Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ và bài học cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 149 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




LÊ VÂN ANH







PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU
Á
VỚI IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ












Hà Nội - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




LÊ VÂN ANH





PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU
Á
VỚI IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VÕ TRÍ THÀNH





Hà Nội - 2007



MỤC LỤC

Trang

Mở đầu
1
CHƢƠNG 1: KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA IMF
6
1.1 Khủng hoảng tài chính - tiền tệ
6
1.1.1 Nhận dạng bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ
6
1.1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản
11
1.1.2.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất
11

1.1.2.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
12
1.1.2.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
12
1.2 Vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế và đối với
khủng hoảng tài chính - tiền tệ
16
1.2.1 Vài nét về IMF
16
1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
17
1.2.1.2 Nguồn vốn của IMF
20
1.2.1.3 Cơ cấu tổ chức
21
1.2.1.4 Sự khác biệt giữa Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế
giới
22
1.2.2 Vai trò của IMF
22
1.2.2.1 Tư vấn chính sách và giám sát kinh tế vĩ mô
23
1.2.2.2 Trợ giúp tài chính
25
1.2.2.3 Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo
28
Kết luận chƣơng 1
31
CHƢƠNG 2: PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH GIỮA CÁC CHÍNH PHỦ CHÂU Á VỚI
IMF TRONG VIỆC KHẮC PHỤC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 1997-

1998
32
2.1 Khái quát về khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998
vµ chÝnh s¸ch cña IMF trong viÖc kh¾c phôc khñng ho¶ng
32


2.1.1 Kh¸i qu¸t vÒ cuéc khñng ho¶ng
32
2.1.1.1 Bèi c¶nh kinh tÕ c¸c n-íc ch©u ¸ tr-íc khñng ho¶ng
32
2.1.1.2 Những dấu hiệu trước khi khủng hoảng xảy ra
35
2.1.1.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng
47
2.1.1.4 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng
50
2.1.2 Quan điểm của IMF và các chính sách hỗ trợ
57
2.1.2.1 Quan điểm, nhận định của IMF về cuộc khủng hoảng
57
2.1.2.2 Nội dung các chính sách hỗ trợ của IMF
59
2.2 Chính sách khắc phục khủng hoảng của các chính phủ
châu á trên cơ sở hỗ trợ của IMF
62
2.2.1 Huy động vốn hỗ trợ trong và ngoài nước
62
2.2.2 Cải thiện hệ thống tài chính quốc gia
63

2.3 Đánh giá kết quả phối hợp chính sách giữa các chính phủ
châu á với IMF trong vấn đề khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ
65
2.3.1 Đánh giá hiệu quả của chính sách
65
2.3.1.1 Sự khác biệt về các mức kết quả trong việc khắc phục
khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước Đông á
65
2.3.1.2 Phê phán chính sách hỗ trợ của IMF
69
2.3.2 Đánh giá vai trò của sự phối hợp chính sách giữa các chính
phủ châu á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng
74
Kết luận chƣơng 2
79
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGĂN NGỪA VÀ XỬ LÝ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA
VIỆT NAM
80
3.1 Hội nhập kinh tế quốc tế và những nguy cơ khủng hoảng tài
chính - tiền tệ ở Việt Nam
80
3.1.1 Tiến trình mở cửa, tự do hoá tài chính và hội nhập tài chính quốc
tế của Việt Nam từ năm 1986 đến nay
80


3.1.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
86

3.1.2.1 Nguy cơ từ bên trong
86
3.1.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài
106
3.2 Vận dụng bài học kinh nghiệm của các nƣớc châu á trong việc
ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam
110
3.2.1 Ngăn ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ
111
3.2.1.1 Duy trì nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc
111
3.2.1.2 Điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt
theo nguyên tắc thị trường
112
3.2.1.3 Chủ động xây dựng và cải cách hệ thống tài chính quốc gia
113
3.2.1.4 Thực hiện tự do hoá tài chính theo lộ trình thận trọng
120
3.2.2 Phương thức xử lý khi nền kinh tế diễn ra khủng hoảng tài chính -
tiền tệ
121
3.2.2.1 Tăng cường vai trò của nhà nước
121
3.2.2.2 Xây dựng lộ trình cải cách cơ cấu mạnh mẽ
122
3.2.3 Tăng cường phối hợp với IMF và các tổ chức tài chính quốc tế
trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng
123
Kết luận
127

Danh mục tài liệu tham khảo
129
Phụ lục
134




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt
Tiếng Việt
Tiếng Anh
ADB
Ngân hàng Phát triển Châu á
Asian Development Bank
ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
Asian South East Association
Nations
BIS
Ngân hàng thanh toán quốc tế
Bank of International
Settlement
BOP
Cán cân thanh toán quốc tế
Balance of Payment
CA
Cán cân vãng lai/ Tài khoản vãng
lai

