Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 135 trang )



ĐẠI HỌC KINH TẾ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI






HỆ THỐNG HÓA MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM





Học viên: NGUYỄN QUANG VINH







Hà nội: 2007







1
MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết của đề tài
Trong sự nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, xây dựng
một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đầu tư
trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm qua,
hoạt động kinh tế này đã đóng góp không nhỏ vào những thành tựu chung
của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Đầu tư nước ngoài như một mốc quan trọng đánh dấu quá trình mở
cửa trong chính sách đổi mới được khởi xướng từ năm 1986 với nội dung
cốt lõi là chuyển từ nền kinh tế đơn thành phần sang đa thành phần, từ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu sang kinh tế thị trường định hướng XHCN,
từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập sâu vào
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội. Trong thời kỳ 1991 – 1995, GDP tăng bình quân
8,2%/năm; thời kỳ 1996 – 2000 mặc dù chịu ảnh hưởng bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính khu vực, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn
đạt mức bình quân trên 7%. Tổng GDP trong 10 năm 1991 – 2000 đã tăng
hơn gấp đôi và làm thay đổi rõ rệt cục diện kinh tế của Việt Nam. Trong giai
đoạn 2001-2005, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã vượt qua nhiều trở
ngại trong nước và quốc tế, trở thành một bộ phận quan trọng đóng góp cho
phát triển kinh tế. Nếu không tính dầu thô, tổng doanh thu của các doanh
nghiệp ĐTNN từ 1988 tới nay đạt hơn 70 tỷ USD ( trong đó xuất khẩu hơn
26,5 tỷ USD), nộp ngân sách trên 2,9 tỷ USD, tạo việc làm cho 686 nghìn
lao động trực tiếp. Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực
ĐTNN tăng nhanh, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước trong giai
đoạn 1996-2000, lên 31,4% trong giai đoạn 2001-2005 (bằng khoảng 50,4%



2
nếu tính cả dầu thô). Trung bình hàng năm có khoảng 170-200 doanh nghiệp
ĐTNN mới đi vào hoạt động (tăng bình quân 22,7%/năm), tạo việc làm
thêm cho khoảng 100-150 nghìn người (tăng bình quân 30,2%/năm), chưa
kể hàng triệu lao động gián tiếp khác mà theo điều tra của Ngân hàng thế
giới cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp. Vì
vậy, số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đạt khoảng 77 vạn và 83 vạn năm 2005.
Những thành tựu phát triển của nền kinh tế trong giai đoạn qua đã
khẳng định vai trò của hoạt động ĐTNN, cùng với quá trình Hội nhập ngày
càng sâu vào nên kinh tế quốc tế, hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài đóng góp vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả
đầu tư theo các ngành và vùng lãnh thổ Tuy nhiên trong quá trình triển
khai thu hút ĐTNN đã bộc lộ những hạn chế về định hướng, chính sách, cơ
chế và các giải pháp thực hiện.
Để hoàn thánh mục tiêu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao năm
trong thời kỳ 2006 – 2010, phấn đấu đến năm 2010, GDP tăng gấp đôi so
với năm 2001. Nguồn vốn FDI phải đạt 23 tỷ USD, chiếm 18-20% tổng
nguồn vốn đầu tư phát triển của cả thời kỳ.
Đồng thời, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam , là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong
nước với khu vực và quốc tế. Tạo điều kiện cho quá trình đổi mới, cải cách
cơ chế kinh tế diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả hơn.
Từ thực tiễn những năm qua, bên cạnh những thành tựu đóng góp của
khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế,
những hạn chế đã bộc lộ đòi hỏi cần có những nghiên cứu sâu hơn nữa cả về
lý luận và thực tiễn cho hoạt động thu hút ĐTNN nhằm tạo ra một môi
trường đầu tư năng động, hấp dẫn đồng thời tăng cường tính cạnh tranh của



3
nền kinh tế trong lộ trình hội nhập đầy đủ với nền kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ ý tưởng nêu trên, việc nghiên cứu về đề tài “Thu hút
nguồn vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập” là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa về mặt khoa học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Cùng với sự hiện diện của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam từ năm 1986, các nghiên cứu trong lĩnh vực ĐTNN rất phong phú
và đa dạng, được thực hiện bởi các Cơ quan quan quản lý Nhà nước, các Tổ
chức nghiên cứu trong nước và các Tổ chức quốc tế cũng như nghiên cứu
khoa học của các cá nhân.
Nội dung các nghiên cứu tập trung vào các những vấn đề chủ yếu sau:
+ Về phương diện quản lý Nhà nước: các cơ quan quản lý Nhà nước
về ĐTNN thường xuyên đã có các báo cáo tổng kết nhằm đánh giá kết quả
thực hiện các chủ trương chính sách về hoạt động thu hút nguồn vốn ĐTNN
trên các giác độ:
- Đánh giá về hiện trạng hoạt động thu hút ĐTNN.
- Những hạn chế còn tồn tại.
- Xây dựng mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo.
- Phương hướng và các giải pháp thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Đồng thời, các Đề tài nghiên cứu khoa học về ĐTNN của các Bộ
ngành phục vụ công tác quản lý Nhà nước cũng tương đối đầy đủ, tập trung
vào các vấn đề: Phân cấp quản lý Nhà nước trong công tác quản lý ĐTNN,
Xây dựng danh mục thu hút ĐTNN, Dự báo nguồn vốn ĐTNN quốc tế và
khu vực, Khảo sát nghiên cứu nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các khu
vực EU, Nhật Bản, Mỹ
Các tác phẩm cụ thể bao gồm:
- “Tổng kết 17 năm thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”



