Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Tiến trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 136 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ


NGÔ ĐĂNG THÀNH


TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ XHCN
MÃ SỐ : 5.02.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH THỊ HOA MAI

HÀ NỘI, 2004







2
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
3


MỞ ĐẦU
4
Chƣơng 1. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH - XU HƢỚNG TẤT YẾU
TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
8
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tự do hóa tài chính
ở các nƣớc đang phát triển
8
1.1.1. Nội dung của tự do hóa tài chính
8
1.1.2. Sự cần thiết của tự do hóa tài chính
22
1.2. Kinh nghiệm thực hiện tự do hóa tài chính của các nƣớc
31
1.2.1. Quá trình tự do hóa tài chính ở Nhật Bản
31
1.2.2. Quá trình tự do hóa tài chính ở Trung Quốc
40
1.2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
48
Chƣơng 2. TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
52
2.1. Trình tự tự do hóa tài chính ở Việt Nam
52
2.1.1. Những điều chỉnh chính sách nhằm làm giảm
thâm hụt ngân sách
53
2.1.2. Quá trình thực hiện tự do hóa lãi suất
61
2.1.3. Tự do hóa hoạt động tín dụng

66
2.1.4. Tự do hóa hoạt động của các trung gian tài chính trên thị
trường
71
2.1.5. Tự do hóa tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối
75
2.1.6. Quá trình tự do hóa thị trường chứng khoán
82
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
89
2.2.1. Vấn đề về nâng cao hiệu năng của thị trường tài chính
89
2.2.2. Vấn đề về lựa chọn lộ trình tự do hóa tài chính thích hợp
91
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÖC ĐẨY TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM
96
3.1. Định hƣớng hoàn thiện chính sách hƣớng tới tự do hóa tài chính
96
3.1.1. Phương hướng xây dựng chính sách thời gian tới
96
3.1.2. Mục tiêu của các chính sách thúc đẩy tự do hóa tài chính
từ nay đến năm 2010
97
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt
Nam trong thời gian tới
99
3.2.1. Củng cố sức mạnh của hệ thống tài chính - ngân hàng
99
3.2.2. Tiếp tục đẩy mạnh tiến trình tự do hóa tài chính

104
KẾT LUẬN
126
TÀI LIỆU THAM KHẢO
127


3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
FDI
Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTW
Ngân hàng Trung ương
NHTMNN
Ngân hàng thương mại Nhà nước
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NSNN
Ngân sách Nhà nước
PFI

Đầu tư gián tiếp từ nước ngoài
TCTD
Tổ chức tín dụng
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TTCK
Thị trường chứng khoán
TTGDCK
Trung tâm giao dịch chứng khoán
UBCKNN
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
WB
Ngân hàng Thế giới
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới


4
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Nền kinh tế thế giới đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, giai
đoạn của toàn cầu hoá và khu vực hoá. Đây là giai đoạn phát triển kinh tế
trong đó các nước có quan hệ phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau về nhiều mặt, đặc
biệt là trong quan hệ tài chính - tiền tệ. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng cũng đã nhận định, Việt Nam tất yếu cũng phải gia nhập vào tiến
trình này. Một trong những đòi hỏi khách quan đặt ra đối với Việt Nam khi
tham gia vào toàn cầu hoá và khu vực hoá là phải có một nền kinh tế mở cửa
và tự do, cho phép các dòng tài chính có thể được tự do lưu thông giữa các
vùng trong nước, giữa trong nước với các khu vực và quốc tế. Để thực hiện
được điều đó, việc xây dựng và thực hiện các chính sách thúc đẩy tự do hóa