Current Account
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

DNNN
Doanh nghiệp nhà nước

FED
Cục Dự trữ Liên bang Mĩ

FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Foreign Direct Investment
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
Gross Domestic Product
ICOR
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP/ tốc
độ tăng GDP
Incremental Capital - Output
Ratio
IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế
International Monetary Fund
IMFC
Uỷ ban Tài chính và Tiền tệ
Quốc tế
International Monetary and
Financial Commission
NHNN

Ngân hàng nhà nước

NHTM
Ngân hàng thương mại

NHTW
Ngân hàng Trung ương

NSNN
Ngân sách nhà nước

ODA
Viện trợ phát triển chính thức
Official Development Aids
ROA
Lợi nhuận trên tổng tài sản bình
quân
Return on Asset
ROE
Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình
quân
Return on Equity
SDR
Quyền rút vốn đặc biệt
Special Drawing Rights
TCTD
Tổ chức tín dụng

TTCK
Thị trường chứng khoán


TTTC
Thị trường tài chính

TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán

UBCKNN
Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

WB
Ngân hàng Thế giới
World Bank
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
World Trade Organization




DANH MỤC BẢNG BIỂU
2.1
Cán cân vãng lai của một số nước châu á
35
2.2
Hệ số ICOR của một số nước châu á, 1987-1996
37
2.3
Độ mở của một số nền kinh tế châu á
39

2.4
Tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân
42
2.5
Tỷ lệ những khoản vay không sinh lời (NPLs)
42
2.6
Cơ cấu nợ nước ngoài của một số nước châu á tháng 6/1997
44
2.7
Tỷ lệ M2 so với dự trữ ngoại hối của các nước Đông á
46
2.8
Đóng góp của dòng vốn FDI tài trợ cho thâm hụt tài khoản
vãng lai
46
2.9
Cam kết của IMF và cộng đồng quốc tế hỗ trợ tài chính cho
một số nước châu á bị khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-
1998
59
3.1
Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản của Việt Nam
86
3.2
Cơ cấu sử dụng GDP theo giá thực tế
88
3.3
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế
89

3.4
Thu, chi và bội chi Ngân sách nhà nước, 2001-2005
90
3.5
Các chỉ số về nợ nước ngoài của Việt Nam, 2001-2006
97
3.6
Tổng phương tiện thanh toán giai đoạn 2001-2006
97
3.7
Cơ cấu tín dụng cho vay và tốc độ tăng trưởng tín dụng
trong nước giai đoạn 2001-2006
99




DANH MỤC HỘP
1.1
Mục đích của IMF
18


DANH MỤC HÌNH
1.1
Cơ chế phát sinh khủng hoảng tài khoản vốn
15
1.2
Số lượng thành viên IMF, 1945 - 2005
19

1.3
Trợ giúp kỹ thuật theo khu vực (năm tài khoá 2001)
30
2.1
Tỷ lệ nợ ngắn hạn so với tổng nợ nước ngoài và tỷ lệ nợ ngắn
hạn so với dự trữ ngoại tệ của một số nước châu á vào cuối
năm 1996
45
3.1
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
87
3.2
Cán cân vãng lai và cán cân vốn của Việt Nam, 2001-2006
92
3.3
Lượng kiều hối qua các năm
92
3.4
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam, 2002-2006
93
3.5
Độ sâu tài chính của Việt Nam
96




1
MỞ ĐẦU


1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại
những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn
những nguy cơ khủng hoảng. Sự thay đổi của các thị trường tài chính cùng với
mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước và những điều kiện bên
trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng. Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) là một trong những tổ chức tài chính quốc tế lớn đã có những
đối sách, chương trình điều chỉnh cơ cấu được coi là phương thuốc “điều trị”
hay “cẩm nang” cho các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên những
chính sách, chương trình hỗ trợ này của IMF khi thực thi ở mỗi nước, có nước
làm theo, có những nước chỉ làm một phần, thậm chí đi ngược lại và được thể
hiện trong sự khác biệt giữa các mức kết quả. Trong bối cảnh ấy, việc xem xét
lại khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF, xem xét lại bản thân tính
thích hợp của chính sách ấy cả về lý luận và thực tiễn, cách xử lý những bất
đồng trong hoạch định chính sách cũng như cách thức phối hợp thực thi chính
sách giữa các chính phủ Châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ là rất có ý nghĩa.
Sau 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có
bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện. Với thế và lực mới, trên con
đường phát triển của mình, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào
hệ thống kinh tế quốc tế. Đi cùng với quá trình này, Việt Nam cũng có thể
phải đối mặt với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính do quá trình tự do hoá
thương mại và tự do cán cân thanh toán quốc tế đem lại. Trên cơ sở phân tích
khái quát những dấu hiệu, diễn biến, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ châu Á (1997-1998), đề tài tập trung đánh giá sự phối hợp
chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng
hoảng, qua đó rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý
khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Mặc dù khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa




2
xảy ra ở Việt Nam, song nghiên cứu những vấn đề của quốc tế lại có ý nghĩa
hết sức thiết thực trong việc phòng ngừa khủng hoảng, đặc biệt những bất ổn
và rủi ro tài chính vẫn còn tiềm ẩn trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu rộng vào sân chơi quốc tế. Xuất phát từ lý do đó, học viên chọn đề
tài “Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF
trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ và bài học
cho Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và các chính sách hỗ trợ của
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm
của các nhà nghiên cứu trong nhiều năm nay. Liên quan đến chủ đề này, có
một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, tiêu biểu như sau:
Các công trình nghiên cứu trong nước:
- Võ Tá Hân, Trần Quốc Hùng, Vũ Quang Việt (2000), Châu Á từ
khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB TP. HCM. Thông qua nhiều bài viết,
nhóm tác giả đã phân tích cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á dưới
nhiều góc cạnh khác nhau trước, trong và sau khủng hoảng, từ kinh nghiệm
cải cách của các các nước đến dự báo những vấn đề mới nảy sinh cho các
nước châu Á trong thế kỷ 21.
- Võ Trí Thành (chủ biên) (2004), Thị trường tài chính Việt Nam: thực
trạng, vấn đề và giải pháp chính sách, NXB Tài chính. Nhóm tác giả đã đưa
ra một bức tranh tương đối khái quát những vấn đề lý luận về thị trường tài
chính, kinh nghiệm quốc tế cũng như thực trạng và các vấn đề cần xử lý của
thị trường tài chính Việt Nam.
- Nguyễn Thiện Nhân (2002), Khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á
1997-1999: Nguyên nhân, hậu quả và bài học với Việt Nam, NXB ĐHQG
TP.HCM. Trên cơ sở xây dựng phương pháp tiếp cận, mô hình các nguy cơ
và cơ chế phát sinh khủng hoảng, tác giả đã phân tích cụ thể quá trình hình

thành, các nguy cơ khủng hoảng và diễn biến của khủng hoảng tài chính - tiền
tệ ở bốn nước châu Á điển hình là Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn



3
Quốc, qua đó rút ra những nhận xét về đặc điểm và nguyên nhân sâu xa của
cuộc khủng hoảng, đồng thời đề xuất những bài học đối với quản lý kinh tế ở
Việt Nam.
- GS.TS. Hồ Xuân Phương, TS. Vũ Đình Ánh (2003), Giải pháp phòng
ngừa khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam, NXB Tài chính. Trên cơ sở
phân loại, hệ thống hoá các quan điểm về khủng hoảng tài chính - tiền tệ,
cuốn sách tập trung phân tích, đánh giá hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam
hiện nay nhằm làm rõ những nguyên nhân có thể gây ra khủng hoảng, từ đó
đề xuất xây dựng hệ thống giải pháp khả thi có tác dụng phòng ngừa khủng
hoảng cho Việt Nam trong tương lai.
Một số công trình của các học giả nước ngoài:
- G.Corsetti, P.Pesenti, N.Roubini (1998), “What caused the Asian
currency and financial crisis?”
- Nhiều tác giả (2007), Ten Years after the Asian Financial Crisis:
Vulnerabilities of East Asisa, Bangkok Conference, 26-27 February 2007.
- M. Yoshitomi, Sayuri Shirai (7 July 2000), “Technical background
paper for policy recommendation for preventing another capital account
crisis”, ADB Institute.
- IMF Vietnam Country Report No. 06/421 (November 2006).
Các công trình trên đây mặc dù có đề cập và phân tích nhiều vấn đề khác
nhau của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á và chính sách hỗ trợ của
IMF. Tuy nhiên, xoay quanh vấn đề này vẫn còn một số câu hỏi chưa có câu
trả lời thoả đáng như: Liệu những chính sách của IMF nhằm khắc phục khủng
hoảng có thật sự là phương thuốc chung cho mọi quốc gia? Sự phối hợp thực

thi chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục
khủng hoảng tài chính - tiền tệ ra sao? Và bài học nào được rút ra cho Việt
Nam, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam hội nhập sâu rộng vào các tổ chức
quốc tế khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu:



4
Trên cơ sở khái quát hoá những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng
tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế nói
chung và đối với khủng hoảng tài chính - tiền tệ nói riêng, đề tài đánh giá sự
phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục
khủng hoảng tài chính - tiền tệ để từ đó rút ra bài học cho Việt Nam trong quá
trình phát triển, đặc biệt là trong quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập
kinh tế quốc tế.
 Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung vào một số nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về khủng hoảng tài chính -
tiền tệ và vai trò của IMF trong hệ thống tài chính quốc tế và đối với
các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
- Phân tích quan điểm và chính sách hỗ trợ của IMF nhằm khắc phục
khủng hoảng, các chính sách khắc khục khủng hoảng của một số
chính phủ châu Á và đánh giá kết quả phối hợp chính sách giữa các
chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài
chính - tiền tệ.
- Rút ra bài học cho Việt Nam trong việc ngăn ngừa và xử lý khủng
hoảng tài chính - tiền tệ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự phối hợp chính sách giữa các
chính phủ châu Á với IMF trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền
tệ 1997-1998.
- Phạm vi nghiên cứu:
Dưới góc độ Kinh tế chính trị, luận văn giới hạn trong việc nghiên cứu
về sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á (tập trung vào 4 nước
Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc) với IMF trong cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ giai đoạn 1997-1998. Đây là những nước đều ở khu
vực châu Á, đã từng xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong quá trình mở



