. Các chủ doanh nghiệp tư nhân
thường căn cứ vào yêu cầu thực sự của công việc để tuyển chọn người và căn
cứ vào năng lực đóng góp của người lao động để có cơ chế trả công hợp lý,
khuyến khích được người lao động và đào tạo được một đội ngũ doanh nhân và
công nhân kỹ thuật lành nghề cho nền kinh tế. Đồng thời chủ doanh nghiệp
cũng có thể sa thải những lao động yếu kém, không hiệu quả. Đây cũng là điểm
khác biệt với cơ chế trả công một cách bình quân chủ nghĩa trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước và đó là một vật cản lớn cho tính hiệu quả của
các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh tế có tính năng động và linh
hoạt cao trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Kinh tế tư nhân ra đời cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá,
nó phát triển một cách tự nhiên và đây là điểm khác biệt với các doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước hay sở hữu tập thể, các doanh nghiệp này thường được


14


ra đời với sự nỗ lực nhân tạo của Nhà nước và tập thể, tiếp theo là hàng loạt các
ưu đãi để chúng tồn tại và phát triển.
Sức sống của nền kinh tế tư nhân thể hiện ở tính năng động và linh hoạt.
Với một ý tưởng kinh doanh khả thi sẽ có thể tức thì được hiện thực hoá một
cách nhanh chóng ở các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc khu vực tư nhân.

Quá trình ra quyết định nhanh chóng và gọn nhẹ đó chỉ có được ở các tổ chức
kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Cũng vì sự ra đời là khách quan và tính
năng động, linh hoạt cao nên kinh tế tư nhân có khả năng tồn tại và thích ứng
với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của nền kinh tế. Thực tế cho thấy trong
thời gian dài, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây kinh tế tư nhân vẫn tồn tại
ở những loại hình và mức độ khác nhau trong một số lĩnh vực cho dù nó bị Nhà
nước cấm đoán và phong toả ở mọi phương diện. Thực tế cũng cho thấy khi các
chính sách cấm đoán ở các quốc gia này được nới lỏng đôi chút thì kinh tế tư
nhân hồi sinh và phát triển mạnh mẽ như “ nấm sau mưa”. Trong thời kỳ trước
đổi mới, khu vực tư nhân ở Việt Nam vẫn tồn tại xét ở góc độ khu vực tư nhân
phi chính thức. Sau đổi mới kinh tế, khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ mặc
dù không nhận được sự ưu ái của Nhà nước. Các chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ
yêu cầu được đối xử công bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác
chứ họ không yêu cầu sự ưu ái của Nhà nước đối với họ. Điều này minh chứng
rõ tính năng động và linh hoạt của kinh tế tư nhân trong bất kỳ hoàn cảnh kinh
tế nào.
Thứ tư: Kinh tế tư nhân hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng tài sản.
Vì kinh tế tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
cho nên sự tồn tại dưới hình thức là các loại hình doanh nghiệp hay hộ gia đình,
người sản xuất nhỏ thì về bản chất nó vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Người chủ sở
hữu có quyền quyết định hoàn toàn mọi quá trình sản xuất kinh doanh và
đương nhiên các quyết định đó đi liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính
họ. Nguyên tắc hoạt động của kinh tế tư nhân là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ
trong kinh doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ chế để gắn kết kết quả hoạt động (lợi
ích) với năng lực hoạt động của chính các chủ doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư


15



nhân hoạt động bởi chính vốn liếng của mình (cho dù là vốn vay) nên mọi
quyết định phải được cân nhắc kỹ lưỡng và mang lại hiệu quả, tức phải sinh lời,
phải làm cho hoạt động kinh doanh luôn phát triển, đồng vốn phải không ngừng
lớn lên. Điều này khác biệt với các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước hay nhà
quản lý trong kinh tế tập thể, họ hoạt động không dựa trên vốn hay không hoàn
toàn trên đồng vốn của chính mình mà đó là vốn liếng của Nhà nước, của tập
thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản trong các đơn vị kinh tế này không
có sự thống nhất, chính vì vậy mà trách nhiệm và quyền lợi thường không đi
liền với nhau, do đó các quyết định của họ sẽ có thể không phản ánh sự thận
trọng, kỹ lưỡng và tính hiệu quả. Mục đích lãnh đạo của họ có thể không chỉ là
làm cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận mà là các mục đích chính trị
khác như thăng tiến ở một chức vụ quản lý khác cao hơn.
Trên đây là các đặc điểm rõ nét nhất về khu vực kinh tế tư nhân ở các
nước khi so sánh với khu vực kinh tế công cộng và đây cũng là những ưu thế
của kinh tế tư nhân so với kinh tế công cộng trong tính hiệu quả của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên kinh tế tư nhân cũng có mặt trái của nó mà
chính vì lẽ đó, sự tồn tại khu vực kinh tế công cộng ở mọi quốc gia là khách
quan và cần thiết bởi vai trò của chúng trong việc cung cấp hàng hoá công cộng
và một số hàng hoá - dịch vụ khác mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu
quả xét về khía cạnh hiệu quả xã hội.
Đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi như ở Việt Nam
nói chung và ở Thủ đô Hà Nội nói riêng, khu vực kinh tế tư nhân còn có một số
đặc điểm sau:
+ Kinh tế tư nhân được hình thành từ nhiều con đường khác nhau, ngoài
hình thức tự phát triển, thành lập mới các doanh nghiệp tư nhân thì còn một con
đường khác là chuyển đổi sở hữu, tư nhân hoá các xí nghiệp do Nhà nước sở
hữu.
+ Quy mô của khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển còn
nhỏ bé, chiếm tỷ trọng không lớn trong GDP, trình độ công nghệ lạc hậu và

thiếu kỹ năng quản trị và kinh nghiệm kinh doanh…


16


+ Đa phần các doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển có quy
mô vừa và nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và năng lực cạnh tranh
yếu kém. Đây cũng là đặc điểm chung của nền kinh tế các nước đang phát
triển, số các doanh nghiệp tư nhân ở các nước này có quy mô lớn là rất ít.
1.1.3-Các loại hình tổ chức của kinh tế tƣ nhân
1.1.3.1-Theo quy mô tổ chức sản xuất và hình thức góp vốn có thể phân
loại kinh tế tư nhân thành các loại hình sau:
- Kinh tế cá thể.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế tư nhân của một hộ gia đình hay một
cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên sở hữu tư nhân nhỏ về vốn và các
điều kiện kinh doanh với việc sử dụng sức lao động của chính hộ đó hay cá
nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ.
Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều
hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao
động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ
hơn của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động theo
Luật doanh nghiệp của Việt Nam và chúng bao gồm các loại hình doanh nghiệp
sau:
+Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh

nghiệp.
+Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
+Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông góp vốn chỉ chịu trách


17


nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp.
+Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó ít nhất hai thành viên hợp
danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên
hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
1.1.3.2- Theo ngành và lĩnh vực kinh doanh
-Kinh tế tư nhân trong ngành nông nghiệp.
-Kinh tế tư nhân trong ngành công nghiệp - xây dựng
-Kinh tế tư nhân trong ngành thương mại - dịch vụ.
1.2- Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập
kinh tế quốc tế
1.2.1. Đặc điểm của quan hệ kinh tế quốc tế trong thời đại ngày nay
- Quan hệ kinh tế quốc tế mang tính khu vực và mang tính toàn cầu.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, nó bắt nguồn từ sự phát triển cao của lực lượng
sản xuất và phân công lao động quốc tế của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ biểu hiện ra là tiến trình tự do hoá kinh tế, di chuyển nguồn nhân lực và

mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật Cùng với
nó là sự xuất hiện những vấn đề mang tính toàn cầu làm cho các quốc gia dân
tộc ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và cuộc đấu tranh cho một trật tự
thế giới mới bình đẳng, hoà bình, hợp tác, cùng phát triển đang diễn ra mạnh
mẽ trên quy mô rộng lớn.
Toàn cầu hoá đã trở thành một thực tế. Đây là quá trình mang tính khách
quan thể hiện xu thế tất yếu của thời đại. Việc hội nhập kinh tế quốc tế là hệ
quả của quá trình toàn cầu hoá gắn liền với sự phát triển của thị trường, đòi hỏi
mở rộng thị trường là rất quan trọng đối với các nước công nghiệp. Trong quá
trình phát triển của mình, nền kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới là xu
thế tất yếu có lợi cho định hướng phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.