tài chính đã, đang và sẽ là một vấn đề quan trọng đặt ra đối với các nhà hoạch
định chính sách.
Xuất phát từ yêu cầu đó, em đã lựa chọn đề tài “Tiến trình tự do hóa
tài chính ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong
và ngoài nước về chính sách tài chính, về tự do hoá tài chính và toàn cầu
hoá, tuy nhiên chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu để làm rõ vai trò
của các chính sách của Nhà nước Việt Nam trong công cuộc thúc đẩy tự do
hóa thị trường tài chính nhằm hội nhập vào thị trường tài chính khu vực và
thế giới. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như:
- Tác phẩm “Chính sách tài chính của Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế” của tác giả PGS. PTS. Vũ Thu Giang (chủ biên) phân tích về
một số chính sách tài chính của Việt Nam trong quá trình hội nhập nhưng
cũng chỉ dừng lại ở phân tích thực trạng quá trình thực hiện các chính sách đó
mà chưa có sự đối chiếu, so sánh quá trình đó với trình tự thực hiện các bước

5
của tự do hoá tài chính để đánh giá những mặt được hay chưa được của việc
hoàn thiện chính sách thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam.
- Tác phẩm “Sự hình thành và phát triển thị trường tài chính của nền
kinh tế chuyển đổi Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đình Tài đã trình bày tương
đối có hệ thống về cơ sở khoa học của việc hình thành và phát triển của thị
trường tài chính ở nước ta, đồng thời đưa ra một số phác hoạ về mô hình thị
trường tài chính mà tác giả cho là phù hợp với điều kiện nước ta. Tuy nhiên,
cho đến nay, khi mà xu hướng tự do hoá tài chính đang diễn ra mạnh mẽ và
Việt Nam cũng bị cuốn vào trào lưu đó, vẫn đòi hỏi phải có những nghiên cứu
tiếp theo để bổ sung, đánh giá lại, đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện
các chính sách của chính phủ cho phù hợp với xu hướng này.
- Tác phẩm “Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính phục vụ

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Bộ tài chính là một tập hợp các
công trình nghiên cứu về chính sách tài chính trên các lĩnh vực khoa học -
công nghệ, kinh tế đối ngoại, thuế nhưng chưa có sự tổng hợp đánh giá ở
tầm vĩ mô, xem xét các chính sách như một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến
trình tự do hoá tài chính ở nước ta.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn sẽ đề cập đến các nội dung cơ bản của quá trình tự do hóa tài
chính ở các nước đang phát triển, từ đó đánh giá tác động của các chính sách
của Nhà nước Việt Nam đối với quá trình tự do hóa thị trường tài chính Việt
Nam. Thông qua việc đánh giá được những mặt làm được và chưa được trong
can thiệp của chính phủ tới quá trình tự do hóa thị trường tài chính ở Việt
Nam, luận văn sẽ đưa ra một số giải pháp vĩ mô nhằm thúc đẩy quá trình này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Trong phạm vi đề tài, tác giả chủ yếu tập trung nghiên
cứu tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ tới hoạt động
của thị trường tài chính Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp,

6
khuyến nghị đối với chính phủ nhằm thúc đẩy quá trình tự do hóa thị trường
tài chính Việt Nam trong thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Khảo cứu kinh nghiệm tự do hoá tài chính ở một số quốc gia
trên thế giới, từ đó liên hệ đến quá trình này ở Việt Nam.
+ Nghiên cứu tác động của các chính sách của chính phủ đến thị
trường tài chính ở Việt Nam trong hơn 15 năm đổi mới (từ sau 1986 đến nay)
để chỉ ra được những nhân tố tích cực cũng như những bất cập của tiến trình
xây dựng kinh tế thị trường nói chung và của quá trình tự do hoá tài chính nói
riêng, qua đó rút ra các biện pháp phát huy mặt mạnh, khắc phục những bất
cập để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong luận văn sẽ là
phương pháp thực chứng so sánh, ngoài ra sẽ áp dụng các phương pháp phân
tích, quy nạp, diễn dịch để làm rõ những nội dung chính của đề tài.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp biện chứng khi xem xét mối quan
hệ giữa chính sách tài chính với một số nhân tố khác trong sự tác động tới tiến
trình hội nhập khu vực hoá và toàn cầu hoá của Việt Nam.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề chung về tự do hoá tài chính
của một quốc gia, tác giả luận văn muốn làm rõ ảnh hưởng của Chính phủ
thông qua các chính sách cụ thể tới tiến trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam
thời gian qua.
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích mặt tích cực và hạn chế của những
chính sách đã thực thi để đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện các chính sách có tác động thúc đẩy tiến trình tự do hoá tài chính Việt
Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiện nay.