4
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2003.
- Dự thảo “Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn
2010 và tầm nhìn 2020” của Cục Đầu tư nước ngoài-Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đang trình Thủ tướng Chính Phủ.
- Đề án nghiên cứu:”Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các TNCs
trên thế giới” trong khuôn khổ phối hợp Việt Nam với APEC do Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chủ trì và thực hiện năm 2005
- Tổng kết “Thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001
của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp
nước ngoài thời kỳ 2001 – 2005” do Cục Đầu tư nước ngoài chủ trì và thực
hiện năm 2005.
+ Về các nghiên cứu của các Tổ chức, Viện nghiên cứu trong nước:
đây là nguồn tư liệu quan trọng cho công tác nghiên cứu về ĐTNN tại Việt
Nam. Các nghiên cứu có tầm phổ quát cao, tập trung vào các vấn đề lý luận,
chuyên môn sâu như:
- Lịch sử, cơ sở lý luận hình thành hoạt động ĐTNN trên quy mô toàn
Thế Giới.
- Lý luận về cạnh tranh quốc tế trên thị trường vốn
- Đánh giá hiệu quả nguồn vốn ĐTNN ở Việt Nam trong những năm
qua trên nhiều giác độ.
- Vai trò, ý nghĩa của ĐTNN đối với quá trình tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam.
Các công trình quan trọng:
- TS. Đinh Văn Ân: “Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Báo cáo tại Hội thảo về tác động của
Hội nhập kinh tế tháng 06 năm 2004.
- Th.s Nguyễn Văn Tuấn: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển

kinh tế ở Việt Nam”


5
- TS.Lê Xuân Bá: “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam”.
Những nền tảng cơ sở lý luận, phân tích khoa học trên là cơ sở rất
quan trọng trong việc nghiên cứu vấn đề Thu hút ĐTNN trong thời kỳ mới,
đặc biệt trong bối cảnh 2 bộ luật nền tảng của nền kinh tế mới được xây
dựng: Luật Doanh Nghiệp, Luật Đầu tư. Cần đánh giá đầy đủ những hiệu
ứng tích cực và tiêu cực có thể tạo ra và những định hướng giải pháp mới
cho công tác điều hành hoạt động ĐTNN trong điều kiện Việt Nam tham gia
đầy đủ vào các khuôn khổ kinh tế song phương và đa phương.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tiễn đòi hỏi về những nghiên cứu khoa học phục vụ
công tác quản lý Nhà nước về hoạt động ĐTNN, tác giả nhận thấy cần có
những nghiên cứu, tổng hợp các nghiên cứu về hoạt động Thu hút ĐTNN
trong những năm qua, để có thể đóng góp thêm về những vấn đề cụ thể sau:
- Tổng kết tình hình thu hút ĐTNN trong những năm qua để đánh giá
những thành công và hạn chế trong hoạt động thu hút ĐTNN.
- Trên cơ sở mục tiêu phát triển của thời kỳ mới, xác định rõ các quan
điểm, định hướng thu hút ĐTNN trong bối cảnh Việt Nam là thành viên
WTO và những tác động của các cam kết quốc tế về đầu tư, của Luật Đầu tư
và Luật Doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: của đề tài là các chính sách và thực tiễn hoạt
động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở cấp quốc gia của Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: là hoạt động thu hút và tình hình
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ khi mở của nền kinh
tế 1986 đến nay.




6
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phân tích
tổng hợp, thống kê, so sánh, logíc, lịch sử cụ thể
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Tổng kết tình hình thu hút ĐTNN trong những năm qua để đánh giá
những thành công, hạn chế và thách thức trong hoạt động thu hút ĐTNN.
- Trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập sâu hơn, là thành viên WTO cần
xác định rõ các quan điểm, định hướng và các giải pháp thu hút ĐTNN để tiếp
tục đẩy mạnh nguồn vốn này cho quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.

7. Bố cục của luận văn
Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương với phần mở đầu, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, bảng ký hiệu viết tắt và mục lục.

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về thu
hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

Chƣơng 2: Thực trạng đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam
trong điều kiện hội nhập

Chƣơng 3: Định hƣớng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu
hút ĐTNN tại Việt Nam.







7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÀ KINH NGHIỆM THẾ
GIỚI VỀ THU HÚT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1.1 Khái lƣợc lịch sử cơ sở hình thành và các phƣơng thức thu hút đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Khi nghiên cứu hoạt động đầu tư nước ngoài qua các thời kỳ lịch sử,
cần tập trung nghiên cứu biến động của các yếu tố: thương mại quốc tế; di
chuyển vốn và tài sản; công nghệ và di cư lao động. Đây là những yếu tố bổ
sung, đi kèm và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển quan hệ đầu tư
quốc tế trên thế giới. Các yếu tố này tùy thuộc vào mỗi thời kỳ lịch sử mà có
thể được tạo điều kiện phát triển hay bị cản trở tại những quốc gia tiếp nhận
đầu tư quốc tế, chính sách đầu tư quốc tế, tình hình chính trị trên thế giới.
Theo UNCTAD, phân kỳ lịch sử đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới có
thể tạm được chia thành các giai đoạn phát triển sau
1
:
Thứ nhất, giai đoạn từ năm 1870 đến năm 1913: Đây là kỷ nguyên
vàng của quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất khẩu không chỉ tăng ở
những nước phát triển mà còn tăng ở cả các nước đang phát triển (châu Mỹ
La tinh). Di cư lao động quốc tế được tự do, không gặp bất kỳ trở ngại nào
và tăng nhanh. Cụ thể là từ năm 1870 đến năm 1915 đã có trên 36 triệu
người châu Âu di cư và gần 2/3 số này đã đến Hoa Kỳ. Số người Trung
Quốc và Ấn Độ di cư đến một số nước như Miến Điện, Indonesia, Malaysia,
Sri Lanka và Thái Lan trong thời kỳ này cũng tăng nhanh vượt cả số người

di cư từ châu Âu. Trong thời kỳ này đã đánh dấu sự chuyển dịch từ nền kinh
tế nông nghiệp sang công nghiệp thông qua cuộc cách mạng công nghiệp


