Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 124 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
****

MAI THỊ THANH








PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH NINH BÌNH


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Văn Thông





Hà Nội – Năm 2007




MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương 1 : Du lịch ngành Kinh tế quan trọng trong nền KTQD -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn 6
1.1 Khái quát chung về hoạt động du lịch 6
1.1.1 Khái niệm về du lịch và lịch sử ngành kinh doanh du lịch 6
1.1.2 Đặc thù của sản phẩm du lịch 9
1.2.3 Các loại hình du lịch 11
1.2 Vai trò của ngành du lịch trong nền KTQD 15
1.2.1 Du lịch là ngành kinh tế quan trọng của đất nước 15
1.2.2 Du lịch thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển 17
1.2.3 Du lịch góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động 18
1.2.4 Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ KTQT 19
1.3 Khái quát tình hình phát triển du lịch Việt Nam 21
1.3.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành Du
lịch 21
1.3.2 Tình hình phát triển ngành du lịch Việt Nam 24

1.4 Kinh nghiệm phát triển ngành du lịch ở một số địa phương ở nước ta 28
1.4.1 Kinh nghiệm của Thủ đô Hà Nội 28
1.4.2 Kinh nghiệm của Hải Phòng 30
1.4.3 Kinh nghiệm của Quảng Ninh trong phát triển du lịch 31
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình 36
2.1 Tiềm năng phát triển du lịch Ninh Bình 36
2.1.1 Những nhân tố về điều kiện tự nhiên, KT -XH tác động đến sự phát
triển du lịch NB 36
2.1.2 Nguồn tài nguyên phát triển du lịch Ninh Bình 44


2.2 Đặc điểm chung về tình hình phát triển ngành du lịch Ninh Bình 47
2.2.1 Đặc điểm về cơ cấu tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch 47
2.2.2 Đặc điểm cơ sở vật chất và đầu tư phát triển ngành du lịch 55
2.2.3 Lực lượng lao động tham gia trong ngành du lịch 61
2.3 Thực trạng các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình 65
2.3.1 Kinh doanh khách sạn, nhà hàng 65
2.3.2 Kinh doanh du lịch lữ hành 69
2.3.3 Kinh doanh vận chuyển hành khách 73
2.4 Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh du lịch Ninh Bình 76
2.4.1 Những kết quả đạt được 76
2.4.2 Những hạn chế và nguyên nhân 79
2.4.3 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm phát triển mạnh KTDL Ninh
Bình 81
Chương 3: Định hướng và Giải pháp phát triển ngành kinh tế du lịch
Ninh Bình 83
3.1 Định hướng phát triển ngành kinh tế du lịch Ninh Bình 83
3.1.1 Các quan điểm cơ bản 83
3.1.2 Định hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch Ninh Bình 84

3.1.2.1 Định hướng chung trong phát triển ngành du lịch Ninh Bình 84
3.1.2.2 Mục tiêu phát triển đến năm 2010 và 2020 86
3.2 Một số giải pháp nhằm phát triển ngành kinh tế du lịch Ninh Bình 88
3.2.1 Về phía Nhà nước 88
3.2.1.1 Công tác quản lý quy hoạch các hoạt động du lịch 88
3.2.1.2 Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật cho các
hoạt động kinh doanh du lịch 93
3.2.1.3 Chú trọng đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực 97


3.2.1.4 Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch Ninh Bình 99
3.2.2 Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch 101
3.2.2.1 Đa dạng hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ du
lịch 101
3.2.2.2 Đẩy mạnh liên kết và hợp tác trong hoạt động kinh doanh du lịch 105
3.2.2.3 Tăng cường công tác tuyên truyền và quảng cáo cho các hoạt động
du lịch 106
Kết luận 109
Danh mục TLTK 111







DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
ANTT An ninh trật tự
CSHT Cơ sở hạ tầng
CNDV Chủ nghĩa duy vật

DNXD Doanh nghiệp xây dựng
HĐND Hội đồng nhân dân
KTDL Kinh tế du lịch
UBND Uỷ ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
TW Trung ương
QLNN Quản lý Nhà nước
VSMT Vệ sinh môi trường
