5
cửa, tự do hoá thương mại, tự do hoá tài chính và tự do cán cân thanh toán
quốc tế, đều được IMF hỗ trợ khi có khủng hoảng, nhưng lựa chọn chính
sách, phản ứng chính sách và kết cục của khủng hoảng lại không giống nhau.
Trên cơ sở đó, đề tài rút ra bài học về việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng
tài chính - tiền tệ trong quá trình Việt Nam mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp cơ bản của Kinh tế Chính trị là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Những phương pháp cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phương
pháp phân tích tổng hợp, hệ thống; phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử;
phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp thống kê học để xử lý số liệu
và phương pháp nghiên cứu so sánh kết hợp với phương pháp nghiên cứu dự
báo được đặc biệt chú ý khi làm rõ những vấn đề cụ thể của Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Ngoài việc hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về các mô hình

khủng hoảng tài chính và làm rõ vai trò của IMF đối với hệ thống tài chính
quốc tế nói chung cũng như khủng hoảng tài chính - tiền tệ nói riêng, luận văn
có những đóng góp mới như sau:
- Đánh giá sự phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF
trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
- Rút ra một số bài học và định hướng vận dụng cho Việt Nam trong
việc ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được trình bày trong 3 chương:
 Chương 1: Khủng hoảng tài chính - tiền tệ và vai trò của IMF
 Chương 2: Phối hợp chính sách giữa các chính phủ châu Á với IMF
trong việc khắc phục khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998
 Chương 3: Một số bài học về ngăn ngừa và xử lý khủng hoảng tài
chính - tiền tệ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam



6
CHƢƠNG 1
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ VÀ VAI TRÒ CỦA IMF

1.1 KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.1.1 Nhận dạng bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), khủng hoảng tài chính tại các nước
tiền công nghiệp thường do chiến tranh, thiên tai hay sự mất giá của đồng
tiền gây ra. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngân hàng và thị trường
chứng khoán trong thế kỷ XIX, tính ổn định của hệ thống tài chính phụ thuộc
vào sự lành mạnh của các định chế tài chính. Các khoản cho vay có quy mô
lớn hơn, phức tạp và dài hạn hơn làm tăng mức độ rủi ro và do đó dễ dẫn tới

khủng hoảng tài chính khi các định chế tài chính mất khả năng thanh toán.
Tiến trình phát triển của thế giới đã từng chứng kiến nhiều cuộc khủng
hoảng ngân hàng và tỷ giá. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng điển hình của thế
giới tư bản là cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 đã phá huỷ hệ thống ngân
hàng Mỹ và làm phá sản hàng loạt ngân hàng châu Âu; cuộc khủng hoảng
đồng Sterling và Franc những năm 1960; sự đổ vỡ của hệ thống Bretton
Woods đầu thập niên 1970 và cuộc khủng hoảng nợ những năm 1980. Thời
kỳ trước nữa cũng xuất hiện những cuộc khủng hoảng tài chính, đặc biệt là
khủng hoảng ngân hàng. Hai ví dụ đáng ghi nhận là cuộc khủng hoảng ngân
hàng Barings năm 1890 và cuộc khủng hoảng tỷ giá (1894-1896) ở Mỹ được
xem như một đòn nặng nề giáng vào uy lực bản vị vàng của nước này và là
một ví dụ cho tính hiệu quả của việc vay nợ nhà nước từ các nguồn dự trữ
quốc gia để chặn đứng khủng hoảng tiền tệ. Rõ ràng, trong việc đối phó với
các cuộc khủng hoảng khác nhau, các thể chế tài chính hiện đại và những
biện pháp chức năng cho vay như giải pháp cứu cánh cuối cùng của các
Ngân hàng Trung ương, bảo hiểm tiền gửi, các tiêu chuẩn điều tiết thận
trọng, và các thoả thuận tài chính quốc tế, đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), đã được thiết lập và phát triển.



7
Trong vòng 20 năm gần đây đã xảy ra hơn 90 cuộc khủng hoảng ngân
hàng nghiêm trọng mà tổn thất của mỗi cuộc khủng hoảng tính trên GDP còn
vượt quá tổn thất của sự đổ vỡ ngân hàng Mỹ trong những năm 30 của thế kỷ
XX. Mặc dù có những điểm giống nhau, nhưng các cuộc khủng hoảng những
năm vừa qua khác với các cuộc khủng hoảng trước đây ở những khía cạnh
quan trọng. Đặc biệt, những tác động quá mức và khả năng lây lan của
khủng hoảng dường như rất lớn và vượt quá khả năng kiểm soát. Theo các
nhà phân tích, khủng hoảng tài chính - tiền tệ những năm gần đây còn sâu