1
World Investment Report 1994-United Nations – 1994, trang 234.


8
diễn ra ở một số nước phương Tây như: cách mạng công nghiệp ở Anh (thế
kỷ XVIII), cách mạng công nghiệp ở Pháp (thế kỷ XIX) đã tạo điều kiện
phát triển khoa học, công nghệ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời kỳ
này đã đạt khoảng 14 tỷ USD, chiếm 1/3 tổng vốn đầu tư trên toàn thế giới.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển và các nước kém phát triển hay nói cách khác,
phần lớn đầu tư trực tiếp nước ngoài là để khai thác thuộc địa. Nước Anh là
nước đứng đầu trong danh sách các nước đi đầu tư, chiếm 45%. Hoa Kỳ là
nước tiếp nhận đầu tư lớn nhất và một số lượng vốn FDI cũng đã được đầu
tư vào các nước châu Mỹ La tinh, Trung Quốc và một số nước kém phát
triển ở châu Âu. Do sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật, bên cạnh đầu tư vào
các ngành công nghiệp truyền thống như: dệt may, luyện kim đã xuất hiện
đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các lĩnh vực mới (chế tạo máy, sản xuất
thép và hóa học).
Thứ hai, giai đoạn từ năm 1914 đến năm 1945: Đây là thời kỳ xảy ra
Chiên tranh thế giới lần thứ nhất và Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong
thời gian xảy ra hai cuộc chiến tranh này, những mối liên kết kinh tế giữa
các quốc gia được thiết lập từ trước đã gần như bị phá vỡ; hệ thống tài chính
thế giới hoạt động không ổn định; dòng vốn đầu tư dài hạn từ các nước công
nghiệp phát triển sang các nước kém phát triển bị gián đoạn và hoạt động
thương mại thế giới bị hạn chế. Tuy vậy, đầu tư nước ngoài là lĩnh vực ít

chịu ảnh hưởng của hai cuộc đại chiến này so với các lĩnh vực khác. Từ năm
1914 đến năm 1938 vốn FDI tăng gần gấp đôi so với giai đoạn thứ nhất đạt
26 tỷ USD. Trong thời kỳ này đánh dấu sự thu hút vốn FDI của Hoa Kỳ,
lượng vốn FDI vào Hoa Kỳ đã tăng từ dưới 20% đến trên 28%, ngược lại
vốn FDI của nước Anh giảm từ 45% xuống 40%. Do ảnh hưởng của hai
cuộc chiến tranh thế giới nên di cư lao động và phát triển khoa học, công
nghệ trong thời kỳ này cũng bị hạn chế.


9
Thứ ba, giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990: Chiến tranh thế giới
lần thứ hai kết thúc đã đánh dấu quá trình khôi phục hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Khoa học, công nghệ thời kỳ hậu Chiến tranh thế giới thứ
hai đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải và truyền
thông. Sự phát triển của khoa học, công nghệ đã góp phần vào quá trình thúc
đẩy hoạt động FDI do làm giảm chi phí của các doanh nghiệp. Để bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, nhất là những sáng chế, phát minh liên quan đến công
nghệ tiên tiến, Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) trong thời kỳ này cũng
được thành lập vào năm 1967. Về thương mại, năm 1947 Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại cũng được ký kết (GATT 47) cơ bản đã loại bỏ sự
phân biệt đối xử giữa hàng hóa và dịch vụ trong nước với nước ngoài, cắt giảm
thuế quan và tạo điều kiện tự do hóa thương mại giữa các quốc gia trên thế
giới. Những chuyển biến này liên quan đến quá trình hội nhập của nền kinh tế
thế giới đã dẫn đến ngay từ đầu năm 1950, hoạt động thương mại quốc tế phát
triển nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng thương mại tăng nhanh hơn tốc độ tăng
trưởng sản xuất sản phẩm. Đặc biệt là ngành sản xuất sản phẩm để xuất khẩu
tăng trưởng rất nhanh. Về di cư lao động, không giống như thời kỳ trước Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, di cư lao động đã bị hạn chế và được thắt chặt thông
qua Luật nhập cư của các nước trên thế giới.
Khác với giai đoạn từ năm 1870 đến năm 1913, FDI chủ yếu là từ các

nước tư bản phát triển sang các nước thuộc địa hoặc các nước kém phát triển
thì giai đoạn này luồng đầu tư đã có sự thay đổi. Đã xuất hiện đầu tư giữa
các nước tư bản phát triển hoặc giữa các nước đang phát triển với nhau. Đầu
tư trực tiếp nước ngoài đã tăng rất nhanh sau thế chiến thứ hai, đặc biệt là
tăng mạnh trong thập niên giữa năm 1980 đến năm 1985. Vốn FDI đã tăng
từ 68 tỷ USD từ năm 1960 đến 2,1 nghìn tỷ USD vào năm 1990 với tỷ lệ
tăng trưởng hàng năm là 11%. Trong thời kỳ này đã chứng kiến sự phát triển


