Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 125 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





NGUYỄN THỊ LAN PHƯƠNG




PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH TỈNH LÀO CAI






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ





Hà Nội - Năm 2010

MỤC LỤC



Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
ii
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DU
LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
7
1.1. Du lịch và các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch
7
1.1.1. Khái niệm về du lịch
7
1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó
10
1.1.3. Các loại hình du lịch
12
1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch
15
1.2. Kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch
16
1.2.1. Kinh tế du lịch
16
1.2.2. Phát triển kinh tế du lịch
22
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch tại một số địa phương ở nước ta
35

1.3.1. Khái quát tình hình phát triển của ngành du lịch Việt Nam
35
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch của một số địa phương
40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở
TỈNH LÀO CAI
48
2.1. Tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Lào Cai
48
2.1.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Lào Cai
48
2.1.2. Nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Lào Cai
55
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai

60
2.2.1. Cơ cấu tổ chức và quản lý Nhà nước về du lịch
60
2.2.2. Tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch
64
2.2.3. Tình hình xúc tiến, quảng bá và liên kết, hợp tác du lịch
65
2.2.4. Thực trạng nguồn lao động trong ngành du lịch
67
2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
71
2.2.6. Số lượng du khách và doanh thu du lịch
82
2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
trong thời gian qua

86
2.3.1. Những kết quả đạt được
86
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
88
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH TỈNH LÀO CAI
92
3.1. Định hướng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai
92
3.1.1 Bối cảnh kinh tế mới
92
3.1.2. Quan điểm và định hướng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
95
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
98
3.2.1. Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch
99
3.2.2. Giải pháp về đầu tư phát triển kinh tế du lịch
101
3.2.3. Tăng cường công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch
103
3.2.4. Đa dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch và dịch vụ du
lịch
106
3.2.5. Giải pháp về thị trường
109
3.2.6. Chú trọng phát triển hình thức du lịch cộng đồng thôn, bản
110
3.2.7. Bảo vệ, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch

112
KẾT LUẬN
115
TÀI LIỆU THAM KHẢO
117


i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT





























CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
HDV
Hướng dẫn viên
KDDL
Kinh doanh du lịch
KTDL
Kinh tế du lịch
LLSX
Lực lượng sản xuất
QLNN
Quản lý Nhà nước
UBND
Ủy Ban Nhân dân
VHTT&DL
Văn hóa, thể thao và Du lịch

ii
DANH MỤC CÁC BẢNG

STT
Số hiệu
Tên bảng

Trang
1
Bảng 1.1
Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam (2006 – 5/2010)
38
2
Bảng 2.1
Thực trạng nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh Lào
Cai
69
3
Bảng 2.2
Hiện trạng cơ sở lưu trú của Lào Cai qua các năm
74
4
Bảng 2.3
Kết quả kinh doanh cơ sở lưu trú
75
5
Bảng 2.4
Kết quả kinh doanh lữ hành
76
6
Bảng 2.5
Kết quả kinh doanh vận chuyển khách du lịch
78
7
Bảng 2.6
Doanh thu ăn uống
79

8
Bảng 2.7
Doanh thu bán hàng
80
9
Bảng 2.8
Khách du lịch đến Lào Cai qua các năm
82

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ

STT
Số hiệu
Tên hình
Trang
1
Hình 2.1
Tỷ trọng doanh thu của các lĩnh vực kinh doanh trong
tổng doanh thu du lịch năm 2009
81
2
Hình 2.2
Lượng khách và doanh thu du lịch thời kỳ 2000 - 2009
85



1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế - xã hội phổ biến. Hội
đồng Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council – WTTC) đã
công nhận du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, vượt trên cả ngành sản
xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Đối với một số quốc gia, du lịch là nguồn
thu ngoại tệ quan trọng nhất trong ngoại thương. Tại nhiều quốc gia khác, du lịch là
một trong những ngành kinh tế hàng đầu. Du lịch đã nhanh chóng trở thành một
ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước trên thế giới.
Để phát triển du lịch thì việc khai thác tiềm năng du lịch có hiệu quả là rất
cần thiết. Thực tiễn cho thấy các nước có nền công nghiệp du lịch phát triển như
Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Thụy Sĩ… đã có nhiều thành công trong việc khai thác tiềm
năng du lịch. Đối với những nước đang phát triển, nhất là những nước còn nghèo và
nhỏ như Việt Nam thì việc khai thác tiềm năng du lịch tuy đã có cố gắng nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế. Vì vậy, du lịch vẫn chưa thực sự trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, vị thế của Lào Cai là
tiềm năng thiên phú cho du lịch. Từ Lào Cai, khách thập phương có thể du lịch sang
Trung Quốc vào sâu nội địa Việt Nam và đi các nước ASEAN. Lào Cai có nhiều
cảnh quan thiên nhiên kỳ thú cùng nhiều truyền thống văn hóa giàu bản sắc của các
dân tộc được bảo lưu phong phú đầy hấp dẫn đan xen như lễ hội xuống đồng, hội
múa xòe, hội xuân Đền Thượng tại thành phố Lào Cai…Lào Cai còn tập hợp nhiều
di tích văn hóa như quần thể hang động Mường Vi, đền Bảo Hà, khu bãi đá khắc cổ
Sapa, tòa lâu đài trên cao nguyên Bắc Hà…là những điều kiện và di vật thuận lợi để
phát triển nhiều loại hình du lịch.
Trong những năm qua, du lịch Lào Cai đã có những phát triển nhất định,
bước đầu khẳng định được tầm quan trọng của kinh tế du lịch đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, so với tiềm năng thì những thành tựu đạt được