sắc hơn nhiều các cuộc khủng hoảng thập kỷ 70 - 80 của thế kỷ XX, thể hiện
trên các mặt:
- Quy mô lớn hơn nhiều (tính theo giá năm 2000, quy mô GDP toàn
cầu năm 1970 tăng gấp 7,4 lần so với năm 1900, năm 2000 tăng gấp 2,5 lần
so với năm 1970, trong đó hoạt động tài chính - tiền tệ phát triển với tốc độ
như vũ bão
1
);
- Tốc độ lan truyền nhanh hơn (những năm đầu thế kỷ XX, giao dịch
tài chính ngân hàng trong phạm vi một thành phố cũng phải mất tới 3 ngày,
đến nay có thể thực hiện trong “chớp mắt” và hàng loạt giao dịch cùng một
lúc trên phạm vi toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin);
- Xảy ra thường xuất phát từ sai lầm của khu vực tư nhân nhiều hơn do
lỗi chi tiêu của Chính phủ (do khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về
số lượng và quy mô, nhiều tập đoàn kinh tế có quy mô lớn gấp nhiều lần
GDP của một quốc gia, bên cạnh đó, tự do hoá và toàn cầu hoá cho phép khu
vực tư nhân dễ dàng vượt qua sự kiểm soát của Chính phủ hơn);
- Khó dự đoán trước hơn. Dự báo kinh tế - tài chính vốn đã khó lại
càng khó hơn do các biến số ngày càng đa dạng về số lượng và phức tạp về
tính chất, đến mức nhiều người coi dự báo là một nghệ thuật hơn là một khoa
học.


1
Năm 2000, trao đổi ngoại tệ toàn cầu lên tới gần 2000 tỷ USD, gấp 1000 lần năm 1973; tổng tài sản tài
chính trao đổi trên thị trường thế giới lên tới 83.000 tỷ USD, tương đương 170% GDP toàn cầu; hàng ngày,
lượng tiền luân chuyển trên thị trường tài chính gấp 30 lần tổng giá trị hàng hoá lưu chuyển.




8
Tóm lại, khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền
với sự ra đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường, khủng hoảng tài chính là hiện tượng xảy ra
trong hoạt động của các định chế tài chính (chủ yếu là các trung gian tài
chính), bắt nguồn từ sự yếu kém của các định chế này và tác động trực tiếp
đến hoạt động của chúng với tư cách là một chủ thể vừa độc lập, vừa có liên
quan chặt chẽ với toàn bộ hệ thống. Biểu hiện rõ rệt nhất của khủng hoảng
tài chính - tiền tệ từ trước đến nay là sự phá sản của các định chế trung gian
tài chính và cùng với sự phát triển ngày càng phức tạp và tinh vi của các
công cụ tài chính, thì khủng hoảng càng dễ xảy ra, tính chất khủng hoảng
ngày càng phức tạp và nguy cơ khủng hoảng lan rộng ngày càng cao. Vậy
bản chất khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong thời đại hiện nay là gì?
Trước hết tài chính được hiểu theo nghĩa rộng là sự luân chuyển
luồng (dòng) vốn (tiền và giống như tiền); là tập hợp các quỹ tiền (và giống
như tiền) cùng với các mối quan hệ giữa chúng. Tiền (money, currency) bao
gồm cả nội tệ (domestic currency) và ngoại tệ (foreign currency) với 3 chức
năng chủ yếu là thước đo giá trị, phương tiện thanh toán và phương tiện cất
trữ. Giống như tiền (semi-money) được hiểu là những vật có đầy đủ 3 chức
năng chủ yếu của tiền, đồng thời có khả năng chuyển thành tiền dễ dàng (tức
là có tính thanh khoản nhất định), chẳng hạn vàng, kim loại hiếm, đá quý,
giấy tờ có giá ngắn hạn (trong chừng mực nhất định có thể gồm cả giấy tờ có
giá trung và dài hạn). Không thuộc phạm trù này là những vật không có đầy
đủ 3 chức năng chủ yếu của tiền tệ, hay có tính thanh khoản thấp như đất đai,
nguyên nhiên vật liệu cho các ngành công nghiệp và nông nghiệp, v.v…
Vậy khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) là gì? Khủng hoảng tài
chính là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến
sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ (fund) cấu thành nên hệ thống tài chính
là các dòng tiền vào/ ra (input/output), nhận/ thanh toán (receipt/payments),
hình thành tài sản có (assets)/ tài sản nợ (liabilities). Khi xảy ra hiện tượng




9
mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải thanh toán về số
lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính. Như
vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho
mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với
nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại
một thời điểm nào đó. Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của
khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền
kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.
Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù:
- Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis): là tình trạng ngân hàng
trên thực tế hoặc có khả năng đổ vỡ, hay các vụ phá sản buộc các ngân hàng
phải hoãn các khoản thanh toán thuộc trách nhiệm của mình, hoặc ngân hàng
ở trong tình trạng buộc chính phủ phải can thiệp bằng cách trợ giúp những
khoản tài chính lớn. Cuộc khủng hoảng ngân hàng tác động trên diện rộng,
tới nhiều bộ phận của hệ thống kinh tế. Khủng hoảng này rất hay gặp do
ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp
nhân để cho vay lại nên rủi ro rất lớn cả về mặt số lượng, thời hạn cũng như
chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức
và không thu hồi lại được, dẫn đến tỷ lệ quá hạn cao làm cho ngân hàng
không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống
chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo ra khủng hoảng cả hệ thống
ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng ngân hàng, các ngân hàng thương
mại (NHTM) thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng
lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp - bạn hàng chủ
yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt
động.

- Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis): là trường hợp một
quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức hoặc vay thương mại) quá nhiều
và sử dụng không hiệu quả nên không trả được nợ đúng hạn, kể cả nợ chính



10
phủ lẫn nợ tư nhân, do đó lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ,
xoá nợ, thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ. Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều
(chẳng hạn trường hợp Argentina mới đây hay các nhiều nước châu Phi vừa
qua) cùng với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước
ngoài trở nên dễ dàng hơn.
- Khủng hoảng tiền tệ (Money Crisis): là hiện tượng không đủ ngoại tệ
để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu (cả thực tế và giả
tạo do đầu cơ) buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá
hối đoái hoặc phá giá nội tệ làm cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
- Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market).
Với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất
nhạy cảm và phức tạp nên cũng rất dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng
khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “leo
thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho
chứng khoán bị “bán đổ bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không
có giao dịch tạo ra sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào và ra thị
trường chứng khoán.
- Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/ Cán cân vốn
(Crisis of Balance of Payment / Crisis of Current Account / Crisis of Capital
Account): Cán cân thanh toán/ cán cân vãng lai/ cán cân vốn là cấu thành
quan trọng nhất của tài khoản quốc gia. Khủng hoảng xảy ra khi các cán cân
này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng
hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập khẩu -

xuất khẩu) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các
luồng ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào (tổng cán cân vãng lai và tài
khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
- Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản (Crisis of Liquidity): nếu
các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả 3 mặt số lượng
(volume/quantity), thời hạn (term) và chủng loại (kind/currency) của tiền



11
(giống tiền) thì khủng hoảng tính thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên
quan tới thời hạn và chủng loại của giống tiền và một số loại tài sản đặc thù.
- Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis): Ngân sách nhà nước thâm
hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ
trong và ngoài nước) bị hạn chế hay/ và không thể lạm dụng hơn nữa nếu
muốn tránh hậu quả tai hại hơn như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương
lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính
trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.1.2 Các mô hình khủng hoảng cơ bản
1.1.2.1 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P. Krugman (1979) xây
dựng và chủ yếu đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai trong
điều kiện tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn công. Mô hình này xảy
ra ở một số nước có nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém, ngân sách thâm hụt
trầm trọng, cung tiền tăng quá mức (có thể do Chính phủ in tiền để bù đắp
thâm hụt ngân sách) khiến lạm phát gia tăng; những điều này dẫn đến cán
cân vãng lai thâm hụt trầm trọng. Trước nguy cơ đồng nội tệ bị giảm giá,
Chính phủ buộc phải liên tục can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường
để duy trì tỷ giá cố định. Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức

thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra
buộc Chính phủ càng phải can thiệp để cố định tỷ giá.
Trong điều kiện nguồn dự trữ ngoại hối tài trợ cho thâm hụt cán cân
vãng lai và để duy trì chế độ tỷ giá cố định ngày càng trở nên cạn kiệt, Chính
phủ buộc phải đi vay nợ nước ngoài và kêu gọi sự hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế (như IMF), song thường chỉ được đáp ứng một phần. Điều này cùng
với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia
tăng căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ
buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm



12
cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra. Mô hình
này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu
Mĩ La tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những
năm 1990.
1.1.2.2 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995)
xây dựng. Khủng hoảng dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh
(self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về tài
chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của
Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn
do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng
kinh tế và tạo việc làm). Sự thiếu kiên quyết trong cam kết duy trì chế độ tỷ
giá hối đoái của Chính phủ xảy ra khi Chính phủ đứng trước sự lựa chọn
giữa việc giảm thất nghiệp, tăng gánh nặng trả nợ của Chính phủ ở trong
nước và duy trì uy tín của chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Trước tín hiệu đó,
các nhà đầu cơ có thể bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ. Những sức ép
này buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố

định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy
mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát.
Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ
tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng. Trong điều kiện một
hoặc một số ngân hàng có “vấn đề”, tình trạng này dẫn đến hành vi “bầy
đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính -
tiền tệ.
Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ
châu Âu (European Monetary System) năm 1992-1993.
1.1.2.3 Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất khó có thể giải thích một cách
thoả đáng cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á năm 1997-1998. Lý