10
hàng loạt các công ty đa quốc gia (TNCs). Vào đầu năm 1990 đã có 37.000
TNCs. Những công ty xuyên quốc gia này chủ yếu nằm trong 14 nước phát
triển với tổng số chinh nhánh của 37.000 TNCs là 206.000 chi nhánh. Xu
hướng đầu tư vào những ngành công nghiệp từ năm 1970 của thế kỷ XX đã
có sự sụt giảm., thay vào đó là đầu tư vào những ngành dịch vụ đã tăng lên.
Việc chuyển hướng đầu tư vào những ngành dịch vụ trên thế giới đã tạo điều
kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó tỷ trọng vốn
FDI của lĩnh vực dịch vụ là lớn nhất, chiếm 50% tỷ trọng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của một nước đi đầu tư. Về khung chính sách đầu tư, ngay
từ năm 1974, thỏa thuận về các nguyên tắc chủ yếu đối với FDI đã được
soạn thảo trong Hiến chương Havana, nhưng không được thông qua. Sau đó,
những thỏa thuận đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài
tiếp tục được đàm phán, tuy nhiên vẫn không có kết quả gì. Để bảo đảm cho
hoạt động đầu tư quốc tế phát triển, các quốc gia đã bắt đầu ký kết những
hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương từ giữa những năm
60 của thế kỷ XX. Cuối cùng, một trong những điểm nổi bật của giai đoạn
này đó là chính sách tự do hóa đầu tư bắt đầu được hình thành và phát triển
từ giữa năm 1980.
Thứ tư, giai đoạn từ năm 1991 đến nay. Giai đoạn này cho thấy nền
kinh tế thế giới bắt đầu đi vào quá trình hội nhập sâu rộng. Nhiều tổ chức

kinh tế khu vực và thế giới đã được thành lập như: NAFTA (năm 1992),
WTO (năm 1995), EU (năm 1996) đã có những tác động lớn đối với hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tự do hóa đầu tư so với thời gian đầu tư
từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX nay đã đi vào chiều sâu, nhiều biện pháp
tự do hóa đầu tư của các nước cũng như các tổ chức khu vực và thế giới đã
được hình thành nhằm hỗ trợ hoạt động FDI phát triển. Cụ thể là Hiệp định
về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO, Nghị định thư về khu vực đầu tư


11
ASEAN Thời kỳ này cũng chứng kiến sự bùng nổ về ký kết các hiệp định
đầu tư song phương (BITs), kể từ đầu năm 1991 đến nay con số các BITs
được ký kết giữa các nước đang phát triển với nhau. Đến năm 2002, đã có
2.181 BITs trên thế giới được ký kết. Dòng FDI bắt đầu tăng nhanh, giai đoạn
từ năm 1991 đến năm 1995: tăng 21,1% và giai đoạn từ năm 1996 đến năm
2000: tăng 40,2% và có dấu hiệu suy giảm từ năm 2001 trở đi. Cụ thể năm
2001: giảm 41%, năm 2002: giảm 21%, năm 2003: giảm 18%. Cấu trúc của
FDI đã thay đổi theo hướng đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực dịch vụ. Đầu những
năm 70 của thế kỷ XX, vốn FDI trong lĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm 1/3 thì đầu
năm 1991 chiếm tỷ lệ gần 50% và hiện nay đã chiếm hơn 60% vốn FDI toàn
cầu. FDI trong lĩnh vực sản xuất đã giảm xuống từ 42% xuống còn 34%.
1.1.2 Nguyên nhân hình thành của hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI) ngày
càng có vai vai trò quan trọng đối với nước tiếp nhận đầu tư và nước đi đầu
tư. Chính vì vai trò quan trọng của nó mà có rất nhiều quan điểm của các
nhà kinh tế học nhằm lý giải nguyên nhân hình thành và phát triển của hiện
tượng này. Hiện nay, chủ yếu có hai trường phái lý giải sự hình thành và
phát triển của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đó là quan điểm của các
nhà kinh tế học tư bản và xã hội chủ nghĩa.

Quan điểm của các nhà kinh tế học tư bản, đại diện là Adam Smith
(năm 1776), Thomas Malthus (năm 1798), David Ricardo (năm 1817) và
sau này là Vernon (năm 1966), Kojima (năm 1973), Hymer (năm 1976),
Dunning (năm 1988) cho rằng hoạt động đầu tư quốc tế được hình thành
và phát triển do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Xuất phát từ học thuyết về phân công lao động quốc tế dựa trên lợi
thế so sánh và thương mại quốc tế, các nhà kinh tế học cổ điểm cho rằng


12
khởi nguyên của quan hệ kinh tế giữa các quốc gia bắt nguồn từ hoạt động
thương mại quốc tế. Bằng học thuyết “Lợi thế so sánh – Comparative
advantages”, David Ricardo (năm 1817) cho rằng mỗi quốc gia trên thế giới
đều chuyên môn hóa sản xuất ra một hoặc một số nhóm sản phẩm với chi
phí sản xuất thấp hơn so với quốc gia khác và tiến hành xuất khẩu hàng hóa
này sang quốc gia đó
2
. Đồng thời, quốc gia này cũng dành cơ hội để quốc
gia khác sản xuất và xuất khẩu sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn chi
phí sản xuất do nước mình tiến hành mà không phụ thuộc vào quy mô sản
xuất và trình độ phát triển. Lợi thế so sánh chính là nguyên nhân hình thành,
phát triển quan hệ thương mại quốc tế giưa các quốc gia với nhau và cũng
cho thấy trình độ phát triển về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia cơ bản
là rất khác nhau. Như vậy, thương mại quốc tế là quan hệ đầu tiên, cơ bản
và làm phát sinh quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia sau này. Tuy
nhiên, do có sự chênh lệch về lực lượng sản xuất giữa các quốc gia và những
trở ngại trong hoạt động thương mại quốc tế đã hình thành và phát triển
quan hệ đầu tư giữa các quốc gia. Dưới góc độ nước tiếp nhận đầu tư, để
phát triển một số ngành sản xuất với điều kiện chưa cho phép hoặc sản xuất
với chi phí cao thay vì phải nhập khẩu, quốc gia tiếp nhận đầu tư đã kêu gọi