7

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Tự do hoá tài chính - Xu hướng tất yếu trong quá trình toàn
cầu hóa.
Chương 2. Tiến trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam thời gian qua.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tự do hoá tài chính ở Việt
Nam.

8

Chương 1. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH - XU HƢỚNG TẤT YẾU TRONG
QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở
CÁC NƢỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
1.1.1. Nội dung của tự do hóa tài chính
Các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực tiễn đều cho thấy, sự phát triển
kinh tế của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu
hệ thống tài chính của nước đó. Nhiều sự biến động thăng, trầm và thậm chí là
khủng hoảng tại một số quốc gia, đặc biệt là ở khu vực Đông Á - một thời có
tốc độ phát triển cao và được coi là bền vững - đã đặt ra yêu cầu phải xem xét
lại hệ thống tài chính của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, tự do hóa tài chính vẫn
được thừa nhận như một hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện nay và được
nhiều quốc gia tiếp tục thực hiện, trong đó có Việt Nam.
Xu thế tự do do hóa tài chính đã và đang trở thành xu thế lớn của kinh
tế học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh, theo một
đánh giá của Tổng giám đốc Hiệp hội ngân hàng Pháp thì "từ gần 30 năm nay,
một số lượng lớn các nước đang dấn thân vào con đường tự do hóa hệ thống
tài chính của quốc gia; nhưng với những biến động trong thời gian gần đây,
câu hỏi được đặt ra là nên tự do hóa như thế nào còn chưa có câu trả lời cụ thể
và do đó, rất cần có những tổng kết, kinh nghiệm để đúc kết thành những bài
học có tính chất nguyên tắc chung".
Đối với trường hợp Việt Nam, có thể nói rằng trước các tác động mạnh
mẽ của xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế của thế giới, chúng ta không
thể đứng ngoài và bỏ qua các áp lực tự do hóa hệ thống tài chính của đất n-
ước. Muốn vậy, trước hết đòi hỏi chúng ta phải nắm được một số nội dung cơ
bản của tự do hóa tài chính.

* Khái niệm về tự do hóa tài chính

9

Tự do hóa tài chính là một phạm trù tương đối rộng, song để đơn giản
có thể hình dung tự do hóa tài chính như là một quá trình xoá bỏ đi các hạn
chế, định hướng hay ràng buộc trong việc phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi
điều tiết trong quá trình phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa
là các tổ chức tài chính được quyền tự do xác định lãi suất tiền gửi và cho
vay. Điều này cũng bao hàm việc xoá bỏ các mức trần lãi suất cũng như các
ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được (ví dụ như các
khoản tín dụng ưu đãi). Tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở
rộng cạnh tranh của các tổ chức trung gian tài chính, điều này cũng đồng
nghĩa với việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa những loại hình
hoạt động khác nhau.
Như vậy, có thể nói tự do hóa tài chính là quá trình làm giảm thiểu sự
can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và giao dịch tài chính, làm cho hệ
thống tài chính được tự do thực hiện theo các tín hiệu thị trường.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm trái ngược nhau trong
việc tán đồng hay phản đối tự do hóa tài chính. Những quan điểm này chủ yếu
xuất phát từ việc xem xét những đóng góp mà một thị trường tài chính có thể
mang lại cho nền kinh tế, từ đó đi tới kết luận là có nên hay không nên tiến
hành tự do hóa tài chính. Có 2 nhóm quan điểm chính là:
- Nhóm quan điểm phản đối (hay còn gọi là nhóm Keynes): nhóm này
cho rằng thị trường tài chính có tác động rất nhỏ bé, thậm chí là không đáng
kể tới tăng trưởng kinh tế, và vì vậy không cần thiết phải phát triển thị trường
tài chính, tức là không cần phải tự do hóa tài chính. Những người theo quan
điểm này, đi đầu là Keynes, cho rằng tăng trưởng kinh tế cao luôn đi kèm với
lạm phát vì khi xét trong một thời điểm cụ thể, đầu tư không nhất thiết phải
bằng tiết kiệm. Do vậy, chính phủ có thể chủ động tác động đến tỷ lệ tăng
trưởng bằng cách theo đuổi một chính sách tài chính gây lạm phát
(inflationary finance) bắt buộc người dân phải tiết kiệm, gọi là tiết kiệm bắt