18


Bởi chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới có cơ hội mở rộng thị trường
xuất khẩu hàng hoá, tăng trưởng kinh tế, tiếp nhận công nghệ và thị trường vốn
để phát triển. Việc Việt Nam chủ động hội nhập là để có bước chuẩn bị trước
nhằm nhanh chóng thích ứng hoà nhập, không bị tụt hậu với thế giới. Hội nhập
kinh tế quốc tế là một đòi hỏi tất yếu, bức thiết của đất nước chúng ta cần nhận
rõ lợi thế và thách thức để chủ động hội nhập là điều hết sức cần thiết, có vậy
chúng ta mới đẩy nhanh quá trình hội nhập với quy mô rộng hơn, trình độ cao
hơn.
Trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới từ lâu, nhưng
vẫn ở trình độ thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế Việt Nam tham gia vào
AFTA, ASEAN, WTO nhưng sự tham gia đó vẫn dừng ở phạm vi hẹp, nhỏ cả
về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô
hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng
định phải “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” [tr112] với quy
mô rộng hơn và trình độ cao hơn.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được
thế đứng mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử
không công bằng. Hiện nay Tổ chức thương mại thế giới WTO đã thao túng tới
95% kim ngạch buôn bán thế giới, nếu chúng ta còn đứng ngoài tổ chức này,
thì tất nhiên sẽ rất yếu thế trong giao thương.
Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất
nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Rõ ràng, hội
nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh tế nước ta. Thời
cơ đang đến, yêu cầu của chính bản thân đòi hỏi, không còn sự lựa chọn ưu việt
nào hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để vẫn hội nhập phát
triển mà vẫn bảo toàn trọn vẹn độc lập tự chủ, vẫn hội nhập mà không đánh mất


19


truyền thống, hội nhập mà an ninh trật tự xã hội được bảo đảm, hội nhập mà xã
hội lành mạnh và phát triển.
Tuy vậy, trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vẫn còn
những nhân tố hạn chế. Nhiều ngành, cấp và doanh nghiệp còn chưa nhận thức
đầy đủ, những cơ hội và thách thức của tiến trình hội nhập này cũng chưa thực
sự nắm vững để có kế hoạch chủ động nắm bắt thời cơ đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa còn ít hiểu biết về lộ trình và các yêu cầu của hội nhập. Đa

số vẫn trông chờ ở sự bảo hộ của Nhà nước. Hệ thống pháp luật, chính sách
quản lý nền kinh tế thị trường không đồng bộ, còn thay đổi, chưa phù hợp
thông lệ quốc tế, do đó chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chính sách điều chỉnh
cơ cấu kinh tế thiếu đồng bộ nhất quán và chưa phù hợp với điều kiện toàn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhìn
chung còn yếu chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh. Thêm vào đó năng lực đội ngũ cán bộ
làm công tác hội nhập còn yếu việc chỉ đạo và thực hiện quá trình hội nhập còn
bất cập; chưa có một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả giai
đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vực cụ thể.
- Vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
Toàn cầu hoá kinh tế trong thời đại ngày nay có xu thế đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng
nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
có đấu tranh. Đảng ta khẳng định, dù còn nhiều diễn biến phức tạp trong quá
trình hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, nhưng xu thế hòa bình, ổn định và
hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược
phát triển của từng quốc gia hiện nay. Đặc biệt, liên kết kinh tế, toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế tháo dỡ dần các rào cản để mở rộng thương mại, thu
hút đầu tư nước ngoài đã và đang trở thành xu thế nổi bật.Toàn cầu hoá là một
quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn vừa chứa đựng cả thời cơ và thách thức đối
với các quốc gia trong đó các nước đang phát triển, chậm phát triển như Việt
Nam phải chịu nhiều thách thức gay gắt hơn cả. Toàn cầu hoá có tác dụng nhất
định trong việc thúc đẩy xu thế hoà bình hợp tác để phát triển, tháo dỡ các rào