1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước
trên Thế giới. Kinh doanh du lịch cũng có lịch sử hơn 150 năm qua. Nếu được
tổ chức kinh doanh và phát triển tốt thì đây là một trong những ngành kinh tế
năng động nhất và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho mỗi quốc gia.
Để tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững ngành du lich, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “ Phát triển du lịch thật sự trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ
sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch
sử đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế,
sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực”.[42]
Có thể thấy, để phát triển du lịch thì việc khai thác tiềm năng du lịch có
hiệu quả là rất cần thiết. Trên thế giới, về lý luận tiềm năng du lịch đã được
nghiên cứu tương đối cụ thể. Các nước có nền công nghiệp du lịch phát triển
như Mỹ, Pháp, Thái Lan, Nhật Bản đã có rất nhiều thành công trong việc
khai thác tiềm năng du lịch nhằm phát triển du lịch. Đối với những nước đang
phát triển, nhất là những nước nghèo, nhỏ như Việt Nam thì việc khai thác
tiềm năng du lịch tuy đã có cố gắng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, du
lịch vẫn chưa thực sự trở thành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Hoà nhập chung vào xu thế phát triển chung của cả khu vực và thế
giới, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện và sự nghiệp công nghiệp hoá,
một hình ảnh Việt Nam hấp dẫn ngày càng thu hút khách du lịch bốn phương,
du lịch đang phấn đấu để trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Ninh Bình một vùng đất được hình thành từ rất lâu đời, nằm ở phía
Nam đồng bằng sông Hồng, nơi tiếp giáp và ngăn cách với phía Bắc miền



2
Trung bởi dãy núi Tam điệp hùng vĩ đã đi vào lịch sử. Ninh Bình có nhiều
tiềm năng du lịch: Cùng với cố đô Hoa Lư, Ninh Bình còn có nhiều địa danh
di tích lịch sử văn hoá khác như: núi Dục thuý, chùa Non nước, nhà thờ đá
Phát Diệm - một kiến trúc độc đáo; Và hàng loạt thắng cảnh như Tam Cốc -
Bích Động, Địch Lộng, Vân Long, rừng Quốc gia Cúc Phương, được gọi là
ngôi nhà thiên nhiên với nhiều loại động thực vật quý hiếm. Với những danh
lam thắng cảnh nổi tiếng có tầm cỡ như thế, song đến nay du lịch Ninh Bình
vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng phong phú về du lịch của mình,
chưa thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh.
Điều đó đặt ra cho du lịch Ninh Bình phải đánh giá đúng thực trạng của
ngành và phải có những giải pháp đúng hướng để khai thác triệt để tiềm năng
sẵn có và xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm góp phần thúc đẩy
ngành du lịch Ninh Bình phát triển bền vững, hoà nhập với trào lưu phát triển
du lịch của khu vực và trên Thế giới, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch
trong xây dựng và phát triển của tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước.
Với những lý do trên Tôi đã chọn đề tài: “Phát triển kinh tế du lịch
Ninh Bình" làm đề tài luận văn cho mình.
2) Tình hình nghiên cứu đề tài:
Ở Việt Nam, hoạt động du lịch trở nên nhộn nhịp vào thập niên 90 của
thế kỷ XX trở lại đây. Việc nghiên cứu về du lịch cũng phát triển ngày càng
đậm nét theo thời gian. Cụ thể, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu các hoạt động du lịch dưới nhiều khía cạnh khác nhau như:
- "Kinh tế du lịch và du lịch học"( 2001) của Đổng Ngọc Minh và
Vương Lôi Đình;


3
- "Kinh tế du lịch" (2006) của GS.TS Trần Văn Đính và TS. Trần Thị

Minh Hòa ;
- "Thị trường du lịch" (1998) của Nguyễn Văn Lưu;
- " Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch và dịch vụ du
lịch chất lượng cao, trình độ cao phục vụ hội nhập quốc tế" (2003) - đề tài
nghiên cứu khoa học của Lê Thị Lan Hương;
- " Nghiên cứu thống kê hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch (2005)
của TS. Trần Thị Kim Thu
Tất cả đều có những giá trị nhất định về lý luận và thực tiễn.
Cùng với xu hướng phát triển du lịch của cả nước, ở phạm vi tỉnh Ninh
Bình nói riêng cũng đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch như:
- " Đất ngập nước Vân Long" ( 2004) của GS.TS Vũ Trung Tạng.
- " Dự án qui hoạch tổng thể phát triển du lịch Ninh Bình" ( 2005) của
Viện nghiên cứu và phát triển du lịch.
- "Tiềm năng khu du lịch sinh thái Vân Long góp phần phát triển du
lịch Ninh Bình"(2006) của Sở Du lịch Ninh Bình
- "Mở rộng khu du lịch Tam Cốc - Bích Động để phát triển du lịch khu
vực"( 2006) của Võ Quế - Viện nghiên cứu phát triển du lịch.
- "Sáng tác mẫu mã thuyền vận chuyển du lịch Ninh Bình" của Sở Du
lịch Ninh Bình.
- “ Nghiên cứu thử phương tiện vận tải thuỷ đưa đón khách tham quan
du lịch tại các điểm du lịch Ninh Bình” đề tài khoa học của PTS. Trịnh Quang
Hảo


4
- “ Nghiên cứu quy định tạm thời quản lý khai thác và bảo vệ tài
nguyên môi trường du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” đề tài khoa học của
PTS. Trịnh Quang Hảo
Tuy nhiên, những đề tài trên mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó
chứ chưa phân tích sâu thực trạng phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình.