13
do là các nước chịu khủng hoảng về cơ bản có nền tảng kinh tế vĩ mô tương
đối vững chắc, như ngân sách thâm hụt không đáng kể, thậm chí có thặng
dư, mức tiết kiệm nội địa cao, tỷ lệ lạm phát thấp,… Cuộc khủng hoảng tài
chính - tiền tệ châu Á cũng không thể được giải thích tốt bởi mô hình khủng
hoảng thế hệ thứ hai. Các nước châu Á không có vấn đề thất nghiệp hay nợ
chính phủ nào đáng kể trước khi khủng hoảng xảy ra, nên áp lực phải từ bỏ
chính sách tỷ giá cố định chưa lớn. Hơn nữa hành vi “bầy đàn” cũng liên
quan đến khủng hoảng châu Á, song không thể giải thích được gốc rễ và
mức độ trầm trọng của cuộc khủng hoảng này.
Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999)
xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân
thanh toán quốc tế (Balance of Payment). Khủng hoảng tài khoản vốn
thường dẫn đến khủng hoảng “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng
ngân hàng.

Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến
hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép: (i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt
vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai; và (ii) Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng
quá lớn.
(i) Luồng vốn đổ vào ồ ạt vượt quá mức thâm hụt cán cân vãng lai
(CA Deficit) đã khiến cán cân thanh toán (BOP) thặng dư và dự trữ ngoại hối
tăng. Điều này dẫn tới sự bành trướng tín dụng, đầu tư và tiêu dùng trong
nước. Điểm mấu chốt ở đây là việc đầu tư quá mức (dư thừa năng lực sản
xuất), đầu tư kém hiệu quả (vào các lĩnh vực như bất động sản…), đã dẫn tới
hậu quả là thâm hụt cán cân vãng lai tăng, xuất hiện nền “kinh tế bong bóng”
và mức cung dư thừa.
Khi các nhà đầu tư nhận thức được những yếu kém kể trên và những
dấu hiệu bất ổn khác như sự sụt giảm giá bất động sản và cổ phiếu cũng như
các hoạt động tấn công đầu cơ tiền tệ, họ đồng loạt rút vốn ra khỏi nền kinh



14
tế. Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại
hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
(ii) Trong điều kiện tự do hoá cán cân vốn, một lượng vốn ngắn hạn
với tỷ trọng quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế.
Trong điều kiện giám sát các khoản vay nợ kém hiệu quả, một lượng lớn vốn
vay ngắn hạn bằng ngoại tệ đã được cho vay bằng nội tệ để đầu tư dài hạn
vào những dự án kém hiệu quả đã dẫn đến vấn đề “sai lệch kép” trầm trọng.
Bảng cân đối tài sản của các công ty cũng như của hệ thống ngân hàng - tài
chính xấu đi một cách trầm trọng khi đồng nội tệ mất giá và một lượng vốn
lớn của các nhà đầu tư nước ngoài bị rút ra đột ngột; đến lượt nó, tài sản ròng
của các ngân hàng bị sụt giảm, dẫn đến tín dụng càng bị thắt chặt và bảng
cân đối tài sản của các ngân hàng càng tồi tệ hơn. Quá trình tác động vòng

xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian
rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái.
Một yếu tố mấu chốt đã “dung dưỡng” cho cuộc khủng hoảng kép
(tiền tệ và ngân hàng) là vấn đề rủi ro đạo đức (moral hazard problem) và
hành vi bầy đàn (herding behaviour). Đặc biệt, chính vấn đề rủi ro đạo đức -
được biểu hiện dưới dạng quan hệ cánh hẩu, bảo lãnh ngầm và công khai của
Chính phủ - đã thu hút một lượng lớn vốn vay ngoại tệ ngắn hạn, được kiểm
định thiếu chặt chẽ đổ vào nền kinh tế và gây nên tình trạng bùng nổ tín
dụng, đầu tư quá mức và thiếu hiệu quả, tạo nên nền “kinh tế bong bóng”
(bubble economy). Bong bóng giá cả phình ngày một lớn thì sẽ đến lúc bị
vỡ; tức là đến khi các nhà đầu tư bắt đầu nhận thấy tình hình thực tế đã xảy
ra không đúng với kỳ vọng. Một quá trình ngược lại bắt đầu xảy ra. Mọi
người bán tháo tài sản vì suy đoán rằng giá tài sản sẽ giảm, lượng cung tài
sản vì thế gia tăng khiến giá tài sản giảm mạnh xuống. Các ngân hàng nhận
thấy giá trị tài sản thế chấp giảm xuống nên không cho vay nữa và đòi hoàn
trả những khoản cho vay cũ về. Các nhà đầu tư, do phải hoàn trả vay nợ, nên
càng phải bán tháo tài sản. Giá tài sản vì vậy sụt giảm rất mạnh và thường



15
sụt xuống dưới cả mức cân bằng ban đầu. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền
tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng
thế hệ thứ ba. Cơ chế phát sinh khủng hoảng thế hệ thứ ba có thể được quan
sát như trong hình 1.1.