20


cản đối với tự do thương mại làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhanh

chóng .Toàn cầu hoá tạo môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt buộc các
nước phải có tư duy năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động
có hiệu quả.Toàn cầu hoá và cách mạng thông tin tạo điều kiện thuận lợi để
các dân tộc tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hoá khoa học của loài
người.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang tác động đến tất cả các quốc gia, trong
bối cảnh cùng tồn tại các quan hệ giữa các quốc gia có các chế độ xã hội khác
nhau, trong bối cảnh cùng nhau hợp sức chống lại nhiều vấn đề toàn cầu, hợp
tác trở thành một xu thế tất yếu vì những lợi ích chung của mỗi quốcgia và vì
lợi ích chung của toàn nhân loại trong quan hệ quốc tế hiện nay, Trong thời đại
ngày nay, mỗi quốc gia là một chủ thể trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các
quốc gia dù là các quốc gia XHCN, các nước TBCN với nhau là quan hệ giữa
các nhà nước có chủ quyền để hợp tác, cùng tồn tại, các nước có chế độ chính
trị xã hội khác nhau cần tìm được tiếng nói chung theo những nguyên tắc được
Liên hiệp quốc thừa nhận: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bình đẳng
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong quan hệ các nước phải
lấy nguyên tắc giải quyết các bất đồng bằng thương lượng, tránh áp đặt, tôn
trọng đối tác, nhấn mạnh điểm đồng khắc phục bất đồng, lấy nguyên tắc hợp
tác làm trọng. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, hợp tác và đấu tranh luôn là hai
mặt cùng tồn tại, đây là một tất yếu khách quan. Nó đòi hỏi phải nhận thức
đúng và có sự kết hợp hài hoà khi xem xét đến các quyền lợi của mỗi quốc gia
và cả cộng đồng.Tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn đến những
đổ vỡ trong quan hệ giữa các quốc gia cũng như mỗi quốc gia với cộng đồng
quốc tế. Trong quá trình xem xét, phải xuất phát từ nguyên tắc hợp tác để đấu
tranh và đấu tranh để hợp tác chặt chẽ hơn bền vững hơn gắn với bối cảnh lịch
sử cụ thể trong từng thời điểm của quan hệ quốc tế.
Nắm bắt xu thế khách quan và tác động của toàn cầu hóa, vượt lên trên
tất cả mọi thử thách, nguy cơ, Đảng cộng sản Việt Nam, đứng vững trên nền
tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
xã hội chủ nghĩa, đã tỉnh táo phân tích, đánh giá tình hình thế giới, vạch ra



21


đường lối đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn, đem lại nhiều thành
tựu quan trọng, góp phần tạo nên thế và lực mới, đưa đất nước vững bước tiến
vào thế kỷ XXI. Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 75 lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, không bao giờ theo đuổi đường lối biệt lập mà luôn coi việc kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối chiến lược của mình. Từ khi
mới ra đời trong Cương lĩnh và hoạt động thực tiễn của Đảng ta đã thể hiện
điều đó và vào những năm 40 của thế kỷ trước Bác Hồ cũng đã nói rõ đường
lối đối ngoại rộng mở của Việt Nam nhằm tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế để khôi
phục kinh tế, phát triển đất nước sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp kết
thúc. Nước ta đã tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước XHCN
(SEV) vào năm 1978; tích cực tham gia phong trào không liên kết, nhóm G77,
Liên hợp quốc mà một trong những nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật
tự kinh tế thế giới công bằng. Bên cạnh mối quan hệ với các nước trong cộng
đồng XHCN, vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nước ta đã ra sức thúc đẩy
các hoạt động nhằm thiết lập quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các
nước TBCN, mặc dù lúc đó các thế lực thù địch vẫn thực hiện chính sách bao
vây về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta.
Bước vào thời kỳ đổi mới, nhận thức rõ ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với
phát triển kinh tế, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay. Đảng ta đã
quán triệt ngày càng rõ hơn về sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại và hội nhập kinh tế quốc tế, nên đã đề ra những chủ trương đúng đắn
để chỉ đạo hoạt động thực tiễn đem lại nhiều thành tựu khả quan.
Qua 20 năm đổi mới vừa qua cho thấy những gì nước ta đã đạt được là
kết quả của việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của