đầu tư từ những quốc gia có thế mạnh về những ngành công nghiệp đó.
Dưới góc độ của nước đi đầu tư, những nước này mong muốn đầu tư tại
những nước có trình độ phát triển thấp hơn để tận dụng chi phí sản xuất rẻ
và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Tại những nước công nghiệp phát triển, do phải đối mặt với môi
trường cạnh tranh gay gắt nên tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp sản
xuất tại những quốc gia này là rất thấp. Do vậy, các doanh nghiệp thường có
xu hướng chuyển vốn, công nghệ và tài sản ra những nước có môi trường


2
Paul A.Samuelson và William D.Nordhaus, Economics (tái bản lần thứ 14), McGraw-Hill, trang 478.


13
cạnh tranh kém hơn với chi phí sản xuất rẻ hơn nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn và đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thường đối mặt với vấn
đề thiếu vốn, công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý. Chính vì những nhu
cầu này đã tạo điều kiện cho việc di chuyển vốn, công nghệ phát triển sang
các nước đang phát triển.
Xu hướng bảo hộ mậu dịch ngày càng tăng nên đầu tư nước ngoài là một
biện phát hữu hiệu nhằm xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường; tránh được hàng rào
bảo hộ thuế quan và phi thuế quan; giảm chi phí vận chuyển hàng hóa.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa cho rằng sự phát triển của đầu
tư trực tiếp nước ngoài dựa trên xuất khẩu tư bản. Khi nghiên cứu giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản, Lênin đã nêu ra một trong năm đặc trưng
quan trọng của chủ nghĩa đế quốc đó là xuất khẩu tư bản
3

. Theo Lênin:
“Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản cũ, trong đó chế độ cạnh tranh hoàn toàn
thống trị là việc xuất khẩu hàng hóa. Đặc điểm của củ nghĩa tư bản hiện
đại, trong đó tổ chức độc quyền nắm quyền thống trị là xuất khẩu tư bản”
4
.
Xuất khẩu tư bản là một nhu cầu tất yếu khách quan. Bởi vì, tại một số nước
phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản kếch sù và một bộ phận đã
trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi nhuận
cao ở trong nước. Các nước phát triển muốn xuất khẩu tư bản của mình để
tranh thủ lao động, nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên rẻ ở các nước
kém phát triển, thiếu tư bản. Xét về khía cạnh đầu tư thì xuất khẩu tư bản
tồn tại dưới hai hình thức đó là: xuất khẩu tư bản dưới hình thức gián tiếp
hay đầu tư gián tiếp; xuất khẩu tư bản dưới hình thức trực tiếp hay đầu tư


3
TS.Cao Liên: “Phác thảo lịch sử Thế giới”, Nxb Thanh niên, H.2003, trang 124.
4
Lê Nin: “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa Tư Bản” Nxb.Sự thật, H.1957, trang 435.


14
trực tiếp. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là hình thức đầu tư gián tiếp dưới dạng
cho vay, thu lãi thông qua ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng quốc tế hoặc
quốc gia mà các nhà tư bản cho các nước khác vay, chủ yếu là các nước
thuộc địa để phát triển kinh tế. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài thông qua việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp tại
các nước khác (các nước thuộc địa), có sự quản lý trực tiếp của các nhà tư
bản với tài sản được các nhà tư bản đầu tư để xây dựng các nhà máy.

Bên cạnh việc lý giải nguyên nhân của đầu tư nước ngoài thông qua
xuất khẩu tư bản, các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa cho rằng chủ nghĩa tư
bản đã thiết lập quan hệ đầu tư quốc tế từ các nước tư bản phát triển sang
các nước thuộc địa nhằm tìm kiếm lợi nhuận, khai thác tài nguyên thiên
nhiên và duy trì sự áp bức bóc lột tại hệ thông thuộc địa do mình quản lý.
1.2 Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
1.2.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức
kinh tế quốc tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính sách
kinh tế vĩ mô về FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hoá thương mại
và đầu tư quốc tế và phân loại, sử dụng trong công tác thống kê quốc tế. Quỹ
tiền tệ thế giới (International Moneytary Fund - IMF), trong Báo cáo cán cân
thanh toán hàng năm đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực tiếp ngoài như
sau:“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh
nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư – hosting country), không phải tại
nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư – source country) với
mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp”.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic
Cooperation and development – OECD) cũng đưa ra định nghĩa về đầu tư
trực tiếp nước ngoài tương tự như IMF. Tuy vậy, OECD có quan niệm rất


15
rộng về nhà đầu tư nước ngoài. Theo quan điểm của OECD, nhà đầu tư
nước ngoài là cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan Chính phủ hoặc
không thuộc cơ quan Chính phủ đầu tư tại nước ngoài.
Uỷ ban thương mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD),
trong Báo cáo đầu tư thế giới năm 1996 đã đưa ra định nghĩa về đầu tư trực
tiếp nước ngoài như sau:“Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên
hệ, lợi ích và sự kiểm soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà

đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở
một nền kinh tế khác (doanh nghiệp FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc
chi nhánh doanh nghiệp”.
UNCTAD còn đưa ra một số khái niệm khác có liên quan đến đầu tư
trực tiếp nước ngoài. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, dòng vốn FDI ra và dòng vốn FDI vào là vốn được nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào doanh nghiệp FDI tại nước tiếp nhận đầu tư.
Cùng với khái niệm này, có ba khái niệm sau:
- Vốn đầu tư cổ phần là cổ phần của nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
mua từ doanh nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư, không phải cổ phần của
doanh nghiệp trong nước tại nước đi đầu tư.
- Lợi nhuận tái đầu tư là cổ tức không được chuyển cho nhà đầu tư
nước ngoài mà được giữ lại nhằm mục đích tái đầu tư.
- Các giao dịch vay và nợ bên trong công ty là các khoản vay ngắn
hạn hoặc dài hạn giữa công ty mẹ và công ty thành viên.
Thứ hai, vốn cổ phần đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign – Direct –
Investment stock) là giá trị của cổ phần và vốn dự trữ (bao gồm cả lợi
nhuận giữ lại) thuộc về công ty mẹ, cộng thêm các khoản nợ ròng của các
công ty thành viên.
Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành đầu tư