Do đó, đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé
giải quyết vấn đề khai thác tiềm năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình.
Việc chọn đề tài luận văn không trùng với các công trình nghiên cứu đã
thực hiện trước đó.
3) Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu luận văn:
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng phát triển ngành kinh tế
du lịch ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian qua.
- Phạm vi nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu là tỉnh Ninh Bình. Thời gian
nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 cho đến nay.
Tuy nhiên, luận văn cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh
thành trong nước để làm cơ sở, kinh nghiệm cho quá trình nghiên cứu du lịch
của Tỉnh.
4) Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Mục đích: Từ việc nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế du lịch
Ninh Bình tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả
tiềm năng du lịch ở Ninh Bình góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Ninh
Bình phát triển trong những năm tới.
- Nhiệm vụ của luận văn: Từ mục đích trên, các nhiệm vụ cụ thể được
xác định là:


5
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động du lịch.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình
trong thời gian qua, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế,
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết nhằm khai thác tốt tiềm
năng du lịch Ninh Bình.
+ Xác định phương hướng, mục tiêu và đề xuất một số giải pháp có khả
năng thực thi nhằm thúc đẩy sự phát triển du lịch Ninh Bình từ nay đến năm

2010 và những năm tiếp theo.
5) Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của CNDV biện chứng và duy
vật lịch sử để nghiên cứu sự phát triển của một ngành kinh tế.
- Luận văn cũng đã sử dụng một cách có hệ thống các phương pháp cụ
thể trong quá trình nghiên cứu như: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh,
tổng hợp và khảo sát thực tế
6) Những đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá được cơ sở lý luận về hoạt động du lịch, từ đó khẳng
định được du lịch là một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc
dân.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động du lịch ở Ninh Bình, luận
văn đã chỉ ra những thành tựu đạt được và những hạn chế trong hoạt động
kinh doanh du lịch ở Ninh Bình thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển mạnh kinh tế
du lịch Ninh Bình trong thời gian tới.
7) Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương:


6
Chương 1: Du lịch ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân- Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Ninh Bình.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển ngành kinh tế du lịch
Ninh Bình.


CHƢƠNG 1: DU LỊCH NGÀNH KINH TẾ QUAN TRỌNG

TRONG NỀN KTQD- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Khái quát chung về hoạt động du lịch
1.1.1 Khái niệm về du lịch và lịch sử ngành kinh doanh du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại, du lịch được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã
trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hoá của các
nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế
quan trọng hàng đầu của nhiều nước công nghiệp phát triển. Du lịch được coi
là một ngành công nghiệp – “công nghiệp du lịch” và hiện nay ngành “công
nghiệp” này chỉ đứng sau công nghiệp dầu khí và ô tô. Đối với các nước đang
phát triển, du lịch được coi là cứu cánh để vực dậy nền kinh tế ốm yếu của
quốc gia.
Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội. Trong qúa trình phát triển, nội
dung hoạt động của nó không ngừng mở rộng và ngày càng phong phú. Tuy
nhiên, cho đến nay không chỉ ở nước ta, khái niệm “du lịch” vẫn chưa thống
nhất. Do hoàn cảnh( thời gian, khu vực) khác nhau dưới mỗi góc độ nghiên
cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch cũng khác nhau. Đúng
như giáo sư, Tiến sỹ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế


7
giới đã nhận định: “ Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có
bấy nhiêu định nghĩa" [9 Tr 9]. Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái
niệm “du lịch”, song thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh tế xã hội
cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến thống
nhất khái niệm “du lịch” giống như một số khái niệm cơ bản khác về du lịch
là một đòi hỏi cần thiết.
Khái niệm “du lịch” đầu tiên là sự khởi hành và lưu trú tạm thời của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Từ xa xưa, loài người đã khởi
hành với nhiều lý do khác nhau như: vì lòng ham hiểu biết về thế giới xung

quanh, vì lòng yêu thiên nhiên, vì để học ngoại ngữ. Mầm mống đầu tiên của
hoạt động kinh doanh du lịch bắt đầu xuất hiện từ cuộc phân chia lao động xã
hội lần thứ hai( lúc ngành thủ công nghiệp xuất hiện) và sau đó tách ra khỏi
ngành Nông nghiệp truyền thống. Biểu hiện của hoạt động kinh doanh du lịch
trở nên rõ hơn khi ngành thương nghiệp xuất hiện vào thời đại chiếm hữu nô
lệ, tức là vào giai đoạn có sự phân chia lao động lần thứ 3 của xã hội loài
người. Vào đầu thế kỷ 17, bắt đầu diễn ra cuộc cách mạng về giao thông trên
thế giới - đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi, kim loại ngày càng có mặt
nhiều hơn trong ngành đường sắt, đóng tàu và công nghiệp sản xuất ô tô. Chỉ
sau một thời gian ngắn ở Châu Âu và Châu Mỹ mạng lưới đường sắt đã được
hình thành. Nhiều tàu lớn nhỏ, hiện đại đi lại khắp các biển và vịnh trên thế
giới. Giao thông trở thành nguyên nhân chính và điều kiện vật chất quan trọng
giúp cho việc phát triển các cuộc khởi hành của con người. Đến thế kỷ 19
khách du lịch chủ yếu đi lại tự túc, ít gây phiền hà cho dân bản xứ. Muộn hơn,
khi du lịch trở thành hiện tượng đại chúng, bắt đầu nảy sinh ra hàng loạt vấn
đề về việc đảm bảo chỗ ăn, ở, chỗ ngủ cho những người tạm sống ở ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ. Lúc này bắt đầu xuất hiện nghề mới trong dân
chúng tại các vùng du lịch như kinh doanh khách sạn, nhà hàng, môi giới,


8
hướng dẫn du lịch….Hàng loạt các cơ sở chuyên phục vụ du lịch như khách
sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát… cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ
phục vụ du lịch lần lượt ra đời. Từ giữa thế kỷ 19 du lịch mới thực sự trở
thành một hiện tượng đại chúng và lặp đi lặp lại đều đặn. Đó là lý do giải
thích tại sao khoa học du lịch ra đời muộn hơn một số ngành khoa học khác.
Như vậy, Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng phổ biến, đã có
rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch.
Trong số những học giả đưa định nghĩa nhắn gọn nhất (tuy không phải
là đơn giản nhất) phải kể đến Ausher và Nguyễn Khắc Viện. Theo Ausher thì

"du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân", còn viện sỹ Nguyễn Khắc
Viện lại quan niệm rằng "du lịch là sự mở rộng không gian văn hoá của con
người" [31 Tr8]. Trong các từ điển Tiếng Việt, du lịch được giải thích là đi
chơi cho biết xứ người.
Trong cuốn du lịch và kinh doanh du lịch của PTS Trần Nhạn thì "du lịch
là quá trình hoạt động của con người rời khỏi quê hương đến một nơi khác
với mục đích chủ yếu là được thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần
đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê hương, không nhằm mục đích sinh lời được
tính bằng đồng tiền" [16].
Tiếp cận trên giác độ người kinh doanh du lịch thì du lịch là qúa trình tổ
chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu
cầu của người đi du lịch. Các doanh nghiệp du lịch coi du lịch như là một cơ
hội để bán các sản phẩm mà họ sản xuất ra, nhằm thoả mãn các nhu cầu của
khách, đồng thời qua đó đạt được mục đích số một của mình là tối đa hoá lợi
nhuận.
Định nghĩa về du lịch trong từ điển Bách khoa quốc tế về du lịch do viện
Hàn lâm khoa học quốc tế về du lịch xuất bản: “ Du lịch là tập hợp các hoạt


9
động tích cực của con người nhằm thực hiện một dạng hành trình, là một công
nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch”.
Định nghĩa của hội nghị quốc tế và thống kê du lịch ở Otawa, Canada
diễn ra vào tháng 6/1991: “ Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi
ngoài môi trường thường xuyên, trong một khoảng thời gian ít hơn khoảng
thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của chuyến đi
không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới
thăm.” [9 Tr19]
Để có quan niệm đầy đủ cả về góc độ kinh tế và kinh doanh của du lịch,
khoa du lịch và Khách sạn ( trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội ) đã đưa

ra định nghĩa trên cơ sở tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du
lịch trên thế giới và ở Việt Nam trong những thập niên gần đây: " Du lịch là
một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản
xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng
các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu các nhu
cầu khác của khách du lịch.”
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam, tại Điều 10 thuật ngữ “Du lịch”
được hiểu như sau: “Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.”
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành
phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có
đặc điểm của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hoá xã hội. Trên
thực tế, hoạt động du lịch ở nhiều nước không chỉ đem lại lợi ích kinh tế, mà
còn cả lợi ích chính trị, văn hoá, xã hội…Ở nhiều nước trên thế giới, ngành du
lịch phát triển với tốc độ khá nhanh và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong


10
nền kinh tế quốc dân, nguồn thu nhập từ ngành du lịch đã chiếm một tỷ trọng
lớn trong tổng giá trị sản phẩm xã hội.
1.1.2 Đặc thù của sản phẩm du lịch
Du lịch là một ngành đặc biệt từ sản phẩm đến phương thức kinh doanh
và tính chất hoạt động. Do đó, khi tìm hiểu các khái niệm chung về du lịch
chúng ta cũng phải tìm hiểu sản phẩm của du lịch và những nét đặc trưng cơ
bản của nó.
Sản phẩm du lịch là các dịch vụ hàng hóa cung cấp cho du khách được
tạo nên bởi sự kết hợp của viêc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc
sử dụng các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một
vùng hay một quốc gia nào đó.

Như vậy, Sản phẩm du lịch bao gồm:
+ Dịch vụ du lịch là một phần của lao động sống trong ngành du lịch để
phục vụ khách như: hướng dẫn tham quan, lưu trú, vận chuyển, chăm lo sức
khoẻ, vui chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác…
+ Các hàng hoá trong du lịch: là nhưng hàng hoá thông thường, tặng
phẩm, đồ lưu niệm, và các đặc sản
+ Tiện nghi du lịch: là tổng thể các điều kiện thuận tiện phục vụ cho
khách. Gồm: tiện nghi trong phòng, phương tiện thông tin liên lạc, chất lượng
vận chuyển, thủ tục Hải Quan…Đó là kết hợp cộng đồng trách nhiệm của
nhiều cơ quan thuộc các lĩnh vực khác nhau.
+ Tài nguyên du lịch: là nhân tố hàng đầu có liên quan sức hấp dẫn với
du khách và là điều kiện cần để có hoạt động trong du lịch, gồm: cảnh quan
thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao
động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du
lịch.


11
Với cấu thành sản phẩm rất đặc biệt như vậy, sản phẩm du lịch cũng có
những đặc điểm khác với các sản phẩm vật chất hay dịch vụ khác, cụ thể:
+ Sản phẩm du lịch được tạo ra bởi sự tổng hợp các nguồn kinh doanh
khác nhau: khách sạn, nhà hàng, vận chuyển, dịch vụ…
+ Việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch được thực hiện đồng thời,
tại chỗ, không mang đi trưng bày hoặc tiêu thụ ở nơi khác được.
Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu dùng trừu tượng, không lưu
kho lưu bãi được(1 đêm ngủ, 1 chỗ ngồi…). Giống như các sản phẩm dịch vụ
khác, sản phẩm du lịch không bán được thì mất giá trị chứ không để dành
trong kho hoặc cất giữ được. Chính đặc điểm này làm cho tính thời vụ trong
hoạt động kinh doanh du lịch càng đậm nét.
Sản phẩm du lịch thường được bán trọn gói với các loại hình, các tuyến

điểm với các tiện nghi khác nhau.
+ Sản phẩm hàng hoá trên thị trường du lịch khá đa dạng và vượt khỏi
khuôn khổ khái niệm hàng hoá. Đây là đặc điểm rất đặc biệt của sản phẩm
hàng hoá du lịch. Ngoài đặc điểm hàng hoá thông thường, còn có cả những
thành phần mà bản thân nó không có tính chất hàng hoá hay dịch vụ ( như
cảnh quan thiên nhiên, bầu không khí, môi trường…); những hàng hoá này
bán rồi mà vẫn còn nguyên giá trị sử dụng hoặc chỉ hao tổn ít; những hàng
hoá này nếu không được tiêu dùng thì sẽ không có giá trị, tiêu dùng càng
nhiều càng có giá trị.
Do vậy để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn.
Việc thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng
quan trọng đối với các nhà kinh doanh du lịch. Việc tiêu dùng sản phẩm du
lịch thường diễn ra không đều đặn, mà chỉ tập trung vào những thời gian nhất
định trong ngày (đối với sản phẩm ở bộ phận nhà hàng), trong tuần, trong