Đảng ta, trong đó có chủ trương phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển
nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Những gì thực hiện, đã giành được cũng chứng minh rằng, Đảng ta, Nhà
nước ta và nhân dân ta có đủ bản lĩnh và khả năng khai thác, phát huy những gì
là lợi thế của hội nhập quốc tế, đồng thời đối phó thành công với nhiều loại
thách thức phức tạp. Thực tế vừa qua về cả hai mặt “được” và “chưa được” đều


22


là những kinh nghiệm, bài học bổ ích giúp chúng ta mạnh dạn phát triển lên
tầm cao mới của việc phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển
nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để thực hiện thắng lợi
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo con đường rút ngắn và từng bước
phát triển kinh tế tri thức, đưa đất nước đạt tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thay đổi nhanh chóng.
Một đặc điểm vô cùng quan trong trong quan hệ quốc tế hiện nay giữa
các nước có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế quốc tế đó là sự thay đổi
nhanh chóng trong các quan hệ về chính trị, kinh tế, điều này xuất phát từ một
số nguyên nhân chủ yếu sau:
+ Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ thông
tin phát triển nhảy vọt thúc đẩy sự hình thành kinh tế tri thức và làm biến đổi
sâu sắc các lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội. Sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng
quan trọng.Trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định tương lai
phát triển của các nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, các lợi thế so
sánh quốc tế, của các quốc gia không ngừng biến đổi .Chu trình luân chuyển,
thay đổi công nghệ và sản phẩm ngày càng được rút ngắn, đòi hỏi các quốc gia
cũng như các doanh nghiệp phải điều chỉnh rất nhanh để thích ứng. Xu thế này

đòi hỏi các quốc gia phải điều chỉnh chính sách phát triển ở từng giai đoạn và
từng thời điểm cho phù hợp.
+ Mặt khác trong giai đoạn hiện nay tiềm ẩn những nguy cơ về chạy đua
vũ trang, chủ nghĩa cực đoan cùng với nạn khủng bố xảy ra khắp nơi trên thế
giới cộng với việc các nước lớn đang sử dụng những tiềm lực về kinh tế, quân
sự nhằm duy trì một trật tự thế giới có lợi cho mình thì điều này ảnh hưởng trực
tiếp đến quan hệ giữa các quốc gia và các nền kinh tế một cách mạnh mẽ. Các
quan hệ quốc tế và đặc biệt là các quan hệ kinh tế quốc tế thay đổi một cách
nhanh chóng phụ thuộc vào các quan hệ về chính trị giữa các quốc gia. Từ đặc
điểm này đòi hỏi các quốc gia phải làm thế nào phải ổn định an ninh chính trị,
độc lập tự chủ thì mới có khả năng và điều kiện để phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế.


23


1.2.2. Vị trí, vai trò của kinh tế tƣ nhân trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế
Kinh tế tư nhân - một trong những động lực của nền kinh tế nước ta hiện
nay, tại Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ X của Đảng xác định nước ta có 5
thành phần kinh tế và các thành phần đó “đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”, trong đó kinh tế
tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) "có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế" [tr 83]. Vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân
được thể hiện ở những nội chủ yếu sau:
- Huy động, phân bổ và sử dụng một cách tối ưu mọi nguồn lực
trong xã hội vào sản xuất kinh doanh.
Thứ nhất: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế có quy mô vừa và nhỏ,

hoạt động đa dạng trong nhiều lĩnh vực, đây chính là đặc điểm làm cho kinh tế
tư nhân luôn năng động, linh hoạt trong việc huy động các nguồn lực xã hội
vào sản xuất kinh doanh.
Thứ hai: Kinh tế tư nhân hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng tài sản, dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, nếu hoạt động kinh doanh không có lợi nhuận thì đồng nghĩa với sự phá
sản, điều này bắt buộc kinh tế tư nhân phải phân bổ và sử dụng một cách tối ưu
các nguồn lực sản xuất.
Bảng 1.1: Vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Tổng số
Chia ra
Kinh tế Nhà nước
Kinh tế ngoài
Nhà nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
2000
151183
89417
34594
27172
2001
170496
101973
38512
30011
2002
199105