16
lớn nhất thế trên thế giới cung đưa ra định nghĩa về FDI: “FDI là bất kỳ
dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi
đầu tư có được từ việc cho vay hoặc dùng để mua sở hữu của doanh nghiệp
nước ngoài” và Hoa Kỳ coi việc sở hữu đa phần chỉ cần chiếm 10% giá trị
của doanh nghiệp nước ngoài.
Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 2
Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi năm 2000: “Đầu tư trực tiếp nước

ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc
bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật
này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Qua các định nghĩa về FDI, có thể rút ra
định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ
nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát
doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi”.
1.2.2. Bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Qua nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của đầu tư trực tiếp
nước ngoài qua các thời kỳ có thể nhận thấy bản chất của đầu tư trực tiếp
nước ngoài là nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích đầu tư hay tìm kiếm lợi
nhuận thông qua di chuyển vốn (bằng tiền và tài sản, công nghệ và trình độ
quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận
đầu tư. Nhà đầu tư ở đây bao gồm tổ chức hay cá nhân chỉ mong muốn đầu
tư khi cho rằng khoản đầu tư đó có thể đem lại lợi ích hoặc lợi nhuận cho
họ. Đây là một trong những đặc điểm cơ bản nhất và là nguyên nhân sâu xa
dẫn đến việc hình thành hoạt động FDI giữa các quốc gia.
FDI có một số đặc điểm sau:
- FDI là một dự án mang tính lâu dài. Đây là đặc điểm phân biệt giữa


17
đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp (portfolio investment). Đầu
tư gián tiếp thường là các dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu
nhập thông qua việc mua, bán chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu). Đầu
tư gián tiếp có tính thanh khoản cao hơn so với đầu tư trực tiếp, dễ dàng thu
lại số vốn đầu tư ban đầu khi đem bán chứng khoán và tạo điều kiện cho thị
trường tiền tệ phát triển ở những nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước

ngoài. Đây cũng là một trong những đặc điểm để phân biệt giữa đầu tư trực
tiếp với đầu tư gián tiếp. Trong khi đầu tư gián tiếp không cần sự tham gia
quản lý doanh nghiệp, các khoản thu nhập chủ yếu là các cổ tức từ việc mua
chứng khoán tại các doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư, ngược lại nhà đầu tư
trục tiếp nước ngoài có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh
nghiệp FDI. Tuy vậy, nhà đầu tư nước ngoài phải có bao nhiêu phần trăm cổ
phần mới được phép tham gia quản lý doanh nghiệp FDI? Theo hướng dẫn
của OECD và Bộ Thương mại Hoa Kỳ thì nhà đầu tư nước ngoài phải chiếm
tối thiểu 10% cổ phiếu thường hoặc quyền bỏ phiếu trong các doanh nghiệp
FDI để cho nhà đầu tư có tiếng nói hay tham gia quản lý trong các doanh
nghiệp FDI.
- Đi kèm với dự án FDI là ba yếu tố: hoạt động thương mại (xuất
nhập khẩu); chuyển giao công nghệ; di cư lao động quốc tế, trong đó di cư
lao động quốc tế góp phần vào việc chuyển giao kỹ năng quản lý doanh
nghiệp FDI.
- FDI là hính thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “chu kỳ tuổi thọ
kỹ thuật” và “nọi bộ hoá di chuyển kỹ thuật”. Trên thực tế, nhất là trong nền
kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến kỹ thuật sản xuất, kinh doanh
đã buộc nhiều nhà sản xuất phải lựa chọn phương thức đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài như là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mình.


18
Ngoài ra, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ giúp cho doanh nghiệp thay đổi
được dây chuyền công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận
ở nước có trình độ phát triển thấp hơn và góp phần kéo dài chu kỳ sản xuất.
- FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và bên kia
là nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách về
FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thể hiện chính sách mở cửa và quan

điểm hội nhập quốc tế về đầu tư.
1.2.3 Một số học thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Do tính chất quan trọng của việc phát triển quan hệ đầu tư giữa các
quốc gia trên thế giới, nhiều học thuyết kinh tế về FDI đã được các nhà kinh
tế học nghiên cứu và phát triển. Những học thuyết này được hình thành
nhằm mục đích lý giải nguồn gốc hình thành và phát triển của FDI; sự vận
động của các yếu tố sản xuất, đặc biệt là ba yếu tố: vốn, lao động và công
nghệ; vai trò của các công ty TNCs trong đầu tư quốc tế; lý giải sự thành
công của một số quốc gia trong việc thu hút và sử dụng FDI; giúp các quốc
gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về FDI. Các học thuyết kinh tế về
FDI có thể được phân loại căn cứ vào tính chất kinh tế vĩ mô và vi mô. Cac
học thuyết kinh tế vĩ mô giải thích hiện tượng di chuyển vốn quốc tế là do
có sự chênh lệch về hiệu quả của các yếu tố đầu tư, còn các học thuyết kinh
tế vi mô thì lại tìm nguyên nhân hình thành FDI như là kết quả của tự nhiên
của quá trình phát triển của doanh nghiệp. Sau đây là một số học thuyết kinh
tế tiêu biểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.3.1. Học thuyết kinh tế vi mô về FDI
* Học thuyết về tổ chức sản xuất (Industrial Organisation Hypothesis)
Học thuyết về tổ chức sản xuất do nhà kinh tế học Stephen Hymer
(năm 1976) xây dựng và được Kindleber, Caves và Dunning kế thừa, phát