Hình 1.1: Cơ chế phát sinh khủng hoảng tài khoản vốn






































Nguån: [24, tr. 42]

I. Luồng vốn vào ồ ạt vƣợt quá
mức thâm hụt cán cân vãng lai
II. Tỷ trọng nợ ngắn hạn quá lớn
Thặng dư cán cân thanh toán:
dự trữ ngoại hối tăng
Bành trướng tín
dụng trong nước
Bành trướng đầu
tư, tiêu dùng trong
nước
“Sai lệch kép”
Sai lệch cơ cấu
thời hạn
Sai lệch cơ cấu
đồng tiền
Thâm hụt cán
cân vãng lai
tăng
Kinh tế “bong
bóng”, cung dư
thừa
Luồng vốn rút ra
đột ngột, ồ ạt
Thâm hụt cán cân thanh toán;

dự trữ ngoại hối cạn kiệt
Bảng cân đối tài sản xấu đi
nhanh chóng
Khủng hoảng tiền tệ
Khủng hoảng ngân hàng



16
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có thể gây ra những ảnh hưởng vĩ mô
nghiêm trọng, mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài
sản ở một số nước. Nhiều doanh nghiệp và ngân hàng phá sản dẫn đến hàng
triệu người bị đẩy vào thất nghiệp, sống dưới ngưỡng nghèo khổ. Thu nhập
bình quân đầu người giảm đi rõ rệt. Hơn nữa, khủng hoảng kinh tế kéo dài
còn dẫn tới những bất ổn về chính trị, xã hội mà khó có thể khắc phục được,
hoặc chi phí khắc phục sẽ rất lớn. Với những ảnh hưởng sâu sắc và phạm vi
tác động rộng lớn của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ tới nhiều lĩnh vực
từ kinh tế, chính trị, xã hội, nỗ lực tháo gỡ khó khăn của mỗi Chính phủ quốc
gia là thực sự cần thiết và có ý nghĩa quyết định, song vẫn chưa đủ mạnh để
quốc gia đó có thể nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ còn có tính chất lan
truyền mạnh mẽ đối với nhiều nước trong khu vực và toàn thế giới, do đó
không chỉ đòi hỏi nỗ lực của Chính phủ quốc gia mà còn cần có sự hỗ trợ
của cộng đồng quốc tế mà trước hết là những tổ chức tài chính quốc tế lớn,
có chức năng bảo vệ sự ổn định lâu dài hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới
như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
1.2 VAI TRÒ CỦA IMF TRONG HỆ THỐNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ VÀ ĐỐI
VỚI KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
1.2.1 Vài nét về IMF
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) là một tổ chức chuyên trách của hệ thống

Liên Hiệp Quốc được thành lập theo Hiệp định năm 1945 để giúp tăng
cường sức mạnh của nền kinh tế thế giới. Trụ sở chính của Quỹ được đặt tại
Washington D.C và do 184 nước thành viên trên toàn cầu điều hành.







17

Biểu tượng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
Toà nhà trụ sở chính của Quỹ Tiền tệ Quốc
tế tại Washington, D.C

IMF là một thể chế trung tâm của hệ thống tiền tệ quốc tế - hệ thống
của các thanh toán quốc tế và tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia để
cho phép việc giao dịch kinh doanh giữa các nước diễn ra một cách trôi
chảy. Quỹ giám sát hệ thống này và đưa ra khuôn khổ thể chế toàn cầu,
thông qua đó các nước hợp tác về các vấn đề tiền tệ quốc tế. Hai kiến trúc sư
trưởng tạo nên nền tảng của IMF và WB là nhà kinh tế học John Maynard
Keynes (người Anh) và nhà kinh tế học Harry Dexter White (người Mĩ).
Các mục đích của IMF gồm thúc đẩy sự phát triển cân bằng thương
mại thế giới, ổn định các tỷ giá hối đoái, tránh việc phá giá tiền tệ cạnh tranh
và hiệu chỉnh có trật tự các vấn đề khó khăn về cán cân thanh toán.
1.2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
IMF được thành lập vào tháng 7 năm 1944 tại một hội nghị của Liên
Hiệp Quốc được tổ chức tại Bretton Woods, bang New Hampshire của Mỹ,
khi đại diện của 44 quốc gia (trong đó có Liên Xô cũ) đã nhất trí về một

khuôn khổ cho sự hợp tác kinh tế để tránh lặp lại những chính sách kinh tế
thảm khốc đã góp phần vào cuộc Đại Suy thoái trong những năm 1930.
Trong những năm 1930, khi hoạt động kinh tế của các nước công nghiệp
chính bị suy thoái, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố
gắng bảo vệ nền kinh tế mình bằng cách tăng cường hạn chế nhập khẩu,
nhưng điều đó chỉ làm xấu đi cơn lốc xoáy trong thương mại thế giới, tổng
sản lượng và việc làm. Để bảo đảm dự trữ vàng và ngoại tệ đang ngày một
giảm đi của mình, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá
đồng tiền của mình, và một số khác áp đặt hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ
của công dân. Tuy nhiên những biện pháp cứng nhắc này chỉ chứng tỏ sự tự
vệ và không một quốc gia nào có khả năng duy trì lâu dài vị trí cạnh tranh

×