12
năm. Vì vậy, trên thực tế hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính thời
vụ. Sự dao động ( về thời gian ) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc
tổ chức hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
các nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong du lịch luôn là vấn
đề bức xúc trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
1.1.3 Các loại hình du lich:
Ngành kinh tế du lịch được hình thành và phát triển khi nghề tiểu thủ
công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp. Ở thời Cổ Đại loại hình du lịch
phổ biến là du lịch tôn giáo với nhu cầu tín ngưỡng, hàng ngàn người đã hành
hương tới các đền chùa, nhà thờ, thánh địa. Đến thời Trung Đại xuất hiện các
hình thức du lịch công vụ, du lịch tham quan của các tầng lớp quí tộc, các
chính khách, thương gia. Sang thời kỳ Cận Đại khoa học kỹ thuật đã có
những bước phát triển đáng kể thì du lịch cũng phát triển nhanh chóng. Song

phần lớn du khách mới chỉ là tầng lớp thượng lưu và trung lưu.
Đến thời kỳ khoa học công nghệ phát triển cao, đặc biệt từ sau chiến
tranh thế giới thứ 2 đến nay đã thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển nhanh
chóng. Du lịch đã trở thành phổ biến trong đời sống của con người và ngày
càng phát triển đa dang phong phú. Tuy nhiên để có thể đưa ra các định
hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du lịch, các nhà quản lý vĩ mô về
du lịch cũng như các nhà quản trị Doanh nghiệp du lịch cần phân du lịch
thành các loại hình du lịch khác nhau. Có nhiều tiêu chí để phân chia các loại
hình du lịch.
* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này,
du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
- Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm
đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.


13
- Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến
của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
* Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch thì du lịch được
phân thành những loại sau:
- Du lịch chữa bệnh: Đi du lịch để chữa một căn bệnh nào đó, gắn liền
với nghỉ ngơi tại các trung tâm chữa bệnh bên các nguồn nước khoáng và
khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, khí hậu thích hợp.
- Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Xuất phát từ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí để
phục hồi sức khoẻ. Đây là loại hình có tác dụng thư giãn.
- Du lịch thể thao: Xuất phát từ sự ham mê thể thao, gồm du lịch thể thao
chủ động tham gia trực tiếp vào các hoạt động thể thao như: leo núi, câu cá,
bơi thuyền, săn bắn
- Du lịch văn hoá: Đáp ứng nhu cầu hiểu biết thích nâng cao tìm hiểu
nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, danh lam thắng cảnh, chế độ xã hội, kinh tế, văn

hoá, phong tục tập quán của nơi đến du lịch.
- Du lịch công vụ: Với mục đích chính nhằm thực hiện nhiệm vụ công
tác. Tham gia loại hình này là khách đi dự các hội nghị, hội thảo và dự các lễ
kỷ niệm lớn.
- Du lịch thương gia
- Du lịch tôn giáo
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch
được phân thành:
- Du lịch theo đoàn: ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn
và thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó đã định ra những nơi sẽ
tới thăm, nơi lưu trú và ăn uống.


14
- Du lịch cá nhân: Cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ
chức du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác. Khách du lịch
không phải đi cùng đoàn mà chỉ tuân theo những điều kiện đã được thông báo
và chuẩn bị trước. Tuy nhiên, các cá nhân vẫn co thể đi du lịch tự do mà
không cần thông qua tổ chức du lịch nào.
* Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng, du lịch được phân
thành:
- Du lịch bằng xe đạp: loại hình này phổ biến ở các nước phát triển và có
địa hình khá bằng phẳng như áo, Hà Lan, Đan Mạch Du lịch bằng xe đạp
thường tổ chức từ một đến ba ngày, thường tổ chức vào cuối tuần và đến
những điểm du lịch gần.
- Du lịch bằng xe máy
- Du lịch bằng ô tô: Đây là loại hình du lịch phổ biến ở các nước phát
triển, đặc biệt là Châu Âu và được đi bằng ô tô riêng.
- Du lịch bằng tàu thuỷ: Loại hình này đã có từ lâu, tàu thuỷ dùng cho du
lịch thường là một tổ hợp đảm bảo nhiều loại dịch vụ

- Du lịch bằng tàu hoả: Loại hình này xuất hiện từ giữa thế kỷ trước và
có chi phí giao thông thấp, nên không phù hợp với nhiều tầng lớp xã hội.
- Du lịch bằng máy bay: là một trong những loại hình tiên tiến đáp ứng
nhu cầu của khách du lịch trong nước, những vùng xa xôi và có mức sống
cao.
Tuy nhiên du lịch máy bay có nhược điểm giá thành cao, nên không phù
hợp với tầng lớp xã hội có thu nhập thấp.
* Căn cứ vào thời gian đi du lịch phân thành:


15
- Du lịch dài ngày: Diễn ra vào các kỳ nghỉ phép năm, nghỉ hè hoặc nghỉ
đông và kéo dài một tuần đến vài tuần thực hiện các chuyến đi thăm những
điểm du lịch ở xa, du lịch nghỉ ngơi hay du lịch văn hoá.
- Du lịch ngắn ngày: Thường kéo dài đến 3 ngày và vào cuối tuần, phát
triển nhiều ở những nước có chế độ làm việc 5 ngày: Anh, Pháp, Mỹ
* Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch được phân thành:
- Du lịch nghỉ núi
- Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
- Du lịch thành phố
- Du lịch đồng quê.
Nhìn chung, các loại hình du lịch thường phối hợp chặt chẽ với nhau,
như đi dự hội nghị, hội thảo kết hợp với tham quan nghỉ mát, vui chơi giải trí;
du lịch nghỉ ngơi giải trí với du lịch nhân văn; du lịch công vụ với du lịch văn
hoá Do đó, để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, các tổ chức du
lịch cần nghiên cứu cách thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen để đáp
ứng nhu cầu tối đa của khách, tuỳ theo sở thích của từng loại khách.
1.2 Vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1 Du lịch là ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin,

du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc
gia. Ngày 3 và ngày 5 tháng 11 năm 1994 tại OSAKA Nhật Bản, Hội nghị Bộ
trưởng du lịch thế giới có các đoàn đại biểu của 78 nước và vùng, 18 chính
quyền địa phương và 5 quan sát viên. Điểm 2 phần I của tuyên bố du lịch
OSAKA khẳng định: " Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm thế
giới, chiếm 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho du lịch và các khoản thu từ


16
thuế liên quan tới du lịch tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng này
cùng với các chỉ tiêu khác của du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một
cách vững chắc và như vậy du lịch sẽ là đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới trong
thế kỷ XXI" [9 Tr 51].
Trước hết, Du lịch tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc
dân ( sản xuất ra đồ lưu niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật
chất kỹ thuật ) làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc nội. Du lịch mang lại thu
nhập ngày một lớn cho xã hội và tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại
thu nhập quốc dân. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần
kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân mang lại thu nhập không chỉ cho những đối
tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà còn gián tiếp đối với các ngành liên
quan, tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng nhanh về
thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội của cả nước từ du lịch
mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004 con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp
20 lần.
Du lịch phát triển góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch trong
khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, ở
đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, củng cố sức khoẻ cho nhân dân lao động và do vậy
góp phần làm tăng năng suất lao động như SaPa ( Lào Cai), Hạ Long( Quảng
Ninh), Cát Bà( Hải Phòng), Sầm Sơn ( Thanh Hoá), Cửa Lò( Nghệ An), Huế,

Hội An(Quảng Nam) và ở một số địa phương đồng bằng Sông Cửu Long.
Du lịch còn có tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân
thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân
thanh toán quốc tế. Cùng với hàng không dân dụng, kiều hối, cung ứng tàu
biển, bưu điện quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác, du lịch quốc tế hàng
năm đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là vai trò trực tiếp nhất của


17
du lịch đối với nền kinh tế, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã thu
hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.
Du lịch còn là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất trong nền kinh
tế. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du
lịch là một ngành " xuất khẩu tại chỗ " những hàng hoá công nghiệp, hàng
tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, lâm sản theo giá bán lẻ cao
hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông
qua con đường du lịch các hàng hoá xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào
thuế quan mậu dịch quốc tế. Du lịch còn là ngành "xuất khẩu vô hình" hàng
hoá du lịch. Hai hình thức xuất khẩu này đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn rất
nhiều, do tiết kiệm được đáng kể chi phí đóng gói bao bì, bảo quản và thuế
xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao do nhu cầu du
lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.
Du lịch còn có vai trò khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế
giới hiện nay, là giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng
sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Do vậy các nhà kinh doanh đi
tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so
với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao vì vốn đầu
tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải
mà khả năng thu hồi vốn nhanh, kỹ thuật không phức tạp.