19
triển Nội dung của học thuyết lý giải nguyên nhân đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp. Đầu tư nước ngoài chỉ xảy ra khi doanh nghiệp của nước
đi đầu tư có lợi thế hơn doanh nghiệp ở nước tiếp nhận đầu tư (độc quyền
hoặc bán độc quyền). Đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp là nhu cầu
từ nhiên, kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng, phát triển của doanh
nghiệp cũng như nhằm mục đích kéo dài chu kỳ vận động của doanh nghiệp.
Stephen Hymer quan niệm đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp là một

dạng của quá trình vận động của doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hoá lợi
nhuận ở những thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Các nhà kinh tế học sau này đã phát triển quan hiệm của Hymer
thông qua so sánh doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp của nước nhận đầu
tư. Khi một doanh nghiệp của nước đi đầu tư thành lập chi nhánh của mình
tại các nước tiếp nhận đầu tư thì thường có ít lợi thế cạnh tranh hơn so với
các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư. Lợi thế kém cạnh tranh có thể
là ngôn ngữ, văn hoá, pháp luật Tuy vậy, bên cạnh nhưng bất lợi so với
các doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư thì doanh nghiệp FDI có một số
lợi thế nhất định, đó là vốn, tài sản vô hình (công nghệ, thương hiệu), kỹ
năng tổ chức và quản lý Hai nhà kinh tế học Lall và Streeten đã tiến hành
so sánh những lợi thế của doanh nghiệp FDI (Bảng 1.1). Doanh nghiệp FDI
sử dụng những lợi thế này như những công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh,
phù hợp với quá trình phát triển tự nhiên của doanh nghiệp, nhằm mục đích
tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp FDI, làm cho hoạt động đầu tư nước
ngoài phát triển ở những nước tiếp nhận đầu tư.



20
Bảng 1.1 Lợi thế của doanh nghiệp FDI so với
doanh nghiệp nƣớc tiếp nhận đầu tƣ

Lợi thê
Mô tả
Vốn
Có vốn lớn và chi phí vốn thấp hơn doanh nghiệp trong nước
Trinh độ
quản lý
Có trinh độ quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có khả năng dự

báo và xác định rủi ro cũng như lợi nhuận tốt hơn.
Công nghệ
Có công nghệ tiên tiến, có khả năng ứng dụng công nghệ vào
sản xuất, có khả năng phát minh ra công nghệ mới và áp dụng
trong sản xuất
Marketing
Có khả năng nghiên cứu thị trường, quảng cáo và phân phối
sản phẩm
Mua nguyên
vật liệu
Có những ưu đãi trong việc tìm kiếm và mua nguyên vật liệu
phục vụ cho quá trình sản xuất.
Thoả thuận
với Chính
Phủ
Có khả năng đàm phán, thoả thuận để được hưởng những ưu
đãi từ phía Chính Phủ của nước tiếp nhận đầu tư
Nguồn: Imad A moosa, FDI Theory, Evidence and Practice, Palgrave

* Học thuyết vòng đời sản phẩm (Product Life Cycle Hypothesis)
Học thuyết vòng đời sản phẩm do nhà kinh tế học Vernon (năm 1966)
xây dựng, nhằm giải thích đầu tư ra nước ngoài hay sự “bành trướng ra
nước ngoài” của các công ty đa quốc gia (TNCs) Hoa Kỳ sau Chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Nội dung của học thuyết cho rằng chu kỳ của sản phẩm
phát triển qua ba giai đoạn: tạo ra sản phẩm; sản phẩm đi vào quá trình sử
dụng và sản phẩm đi vào giai đoạn lỗi thời. Tương ứng với ba giai đoạn phát
triển của sản phẩm là ba bước doanh nghiệp tiến hành đưa sản phẩm vào:
tiêu dùng; mở rộng tiêu thụ sản phẩm và chuẩn hoá sản phẩm. Dưới đây là
ba giai đoạn vòng đời của sản phẩm.




21
- Giai đoạn I: Sản phẩm được chế tạo và sản xuất tại nước đi đầu tư
(nước gốc – Source Country), trong giai đoạn này sản phẩm mới được chế
tạo nên mới chỉ mang tính chất thử nghiệm. Do vậy, việc sản xuất sản phẩm
gắn liên với nhu cầu của khách hàng nhằm mục đích nghiên cứu hoàn thiện
sản phẩm. Cầu theo giá của sản phẩm mới ở giai đoạn này là không co giãn
và các doanh nghiệp thường bán sản phẩm với giá cao và số lượng ít.
- Giai đoạn II: Khi trải qua giai đoạn I, sản phẩm đã được hoàn thiện
hơn. Giai đoạn này đánh dấu sự phát triển của sản phẩm, số lượng sản phẩm
được bán ra rất nhiều và cầu theo giá của sản phẩm đã co giãn. Sản phẩm
được xuất khẩu sang những nước có thu nhập cao (những nước phát triển).
Cầu về sản phẩm ở những nước nhập khẩu tăng dẫn đến kích thích sản xuất,
tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp bắt đầu tiến
hành đầu tư ở nước nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu về sản phẩm ở những
nước này. Trong giai đoạn này, nước gốc là nước xuất khẩu ròng còn nước
tiếp nhận đầu tư là nước nhập khẩu ròng.
- Giai đoạn III: Tại giai đoạn này, sản phẩm đã được chuẩn hoá về
chất lượng, các doanh nghiệp ở nước gốc không còn đóng vai trò là doanh
nghiệp độc quyền về sản xuất và phân phối sản phẩm cũng như độc quyền
về công nghệ sản xuất nữa. Đã có nhiều doanh nghiệp sản xuất loại sản
phẩm đó và có sự cạnh tranh về giá giữa các doanh nghiệp với nhau. Do
vậy, để tìm kiếm thị trường và lợi thế so sánh về chi phí sản xuất sản phẩm
(giá nhân công, nguyên, nhiên vật liệu ) các doanh nghiệp gốc (đầu tiên)
chế tạo ra sản phẩm đã tiến hành đầu tư tại các nước đang phát triển. Sản
phẩm tiếp tục được sản xuất ra tại những nước đang phát triển và được nhập
khẩu ngược trở lại ở những nước đi đầu tư. Nước đi đầu tư trở thành nước
nhập khẩu thuần tuý và nước tiếp nhận đầu tư trở thành nước xuất khẩu.
Mục đích của học thuyết cuối cùng cũng chỉ để giải thích nguyên nhân tiến