2

còn rất khiêm tốn. Đặc biệt trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay thì việc đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch ở Lào Cai đang đặt ra cấp thiết hơn
bao giờ hết. Điều đó đặt cho du lịch Lào Cai phải đánh giá đúng thực trạng của
ngành và phải có những giải pháp đúng hướng để khai thác triệt để tiềm năng sẵn có
và xây dựng chiến lược phát triển phù hợp, nhằm góp phần thúc đẩy ngành du lịch
Lào Cai phát triển bền vững, hòa nhập với trào lưu phát triển du lịch của khu vực và
trên thế giới, thực hiện đúng vai trò của ngành du lịch trong xây dựng và phát triển
của tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào
Cai” làm đề tài luận văn cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, vấn đề du lịch và kinh tế du lịch đã
được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở các mức độ và dưới
các góc độ khác nhau. Đáng lưu ý có các công trình liên quan đến đề tài như:
Các công trình ngoài nước có:
+ Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình cùng với tập thể giáo sư và giảng viên
khoa Du lịch Đại học Hải Dương, Thanh Đảo, Trung Quốc hợp soạn với cuốn sách
Kinh tế du lịch và Du lịch học, Nxb Trẻ 2000. Đây là công trình nghiên cứu khoa
học có hệ thống về hoạt động du lịch từ thực tiễn của Trung Quốc, nêu lên nhiều
mặt tương đối phù hợp với điều kiện hoạt động du lịch Việt Nam, từ đó có thể rút ra
được những bài học để đưa du lịch Việt Nam phát triển theo đúng chủ trương đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
+ Robert Lanquar, với cuốn sách Kinh tế du lịch, người dịch Phạm Ngọc
Uyển, Bùi Ngọc Chưởng, Nxb Thế giới, Hà Nội 2002. Giới thiệu cột mốc lịch sử
của công nghiệp du lịch và đi sâu phân tích những ảnh hưởng của du lịch đến kinh
tế, những biến số kinh tế vĩ mô, những công cụ và phương tiện phân tích kinh tế học
du lịch, kinh tế học về kinh doanh du lịch và qua đó nhấn mạnh sự cần thiết phải
tiếp cận theo hệ thống hiện đại.



3
Ở trong nước có những tác giả viết về lĩnh vực du lịch và liên quan đến lĩnh
vực kinh tế du lịch như:
+ Nguyễn Hồng Giáp, với cuốn Kinh tế du lịch, Nxb Trẻ, 2002
+ GS.TS. Nguyễn Văn Đính, TS.Trần Thị Minh Hòa với cuốn Giáo trình
Kinh tế du lịch, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Nxb Lao động - Xã hội.
+ Lê Văn Thắng, Trần Anh Tuấn, Bùi Thị Thu, “Giáo trình du lịch và môi
trường”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Phạm Trung Lương, Đặng Duy Lợi, Vũ Tuấn Cảnh, Nguyễn Văn Bình,
Nguyễn Ngọc Khánh, với cuốn Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà nội 2001.
Những cuốn sách nêu trên đề cập đến những vấn đề cơ bản sau:
- Trên cơ sở khái lược chung nhất những khái niệm về du lịch, sản phẩm du
lịch, cách nhìn nhận kinh tế du lịch từ nhiều góc độ khác nhau của các học giả trong
và ngoài nước để giúp cho độc giả những kiến thức khái quát, cơ bản như khái niệm
về du lịch, lịch sử hình thành, xu hướng phát triển của du lịch, ý nghĩa kinh tế - xã
hội của du lịch, các loại hình kinh doanh du lịch, hiệu quả kinh tế du lịch Đồng
thời, các tác giả cũng đề cập đến những vấn đề có liên quan đến một số mặt hoạt
động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, lao động, cơ sở vật chất – kỹ thuật, chất
lượng dịch vụ và hiệu quả kinh tế du lịch, tổ chức và quản lý ngành du lịch ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó đưa ra những nội dung để xác định vị trí của ngành du lịch, các
thành phần chủ yếu của sản phẩm du lịch và các đơn vị hoạt động du lịch để đi đến
những vấn đề kinh tế du lịch chính thống theo hướng nghiên cứu và quan điểm của
tác giả.
- Giới thiệu chung về tài nguyên môi trường du lịch nói chung và tài nguyên
môi trường Du lịch Việt Nam nói riêng, những tác động của hoạt động du lịch tới
tài nguyên và môi trường.
Trên nhiều tạp chí có nhiều bài viết nêu lên những thành tựu của ngành du
lịch Việt Nam, đề ra mục tiêu và nhiệm vụ của ngành du lịch. Tiêu biểu như:



4
+ Đón xuân nhìn lại 5 năm du lịch Việt Nam, Tạp chí Xây dựng Đảng, số
1+2/2004.
+ Du lịch Việt Nam thực hiện chương trình hành động quốc gia về du lịch,
Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2/2005.
+ Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Tạp chí Du lịch Việt Nam,
số 15/2009.
Các tác giả đã khái quát những mặt hoạt động, những thành tựu đã đạt được
của ngành du lịch Việt Nam trên các mặt cơ bản như: Tổng số doanh nghiệp kinh
doanh du lịch, cơ sở lưu trú, tình hình khách du lịch quốc tế và trong nước, doanh
thu du lịch…Đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại, yếu kém trong ngành và xác định
mục tiêu, nhiệm vụ cho ngành du lịch trong thời gian tới.
Cùng với xu hướng phát triển du lịch cả nước, ở phạm vi tỉnh Lào Cai nói
riêng cũng đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch như:
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai (2002),“Đề án phát triển kinh tế du lịch tỉnh
Lào Cai giai đoạn 2001-2005-2010”
+ Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai, quyết định số 660/QĐ-UB ngày 3/11/2004,
“Quy hoạch phát triển du lịch Lào Cai giai đoạn 2005-2010 và định hướng 2020”.
+ Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Lào Cai (2009),“Kế hoạch triển khai
giải pháp cấp bách thu hút khách du lịch quốc tế và thúc đẩy du lịch nội địa đến
Lào Cai năm 2009”.
Tuy nhiên, những đề tài trên mới chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó về du
lịch và kinh tế du lịch như xác định sản phẩm du lịch chính của địa phương, phân
vùng, xác định tuyến điểm du lịch đầu tư… Chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về phát triển kinh tế du lịch cũng như phân tích
và đánh giá sâu thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.
Do đó, đề tài được nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ bé giải
quyết vấn đề khai thác tiềm năng du lịch một cách hợp lý và có hiệu quả nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.




5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:
Trên cơ sở hệ thống và khái quát lại những lý luận chung về các khái niệm
du lịch, kinh tế du lịch và phát triển kinh tế du lịch, đồng thời tiếp cận dưới góc độ
kinh tế chính trị theo quan điểm, tư tưởng, lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tác
giả nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai, đề xuất
một số quan điểm, định hướng và giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng
du lịch ở Lào Cai, góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Lào Cai phát triển trong những
năm tới.

Nhiệm vụ:
Từ mục đích trên các nhiệm vụ cụ thể được xác định là:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về du lịch, kinh tế du lịch và
phát triển kinh tế du lịch.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai
trong thời gian qua, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân.
+ Đưa ra quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp có khả năng
thực thi nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Lào Cai từ nay đến năm
2015 và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng phát triển của kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai trong thời

gian qua.


Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Lào Cai
+ Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng phát triển
của kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây.




6
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học tạm thời gạch bỏ những yếu
tố thứ yếu để tìm hiểu bản chất bên trong của các hiện tượng kinh tế du lịch cũng
như nghiên cứu sự phát triển của một ngành kinh tế.
- Luận văn cũng đã sử dụng một cách có hệ thống các phương pháp cụ thể
trong quá trình nghiên cứu như: Phương pháp thống kê, lập bảng biểu, phân tích, so
sánh, tổng hợp và khảo sát thực tế…
6. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch và phát triển kinh tế
du lịch.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Lào Cai.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển kinh tế du lịch tỉnh Lào Cai.

















7
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH

1.1. DU LỊCH VÀ CÁC LĨNH VỰC KINH DOANH TRONG DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, du lịch được ghi nhận như một
sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Quá trình phát triển của
du lịch phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau
mà con người đã trải qua.
Thời kỳ đầu xã hội nguyên thủy con người cũng có sự di chuyển từ nơi này
tới nơi khác nhưng hoạt động di chuyển đó do những nguyên nhân như phòng tránh
thiên tai, những xung đột xảy ra trong xã hội hoặc tìm một nơi khác phù hợp hơn để
sinh sống…Trên phạm vi toàn thế giới, hoạt động đi ra ngoài với mục đích là du
lịch bắt đầu từ giai đoạn cuối xã hội Nguyên thủy và được phát triển nhanh chóng ở
thời kỳ xã hội Nô lệ…Khi ngành thủ công nghiệp tách hẳn ra khỏi ngành trồng trọt

và chăn nuôi, ngành thương nghiệp xuất hiện, quan hệ hàng hóa – tiền tệ hình thành
và phát triển thì du lịch lại càng phát triển hơn.
Du lịch được phát triển thêm một bước mới kể từ khi LLSX có những yếu tố
được biến đổi về chất. Biểu hiện, vào thế kỷ thứ XVII, bắt đầu diễn ra cuộc cách
mạng giao thông trên thế giới, đầu máy hơi nước được sử dụng rộng rãi trong các
ngành đường sắt, đường bộ, đường thủy, sau đó là ngành công nghiệp sản xuất ô tô.
Chỉ sau một thời gian ngắn ở Châu Âu và Châu Mỹ mạng lưới đường sắt đã được
hình thành. Trên biển, nhiều tàu thủy lớn nhỏ, đủ chủng loại, hiện đại đi lại khắp
các vịnh trên thế giới. Giao thông trở thành yếu tố quan trọng thúc đẩy giao lưu
mạnh mẽ của con người ở các vùng đất khác nhau làm cho du lịch trở thành hiện
tượng đại chúng và cũng từ đó bắt đầu xuất hiện hàng loạt loại hình du lịch của mọi
tầng lớp khác nhau trong xã hội.