1.2.2 Du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp các sản phẩm du lịch được tạo ra
không đơn thuần là của ngành du lịch mà còn là sự kết hợp của các ngành
khác. Chẳng hạn, muốn có các cơ sở lưu trú thì phải có ngành xây dựng; có
được các bữa ăn cung cấp cho du khách là phải có ngành nông nghiệp, ngành


18
công nghiệp chế biến Do đó, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ
liên ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành là cơ sở cho các ngành khác (như
giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, công nghiệp, nông nghiệp, hải quan,
hàng không ) phát triển, đối với nền sản xuất xã hội du lịch mở ra một thị
trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển du lịch tạo ra các điều kiện
để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh
trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.
Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như
mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông
tin đại chúng Đặc biệt là ở những vùng phát triển du lịch, do xuất hiện nhu
cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc của khách du lịch, cũng như những
điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này
phát triển. Tuy nhiên, khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và
sau đó khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao
thông vận tải phát triển.
Hoạt động du lịch còn tạo thêm nguồn thu để tôn tạo trùng tu các di tích,
di sản và nâng cao ý thức trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hoá vật
thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị
văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế tạo thêm sức hấp dẫn
thu hút khách du lịch. Thông qua du lịch các ngành kinh tế - xã hội khác phát
triển, mở rộng thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành khác,
thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất

khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông,
xây dựng, viễn thông nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm
động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được cải thiện và nâng
lên trình độ cao hơn.
1.2.3 Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.


19
Du lịch là ngành kinh tế góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người
lao động. Do đặc trưng của ngành du lịch là ngành phục vụ và không thể cơ
giới hoá được nên đòi hỏi nhiều lao động sống. Do vậy, phát triển du lịch sẽ
tạo thêm nhiều việc làm mới và tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân địa
phương.Theo thống kê năm 2000 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm
quan trọng. Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm
10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo ra được một việc
làm mới, đến năm 2005 cứ 8 lao động thì có một người làm trong ngành du
lịch, so với tỷ lệ hiện nay là 1/9. Một buồng khách sạn từ 1 đến 3 sao trên thế
giới hiện nay thu hút khoảng 1,3 lao động trong các dịch vụ chính và khoảng
5 lao động trong các dịch vụ bổ sung. Số lao động dịch vụ bổ sung có thể tăng
lên nhiều lần, nếu các dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và phong phú
về chủng loại. Theo dự báo của WTO, năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo khoảng
150 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, ngành du lịch cũng đã giải quyết một phần không nhỏ công
ăn việc làm cho người lao động cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Năm 1990 toàn
ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay đã có trên 23 vạn lao
động trực tiếp ( tăng gần 10 lần so với 30 năm trước, phần đông từ các ngành
khác chuyển sang) và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động
toàn quốc, phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bố trên phạm vi cả nước
( Miền Bắc 40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm
tỷ trọng khá cao (25%); lao động trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu

chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ bàn, bar
là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là
4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là các lao động
làm nghề khác. Có 32% lao động phục vụ trực tiếp bằng tiếng Anh; 3,2% biết
tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau. Qua số liệu


20
thống kê ở trên càng thấy rõ vai trò to lớn của du lịch trong nền kinh tế quốc
dân, nó như một đòn bẩy trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
1.2.4 Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Du lịch là một ngành mang yếu tố đối ngoại, không chỉ đơn thuần liên
quan đến yếu tố khách quốc tế mà còn là mối quan hệ hợp tác giữa các nước,
các tổ chức về lĩnh vực phát triển du lịch. Các tổ chức quốc tế mang tính
chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực trong việc hình thành
các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát
triển đường lối thông thương quốc tế, tranh thủ được nguồn vốn, kinh nghiệm,
công nghệ và nguồn khách Du lịch quốc tế như một đầu mối "xuất- nhập
khẩu" ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI xu hướng toàn cầu hoá kinh tế tạo
ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, và du lịch cũng
không nằm ngoài phạm vi đó. Trong xu hướng chung đó, du lịch Việt Nam
cũng đã chủ động hội nhập và hợp tác với các quốc gia, các tổ chức du lịch
trên thế giới. Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du
lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm
giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác. Ký hiệp định
hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; thiết lập và tăng cường hợp tác
du lịch với các nước khác; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu
vùng Mê Kông - sông Hằng, hợp tác ASEAN, ASEM, APEC, hiệp tác trong
Hiệp hội du lịch Châu Á- Thái Bình Dương; có quan hệ bạn hàng với 1000

hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ. Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế giới ( WTO). Sự kiện lớn đó
mở ra cơ hội lớn đối với ngành du lịch Việt Nam, khẳng định vai trò vị thế
của du lịch Việt Nam thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam
với các nước trong khu vực và trên thế giới.

×