112238
52112
34755
2003
231616
125128
68688
37800
2004
275000
147500
84900
42600


24


2005
335000
175000
107500
52500
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2005[33,tr.81 ]
Bảng 1.2: Cơ cấu vốn đầu tư theo giá thực tế
phân theo thành phần kinh tế
Năm
Tổng số %
Chia ra
Kinh tế Nhà nước

Kinh tế ngoài
Nhà nước
Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài
2000
100,0
59,1
22,9
18,0
2001
100,0
59,8
22,6
17,6
2002
100,0
56,3
26,2
17,5
2003
100,0
54,0
29,7
16,3
2004
100,0
53,6
30,9
15,5
2005

100,0
52,2
32,1
15,7
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2005[33,tr.81 ]
Với số liệu ở bảng 1.1 và 1.2 ta thấy khả năng huy động vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh của kinh tế ngoài nhà nước trong đó phần lớn là kinh tế tư
nhân trong thời gian từ năm 2000 đến hết năm 2005 là có xu hướng và tốc độ
phát triển cao hơn so với các thành phần kinh tế khác như kinh tế nhà nước và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như đầu năm 2000 vốn đầu tư của kinh
tế ngoài nhà nước chiếm 22,9% thì đến hết năm 2005 vốn đầu tư của thành
phần kinh tế này là 32,1% chiếm khoản 1/3 tổng số vốn đầu tư của cả nền kinh
tế.
Như vậy việc huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực xã hội vào sản
xuất kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng đáp ứng tiềm lực về vốn
trong hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế nói chung và của kinh tế tư nhân
nói riêng.
- Kinh tế tư nhân có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hoá tổ chức
sản xuất.
Với đặc điểm hoạt động trong mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên kinh
tế tư nhân luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hoá tổ chức sản
xuất theo quan hệ cung, cầu của thị trường, cũng chính vì lẽ đó mà kinh tế tư


25


nhân tồn tại với quy mô rất đa dạng. Đối với kinh tế tư nhân, quy mô sản xuất
có thể mở rộng hoặc thu hẹp để đạt mục tiêu tối ưu hoá sản xuất một cách rất
năng động và sử dụng lao động một cách hiệu quả.

Bảng 1.3: Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại
thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
Đơn vị: DN
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
Tổng số
42288
51680
62908
72012
91755
Phân theo thành phần kinh tế





-Kinh tế Nhà nước
5759
5355
5363
4845
4596
-Kinh tế ngoài Nhà nước
35004
44314

55237
64526
84003
-Tập thể
3237
3646
4104
4150
5349
-Tư nhân
20548
22777
24794
25653
29980
-Công ty hợp danh
4
5
24
18
21
-Công ty TNHH
10458
16291
23485
30164
40918
-CTCP có vốn Nhà nước
305
470

558
669
815
-CTCP không có vốn Nhà nước
452
1125
2272
3872
6920
-Khu vực có vốn ĐTNN
1525
2011
2308
2641
3156
Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2005[33,tr.115 ]
Qua số liệu ở bảng 1.3 ta thấy số lượng và tû träng các doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng giảm. Ngược lại nếu không coi
công ty cổ phần có vốn của nhà nước thuộc về kinh tế tư nhân thì kinh tế tư
nhân tại thời điểm năm 2000 có 31.767 doanh nghiệp chiếm 75,12% thì đến hết
năm 2004 đã là 78.654 doanh nghiệp chiếm 85,72%, trong 5 năm số doanh
nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài nhà nước đã tăng 46.887 doanh nghiệp
và về cơ cấu tăng 10,06% .
Có thể nói rằng với quy mô đa dạng và hợp lý cùng với khả năng tối ưu
hoá tổ chức sản xuất, kinh tế tư nhân có thể hỗ trợ kinh tế nhà nước đáp ứng
kịp thời các nhu cầu phát sinh của thị trường trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của nền kinh tế như công nghiệp phụ trợ, dịch vụ
- Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm, tăng
thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo và giảm các tệ nạn trong xã hội.

×