8
Mặc dù hoạt động du lịch đã có nguồn gốc hình thành từ rất lâu và phát triển
với tốc độ rất nhanh, song cho đến nay khái niệm “du lịch” đã được hiểu rất khác
nhau tại các quốc gia khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Đúng như Giáo sư,
Tiến sỹ Berneker – một chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định:
“Đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”.
[7, tr.9]
Tuy chưa có một nhận thức thống nhất về khái niệm “du lịch” trên thế giới
cũng như ở Việt Nam, song trước thực tế phát triển của ngành du lịch về mặt kinh
tế, xã hội cũng như trong lĩnh vực đào tạo, việc nghiên cứu, thảo luận để đi đến
thống nhất khái niệm “du lịch” giống như một số khái niệm cơ bản khác về du lịch
là một đòi hỏi khách quan.
Để lý giải hiện tượng du lịch, năm 1811 lần đầu tiên tại Anh có định nghĩa về
du lịch như sau: “Du lịch là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của
các cuộc hành trình với mục đích giải trí”. [7, tr.15]. Ông Kuns, một người Thụy Sỹ
cho rằng: “Du lịch là hiện tượng những người ở chỗ khác, ngoài nơi ở thường

xuyên, đi đến bằng các phương tiện giao thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch”.
[7, tr.16]. Giáo sư, Tiến sỹ Hunziker và Giáo sư, tiến sỹ Krapf là những người được
coi là đặt nền móng cho lý thuyết về cung du lịch đưa ra khái niệm như sau: “Du
lịch là tập hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành
trình và lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không thành
cư trú thường xuyên và không liên quan đến hoạt động kiếm lời”. [7, tr.16]
Các khái niệm nên trên đã thành công trong việc mở rộng và bao quát đầy đủ
hơn hiện tượng du lịch, đã tiến được một bước về lý thuyết trong nghiên cứu nội
dung của nó, nhưng cũng có những hạn chế như: Chưa giới hạn được đầy đủ đặc
trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và của mối quan hệ du lịch (các mối quan hệ
và hiện tượng nào thuộc loại kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…).
Ở Việt Nam, Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học Kinh tế quốc dân
Hà Nội đưa ra khái niệm: “Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động
tổ chức hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh


9
nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm
hiểu các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh
tế chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp”.
[7, tr.19-20]
Trong Luật Du lịch của Việt Nam, tại điểm 1điều 4 “Du lịch” được nêu như
sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi
cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí,
nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. [1, tr.9]
Trong các khái niệm trên đây (Khoa Du lịch và Khách sạn trường Đại học
Kinh tế quốc dân Hà Nội) mới đề cập đến mặt kinh tế trong hoạt động du lịch, coi
“Du lịch là một ngành kinh doanh” và nêu lên các thành phần tham gia trong các
hoạt động kinh doanh, đích cần đạt được của hoạt động kinh doanh. Trong khái
niệm “Du lịch” của Luật Du lịch mới đề cập đến hiện tượng di chuyển và mục đích

của du khách một cách khái quát chung mà chưa đề cập rõ nét trên hai mặt của du
lịch là đi du lịch và kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Như vậy, trong hai khái niệm
nêu trên chưa có sự gắn kết mặt kinh doanh du lịch (KDDL) và hoạt động thưởng
ngoạn của du khách mặc dù trong thực tế nó đồng thời diễn ra hoạt động cùng một
thời điểm của người đi du lịch và người kinh doanh du lịch.
Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: “Sản xuất, coi là trực tiếp
đồng nhất với tiêu dùng và tiêu dùng coi là trực tiếp ăn khớp với sản xuất, cái đó
các nhà kinh tế học gọi là tiêu dùng sản xuất [17, tr.600]. Theo đó, du lịch là một
hoạt động của con người mà trong quá trình đó đồng thời diễn ra cả hai mặt: Sản
xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch, người đi du lịch là người tiêu dùng các sản
phẩm du lịch, người KDDL là người cung cấp các sản phẩm du lịch, chỉ có hoạt
động diễn ra đồng thời thì mới đảm bảo được một tua du lịch hoàn chỉnh.
Bởi thế, để đưa ra được một khái niệm của hiện tượng đó vừa mang tính khái
quát, vừa có tính lý luận và phản ánh được thực tế hoạt động của nó cần thiết phải
có sự thống nhất biện chứng giữa người cung cấp và người tiêu dùng các sản phẩm,


10
dịch vụ du lịch. Dựa theo cách tiếp cận trên, nên tách thuật ngữ du lịch thành hai
phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu như sau:
Thứ nhất, “du lịch là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời
gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức
khỏe, nâng cao nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc theo
việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên
nghiệp cung ứng.” [27, tr.18]
Thứ hai, “du lịch là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu
cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh.” [27, tr.18]
Như vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần

tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp. Hoạt động du lịch có đặc điểm
của ngành kinh tế, lại có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
1.1.2. Sản phẩm du lịch và tính đặc thù của nó


Sản phẩm du lịch
Đề cập đến bất cứ hoạt động kinh doanh nào chúng ta cũng không thể không
nhắc đến sản phẩm của hoạt động đó. Vì vậy, khi tìm hiểu các khái niệm chung về
du lịch chúng ta cũng phải tìm hiểu xem thế nào là sản phẩm du lịch và những nét
đặc trưng cơ bản của nó. Việc hiểu rõ khái niệm sản phẩm du lịch là khởi điểm của
việc nghiên cứu vấn đề kinh tế du lịch.
“ Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được tạo
nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng
các nguồn lực: cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một
quốc gia nào đó.” [7, tr.31]
Qua khái niệm trên, có thể thấy sản phẩm du lịch là loại sản phẩm có tính
tổng hợp, ngoài sản phẩm vật chất hữu hình, tuyệt đại bộ phận là sản phẩm vô hình
thỏa mãn nhu cầu tinh thần của du khách. Sản phẩm du lịch bao gồm:


11
+ Dịch vụ du lịch là một phần của lao động sống trong ngành du lịch để phục
vụ khách như: Hướng dẫn tham quan, lưu trú, vận chuyển, chăm lo sức khỏe, vui
chơi giải trí và các dịch vụ bổ sung khác…
+ Các hàng hóa trong du lịch: Là những hàng hóa thông thường, tặng phẩm,
đò lưu niệm và các đặc sản…
+ Tiện nghi du lịch: Là tổng thể các điều kiện phục vụ cho khách. Gồm: Tiện
nghi trong phòng, phương tiện thông tin liên lạc, chất lượng vận chuyển, thủ tục Hải
quan…
+ Tài nguyên du lịch: Là nhân tố hàng đầu có liên quan sức hấp dẫn với du

khách và là điều kiện cần để có hoạt động trong du lịch, gồm tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.


Đặc thù của sản phẩm du lịch
Với cấu thành sản phẩm rất đặc biệt như vậy, sản phẩm du lịch cũng có
những đặc điểm khác với sản phẩm vật chất hay dịch vụ khác. Nói một cách tổng
quát, sản phẩm du lịch chủ yếu có đặc điểm dưới đây:
+ Một là, tính tổng hợp: Tính tổng hợp của sản phẩm du lịch biểu hiện trước
hết ở chỗ sản phẩm du lịch là kết hợp các loại dịch vụ mà xí nghiệp dịch vụ liên
quan cung cấp nhằm thỏa mãn các nhu cầu của du khách. Nó vừa bao gồm sản
phẩm lao động vật chất, tinh thần, vừa bao gồm sản phẩm phi lao động và vật tự
nhiên. Thứ nữa tính tổng hợp của sản phẩm du lịch còn biểu hiện ở chỗ việc sản
xuất và kinh doanh sản phẩm du lịch liên quan đến rất nhiều ngành nghề và bộ
phận.
+ Hai là, tính đồng thời của việc sản xuất và tiêu thụ: Việc sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm du lịch được thực hiện đồng thời, tại chỗ, không mang trưng bày hoặc
tiêu thụ ở nơi khác được.
+ Ba là, tính không thể dự trữ: Sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm tiêu
dùng trừu tượng, không lưu kho lưu bãi được. Giống như các sản phẩm dịch vụ
khác, sản phẩm du lịch không bán được thì mất giá trị chứ không để dành trong kho
hoặc cất giữ được. Chính đặc điểm này làm cho tính thời vụ trong hoạt động kinh


12
doanh du lịch càng đậm nét. Sản phẩm du lịch thường được bán trọn gói với các
loại hình, các tuyến điểm với các tiện nghi khác nhau.
+ Bốn là, tính không thể chuyển dịch: Du khách chỉ tiến hành tiêu thụ sản
phẩm du lịch ở nơi sản xuất sản phẩm du lịch chứ không thể như sản phẩm vật chất
nói chung có thể chuyển khỏi nơi sản xuất đi tiêu thụ ở nơi khác. Hơn nữa, trong

quá trình trao đổi sản phẩm du lịch không xảy ra việc chuyển dịch quyền sở hữu sản
phẩm, du khách chỉ có quyền sử dụng tạm thời đối với sản phẩm du lịch trong thời
gian và địa điểm nhất định chứ không có quyền sở hữu sản phẩm.
Do vậy, để tạo sự ăn khớp giữa sản xuất và tiêu dùng là rất khó khăn. Việc
thu hút khách du lịch nhằm tiêu thụ sản phẩm du lịch là vấn đề vô cùng quan trọng
đối với các nhà KDDL. Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường diễn ra không đều
đặn mà chỉ tập trung vào những thời gian nhất định trong ngày (đối với sản phẩm ở
bộ phận nhà hàng), trong tuần (đối với sản phẩm của thể loại du lịch cuối tuần),
trong năm. Vì vậy, trên thực tế hoạt động KDDL thường mang tính mùa vụ. Sự dao
động (về thời gian) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động
kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các nhà KDDL. Khắc
phục tính mùa vụ trong du lịch luôn là vấn đề bức xúc cả về mặt thực tiễn, cũng như
về mặt lý luận trong lĩnh vực KDDL.
1.1.3. Các loại hình du lịch
Để có thể đưa ra các định hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du
lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị doanh nghiệp du
lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau.
Theo tác giả Trương Sỹ Quý thì loại hình du lịch có thể được định nghĩa như
sau: “Loại hình du lịch được hiểu là một tập hợp các sản phẩm du lịch có những đặc
điểm giống nhau, hoặc vì chúng thỏa mãn những nhu cầu, động cơ du lịch tương tự,
hoặc được bán cho cùng một nhóm khách hàng, hoặc vì chúng có cùng một cách
phân phối, một cách tổ chức như nhau, hoặc được xếp chung theo một mức giá bán
nào đó”. [7, tr.71]


13
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau có thể phân du lịch thành các loại
hình du lịch khác nhau.
* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch
Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội

địa.
+ Du lịch quốc tế: Là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến
của khách hàng nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
+ Du lịch nội địa: Là hình thức du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của
khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
* Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch thì du lịch được phân
thành những loại sau:
+ Du lịch chữa bệnh: Ở loại hình này, khách du lịch do nhu cầu điều trị các
bệnh tật về thể xác và tinh thần của họ. Ví dụ như chữa bệnh bằng khí khậu, bằng
nước khoáng…
+ Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Xuất phát từ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí để phục
hồi sức khỏe. Đây là loại hình có tác động thư giãn.
+ Du lịch thể thao: Xuất phát từ sự ham mê thể thao, gồm du lịch thể thao
chủ động (khách đi du lịch để tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao); Du lịch
thể thao thụ động (những cuộc hành trình đi du lịch để xem các cuộc thi thể thao
quốc tế, thế vận hội…)
+ Du lịch văn hóa: Đáp ứng nhu cầu hiểu biết thích nâng cao tìm hiểu nghiên
cứu lịch sử, kiến trúc, danh lam thắng cảnh, chế độ kinh tế, xã hội, văn hóa, phong
tục, tập quán…của nơi đến du lịch.
+ Du lịch công vụ: Mục đích chính của loại hình du lịch này là nhằm thực
hiện nhiệm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó.
+ Du lịch thương gia
+ Du lịch tôn giáo
* Căn cứ vào đối tượng khách du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân
thành:


14
+ Du lịch thanh, thiếu niên
+ Du lịch dành cho những người cao tuổi

+ Du lịch phụ nữ, du lịch gia đình
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được
phân thành:
+ Du lịch theo đoàn: Ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn và
thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó đã định ra nơi sẽ đến thăm, nơi
lưu trú và ăn uống.
+ Du lịch các nhân: Cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ chức
du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác hoặc cá nhân đi du lịch tự do mà
không cần thông qua tổ chức du lịch nào.
* Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng. Theo tiêu thức này, du
lịch được phân thành:
+ Du lịch bằng xe đạp
+ Du lịch bằng xe máy
+ Du lịch bằng xe ô tô
+ Du lịch bằng tàu hỏa
+ Du lịch bằng tàu thủy
+ Du lịch bằng máy bay.
* Căn cứ vào thời gian đi du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân
thành:
+ Du lịch dài ngày
+ Du lịch ngắn ngày.
* Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch được phân thành:
+ Du lịch nghỉ núi
+ Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
+ Du lịch thành phố
+ Du lịch đồng quê.


15
Nhìn chung các loại hình du lịch thường phối hợp chặt chẽ với nhau, do đó,

để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, tổ chức du lịch cần nghiên cứu cách
thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách, tùy
theo sở thích của từng loại khách.
1.1.4. Các lĩnh vực kinh doanh trong du lịch
Trong pháp lệnh Du lịch của Việt Nam tại Chương V, Điều 25 có quy định
về các ngành nghề kinh doanh trong du lịch như sau: “Các ngành nghề kinh doanh
du lịch gồm có:
1. Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế;
2. Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch;
3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
4. Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác”.

Kinh doanh lữ hành:
Khi nói đến hoạt động kinh doanh lữ hành nói chung, tức là muốn đề cập đến
các hoạt động chính như: “Làm nhiệm vụ giao dịch, ký kết với các tổ chức kinh
doanh du lịch trong nước, nước ngoài để xây dựng và thực hiện các chương trình du
lịch đã bán cho khách du lịch.” [7, tr.77]. Tuy nhiên, trên thực tế khi nói đến hoạt
động kinh doanh lữ hành, thường thấy tồn tại các hoạt động phổ biến sau: Thực hiện
các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch trọn gói hay
từng phần; quảng cáo và bán các các chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua
các trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng
dẫn du lịch.


Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch:
Đây là hình thức kinh doanh du lịch cần thiết đối với khách du lịch bởi nó
đáp ứng nhu cầu tối thiểu về ăn ở, chỗ ngủ nghỉ tạm thời cho du khách trong thời
gian đi du lịch. Hơn nữa, trong tiến trình phát triển của kinh tế du lịch, cùng với tài
nguyên du lịch thì việc hình thành những cơ sở lưu trú tốt mới tạo nên dáng vẻ của
một ngành KDDL. Các cơ sở lưu trú gồm: Khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ…



16
Theo quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục Du lịch ban hành ngày
29/04/1995 lĩnh vực hoạt động kinh doanh này còn được quy định là “Kinh doanh
khách sạn, nhà hàng” và được hiểu là “Làm nhiệm vụ tổ chức việc đón tiếp, phục vụ
việc lưu trú, ăn ống, vui chơi giải trí, bán hàng cho khách du lịch”.


Kinh doanh vận chuyển khách du lịch:
Đặc trưng nổi bật của hoạt động du lịch là sự dịch chuyển của con người từ
nơi này đến nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ. Do vậy, khi đề cập đến
hoạt động du lịch nói chung, đến hoạt động KDDL nói riêng không thể không đề
cập đến hoạt động kinh doanh vận chuyển. Kinh doanh vận chuyển là hoạt động
kinh doanh, nhằm giúp cho du khách dịch chuyển được từ nơi cư trú của mình điểm
du lịch cũng như là dịch chuyển tại điểm du lịch.


Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác:
Ngoài các hoạt động kinh doanh như đã nêu ở trên, trong lĩnh vực hoạt động
KDDL còn có một số hoạt động kinh doanh bổ trợ như kinh doanh các loại hình
dịch vụ vui chơi, giải trí; tuyên truyền, quảng cáo du lịch; tư vấn đầu tư du lịch…
1.2. KINH TẾ DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.2.1. Kinh tế du lịch
1.2.1.1. Khái niệm kinh tế du lịch
Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh du lịch.
Kinh tế du lịch (KTDL) từng bước trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt động
kinh tế - xã hội, lấy sự phát triển của các loại hình KDDL, biến các tài nguyên du
lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành những hàng hóa và dịch vụ du lịch
đáp ứng nhu cầu cho du khách. Càng ngày trên thế giới du lịch dần dần được xã hội

hóa, số lượng người đi du lịch ngày càng đông, xuất hiện những nhu cầu cần phải
giải quyết như: Bảo đảm chỗ ăn, chỗ ngủ cho những người tạm thời sống ngoài nơi
cư trú thường xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó, đã xuất hiện các nghề mới
trong dân chúng ở các vùng có tài nguyên du lịch, hàng loạt các cơ sở chuyên phục
vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ cho thuê, giặt
là, mát xa…cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du khách lần lượt ra đời.


17
Từng bước hình thành một ngành nghề mới là ngành KDDL và theo đó xuất hiện
một thị trường mới là thị trường du lịch. Giải thích quá trình vận động phát triển đó
của KTDL, dưới góc độ tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra nhiều cách lập luận.
Thụy Sỹ là nước nhận thức được sớm nhất tầm quan trọng của KTDL đối với
thu nhập kinh tế quốc dân. Năm 1883 đã có tài liệu chính thức đầu tiên được công
bố ở Zurich về ngành khách sạn và năm 1896, Guyer Frenler cho xuất bản cuốn
Góp phần vào thống kê du lịch, đồng thời những công trình khác cũng xuất hiện ở
Áo, Đức, Bỉ, Pháp…Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi du lịch phát triển mạnh mẽ
thì nó mới trở thành đối tượng nghiên cứu có hệ thống, sự kiện đó được đánh dấu
bằng việc thành lập hiệp hội Quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch theo sáng
kiến của hai nhà kinh tế học Thụy Sỹ là Kpaf và Hunziker – một sự kiện có ý nghĩa
về sự tiến triển của việc nghiên cứu du lịch dưới góc độ kinh tế.
Ở Việt Nam trong cuốn Kinh tế du lịch Tiến sỹ Nguyễn Hồng Giáp cho rằng:
“Toàn bộ kinh tế du lịch là một hệ thống gồm những phần nhỏ hay là tiểu hệ thống,
nguyên nó có thể chia nhỏ ra thêm nữa và những biến số độc lập với nhau cho phép
biến đầu vào (nguồn nhân lực, tư bản, nguyên liệu, khoa học kỹ thuật) thành đầu ra
(sản phẩm và dịch vụ) [8, tr.44]. Đây là cách tiếp cận KTDL dưới góc độ lý thuyết
kinh tế học hiện đại theo hướng quan tâm đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia
ở tầm vĩ mô như sản lượng quốc gia, thu nhập quốc dân, tiêu dùng các hộ gia đình,
chi tiêu quốc gia, tiết kiệm, đầu tư, thất nghiệp, việc làm, tổng cung và tổng cầu của
nền kinh tế.

Một cách tiếp cận khác, từ điển Bách khoa Việt Nam cho rằng: “Kinh tế du
lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ và thường được xem
như ngành công nghiệp không khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước,
có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất
nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hóa, lịch sử, vv…) nhằm thu
hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ
hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch…”.[31, tr.586]


18
Định nghĩa tiếp cận theo góc độ này coi KTDL là loại hình kinh tế có tính
đặc thù, tổng hợp, đa dạng. Mọi hoạt động KDDL đều gắn bó với môi trường xã
hội, văn hóa, lịch sử, kinh tế, chính trị, tự nhiên…Các loại dịch vụ, hàng hóa cung
cấp cho du khách được tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các tài nguyên du
lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn với việc sử dụng các nguồn lực: vốn,
khoa học – công nghệ và nguồn lực lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc
gia nào đó. Tại nơi du khách đến du lịch, để thỏa mãn các loại nhu cầu tiêu thụ của
du khách trong quá trình hoạt động du lịch, người KDDL cung cấp những sản phẩm
đơn lẻ cho người đi du lịch có nhu cầu, bao gồm các loại chủ yếu sau đây: Nhà ở,
giao thông du lịch, cung cấp ăn uống, du ngoạn, tham quan, hạng mục vui chơi giải
trí, dịch vụ mua sắm, tuyến du lịch, sắp xếp chương trình và các dịch vụ chuyên
môn khác…
Tuy nhiên, các góc độ tiếp cận và cách định nghĩa trên chưa đề cập, hoặc là
đề cập chưa rõ nét mặt kinh tế - xã hội trong hoạt động KDDL. Mặt kinh tế - xã hội
trong KTDL trực tiếp liên quan đến yếu tố con người – Yếu tố này rất quan trọng
trong quá trình phát triển các loại hình hoạt động kinh doanh. Bởi vì, con người vừa
là chủ thể sáng tạo ra các sản phẩm du lịch nhưng đồng thời cũng là lực lượng trực
tiếp tiêu thụ các sản phẩm đó.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã từng quan niệm rằng: “Sản
xuất không những tạo ra vật phẩm tiêu dùng mà còn tạo ra phương thức tiêu dùng,