22
hành đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nước đi đâu tư, đặc biệt là
đối với những doanh nghiệp sản xuất sản phẩm có trình độ khoa học công
nghệ cao.

Đồ thị 1.1. Vòng đời sản phẩm _ Vernon



* Học thuyết bắt kịp vòng đời sản phẩm (Catching – up Product
Cycle Hypothesis)

Học thuyết bắt kịp vòng đời sản phẩm do nhà kinh tế học Nhật Bản
Akamatsu, Giáo sư Trường Đại học Hitotsubashi xây dựng. Nội dung của
học thuyết chủ yếu lý giải đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang
phát triển, trong đó Nhật Bản được coi là một ví dụ điểm hình sau Chiến
tranh thế giới lần thứ hai. Theo học thuyết thì sản phẩm bắt đầu chu kỳ của
mình khi được nhập khẩu vào các nước đang phát triển. Sản phẩm mang
tính mới và có chất lượng cao, đặc biệt là có hàm lượng khoa học công nghệ
cao nên đã được chấp nhận ở thị trường các nước nhập khẩu. Cầu theo giá
của sản phẩm co giãn. Cầu sản phẩm tăng dẫn đến các nhà sản xuất nước
ngoài thay vì xuất khẩu sản phẩm mà trực tiếp tổ chức sản xuất sản phẩm tại


23
chính các nước nhập khẩu. Việc tổ chức sản xuất tại các nước nhập khẩu
chính là quá trình đầu tư trực tiếp ở những nước này và được hỗ trợ bởi các
bí quyết về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, thương hiệu Quá trình tổ

chức sản xuất phát triển, hiệu quả sản xuất của nền kinh tế tăng và giảm chi
phí sản xuất sản phẩm. Đây chính là giai đoạn thay thế nhập khẩu bằng quá
trình sản xuất trong nước. Trong giai đoạn thay thế nhập khẩu, một số nước
đã có những biện pháp để bảo hộ ngành sản xuất mới được hình thành thông
qua các biện pháp thuế quan, chống bán phá giá, chống trợ cấp

Đồ thị 1.2: bắt kịp vòng đời sản phẩm



Khi chi phí sản xuất sản phẩm đạt mức ngang bằng chi phí sản xuất
trên thế giới và thị trường sản phẩm cũng được phát triển ở các nước khác
trên thế giới đã dẫn đến tình trạng các nước nhập khẩu hay nước tiếp nhận
đầu tư xuất khẩu sản phẩm đó ra thị trường nước ngoài. Trong giai đoạn
này, để thực hiện xuất khẩu sản phẩm ra thị trường thế giới thì giá của sản
phẩm phải thấp hơn giá quốc tế, chất lượng sản phẩm phải đảm bảo. Việc


24
xuất khẩu ra thị trường thế giới đã tạo điều kiện cho ngành sản xuất sản
phẩm đó phát triển.
Kết hợp quá trình nhập khẩu sản phẩm, sản xuất sản phẩm và xuất
khẩu sản phẩm nêu trên được gọi là “Bắt kịp vòng đời sản phẩm” ở những
nước đang phát triển
1.2.3.2. Học thuyết kinh tế vĩ mô về đầu tư trực tiếp nước ngoài
* Học thuyết MacDougall – Kemp (Học thuyết lợi nhuận cận biên
của vốn – Marginal Product of Capital Hypothesis)
Học thuyết MacDougall – Kemp được G.D.A MacDougall xây dựng
và được Murray C.Kemp kế thừa và phát triển. Học thuyết nghiên cứu sự di
chuyển vốn giữa các quốc gia và cho rằng vốn chỉ dịch chuyển giữa các

quốc gia khi lợi nhuận cận biên của vốn giữa các quốc gia là khác nhau.
Việc dịch chuyển vốn giữa các quốc gia góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng tài nguyên trên thế giới, làm tăng sản lượng sản phẩm và phúc lợi xã
hội của các quốc gia.
- Học thuyết đưa ra một số giả định sau:
+ Thị trường tại hai quốc gia là thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
+ Thế giới bao gồm nước đi đầu tư (nước cho vay) và nước tiếp nhận
đầu tư (nước đi vay). Trước khi có sự di chuyển vốn giữa hai quốc gia thì lợi
nhuận cận biên của vốn (MPK) ở nước đi đầu tư thấp hơn lợi nhuận cận biên
của vốn ở nước tiếp nhận đầu tư.
+ Không có hạn chế về đầu tư, vốn được dịch chuyển hoàn toàn tự do.
+ Thông tin thị trường hoàn hảo (transparency), người nhập vốn và xuất
khẩu vốn đều có thông tin đầy đủ liên quan đến phương án đầu tư của mình.
+ Các quốc gia đều sản xuất cùng một loại sản phẩm.
Nội dung của học thuyết MacDougall – Kemp được diễn giải theo ví
dụ sau:

×