điều đó không những về mặt khách quan và cả về mặt chủ quan. Như vậy, sản xuất
tạo ra người tiêu dùng”[17, tr.602]. KTDL là tổng hòa các mối quan hệ giữa các
hiện tượng kinh tế với kinh tế, kinh tế với xã hội của hoạt động du lịch, hình thành
trên cơ sở phát triển sản xuất, trao đổi hàng hóa và nhu cầu về đời sống vật chất,
tinh thần của con người trong xã hội ngày càng không ngừng được nâng cao.
Ngày nay hoạt động KTDL mang tính đại chúng, tính toàn cầu và tính liên
tục, mối liên hệ kinh tế - xã hội trong quá trình đó không ngừng tănng cường, phạm
vi quan hệ kinh tế không ngừng mở rộng, mối quan hệ của nó với toàn bộ nền kinh
tế - xã hội ngày càng phát huy tác dụng và không ngừng được nâng cao. Từ những


19
cơ sở đó cho thấy, để đưa ra khái nệm về KTDL dưới góc độ kinh tế chính trị cần
phải có sự thống nhất nhận thức trên các mặt cơ bản như sau:
- KTDL góp phần phản ánh lực lượng sản xuất xã hội ở một trình độ phát
triển trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nó luôn luôn gắn liền với quá trình phát
triển của con người, thể hiện rõ nét trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của con
người ở một trình độ cao hơn thì sản xuất hàng hóa và dịch vụ đa dạng, phong phú
hơn. Do vậy, quá trình vận động phải thiết lập được một quan hệ sản xuất phù hợp,
đồng bộ tương ứng với lực lượng sản xuất về tính chất và trình độ thì mới thúc đẩy
kinh tế - xã hội loài người phát triển.
- KTDL ngày nay đã và đang trở thành ngành kinh tế có thu nhập cao, tốc độ
phát triển nhanh, là ngành kinh tế mũi nhọn, tổng hợp có liên quan mật thiết với
nhiều ngành kinh tế khác trong một quốc gia của nhiều nước trên thế giới. Nó huy
động được mọi yếu tố của LLSX trong quá trình phát triển. Mục đích, tính chất,
chiến lược, quy hoạch phát triển của KTDL phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản
xuất, thể chế chính trị, quan niệm về vai trò, vị trí ngành du lịch của mỗi quốc gia.
- KTDL góp phần tăng cường mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Mở rộng hướng tiếp cận của con
người với con người, con người với thiên nhiên, giúp cho con người chinh phục, cải

tạo, bảo vệ thiên nhiên có hiệu quả bền vững hơn.
- Quá trình phát triển KTDL góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho con người, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tác động nhiều chiều, đến nhiều
lĩnh vực trong đời sống của một đất nước.
Từ những nhận thức trên, chúng ta có thể hiểu Kinh tế du lịch là một loại
hình kinh tế có tính đặc thù mang tính dịch vụ, nó “phản ánh bước tiến mới của lực
lượng sản xuất trong quá trình tổ chức khai thác các tài nguyên du lịch của đất nước
thành sản phẩm du lịch nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, tổ chức
buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ cho khách du lịch, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người, thúc đẩy kinh tế xã hội phát


20
triển. Ở các quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì có mục đích, tính
chất và chiến lược phát triển kinh tế du lịch khác nhau.” [22, tr.23]
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của kinh tế du lịch
Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của các cá nhân, tổ chức, các nước trong
lĩnh vực du lịch, các đối tượng tiêu dùng sản phẩm du lịch, dịch vụ. Kinh tế du lịch
có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nói đến KTDL tức là đề cập đến các hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực du lịch, trong đó loại hình dịch vụ là chủ yếu.
Trên cơ sở tài nguyên du lịch, chủ thể KDDL (cá nhân hoặc là tổ chức) sản
xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng ngoạn của khách du lịch, sản
phẩm đó có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Sự vận hành của KTDL lấy tiền tệ làm
môi giới, thông qua hoạt động trao đổi sản phẩm du lịch giữa người đi du lịch với
người KDDL, lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp sản phẩm du lịch và
nhu cầu tiêu thụ sản phẩm du lịch làm đặc trưng chủ yếu.
Thứ hai, trong điều kiện thị trường, việc thực hiện thông suốt hoạt động
KTDL được quyết định bởi sự điều hòa nhịp nhàng giữa hai phía cung và cầu du
lịch.

Việc cung cấp sản phẩm du lịch không thể tách rời nhân tố kinh tế - kỹ thuật
và kinh tế - xã hội. Vì thế sự vận hành KTDL tất nhiên chịu ảnh hưởng và chế ước
của những điều kiện kinh tế - xã hội. Hoạt động kinh doanh du lịch có hiệu quả hay
không phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu tiêu thụ của khách. Chất lượng của một sản
phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chênh lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ
cảm nhận về chất lượng của khách du lịch, chất lượng của sản phẩm du lịch được
đánh giá đều mang tính chủ quan, phụ thuộc vào nhu cầu thị hiếu, mức độ thỏa mãn
của du khách đến đâu. Bởi vì, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm du lịch là nhu cầu mang
tính đặc thù tức là những nhu cầu của du khách mà nơi họ sinh sống không thể có
được chứ không phải là những thứ cao cấp hoặc quý hiếm. Trên thị trường du lịch,
ngoài những đặc điểm như thị trường hàng hóa nói chung, hàng hóa du lịch còn có
những đặc điểm khác các hàng hóa thông thường là: Hàng hóa trao đổi giữa hai bên

×