10

buộc (forced savings) để bù đắp vào sự thiếu hụt giữa đầu tư và tiết kiệm. Do
đó, hệ thống tài chính đóng vai trò thụ động trong cuộc huy động tiết kiệm và
phân bổ nguồn lực.
Bằng việc phân chia các cá nhân trong nền kinh tế thành hai loại (loại
thứ nhất có thu nhập dựa trên tiền lương và loại thứ hai có thu nhập dựa trên
lợi nhuận), lý thuyết Keynes cho rằng một chính sách lạm phát cao và lãi suất
thực giảm sẽ hấp dẫn hơn đối với các cá nhân thuộc loại hai và do đó họ có
động cơ tiết kiệm để đầu tư và giảm tiêu dùng. Loại thứ nhất sẽ chịu sự giảm
xuống về thu nhập thực, điều này khuyến khích họ tiêu dùng hơn là tiết kiệm.
Như vậy xu hướng tiết kiệm trên lợi nhuận tăng và xu hướng tiết kiệm trên
tiền lương giảm. Hệ thống tài chính có nhiệm vụ nhận ký thác các khoản tiết
kiệm từ loại cá nhân thứ hai cho đến khi họ đủ nguồn lực để đầu tư mới. Như
vậy, hệ thống tài chính có vai trò rất thụ động và nó chỉ phát triển sau nếu như
nền kinh tế phát triển bền vững. “Nói chung hệ thống tài chính nên phát triển
sau hơn là đi trước việc phát triển kinh tế. Sự độc lập về chính trị và thiết lập
ngân hàng trung ương không có tính cách là nền tảng cho sự phát triển. Xu
hướng chính của sự phát triển được xác định trên sự thịnh vượng của thị
trường xuất khẩu, trên dòng vốn nước ngoài, trên những chính sách về ngân
sách và trên những sự kiện chính trị. Hệ thống tài chính đóng vai trò trong
việc cổ vũ cho các ảnh hưởng đó” [Kitchen, 1986].
- Nhóm quan điểm ủng hộ: Đối lập với lý thuyết của trường phái
Keynes về vai trò thụ động của hệ thống tài chính trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, các lý thuyết cổ vũ cho tự do hóa tài chính khẳng định rằng
phát triển thị trường tài chính là rất cần thiết để phát triển kinh tế, và do vậy
đòi hỏi phải tiến hành tự do hóa tài chính. Họ cho rằng, thị trường tài chính là
kênh phân bổ tốt nhất các nguồn lực tài chính bởi cơ chế chia sẻ rủi ro và
chuyển giao có thời hạn (maturity transformation); trong điều kiện vốn đầu tư
là tương đối khan hiếm, nhất là tại các nước nghèo có thu nhập thấp thì một

11

hệ thống tài chính được tự do hóa sẽ phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả
nhất. Năm 1973 trong tác phẩm "Tiền tệ và vốn trong phát triển kinh tế”,
McKinnon, dựa trên quan điểm của Shaw, đã đưa ra lý thuyết về kìm hãm và
tự do hóa tài chính. Trọng tâm của lý thuyết này là chính phủ không nên can
thiệp vào hệ thống tài chính mà để chúng vận động trên cơ sở thị trường tự
do. Như vậy nguyên tắc hiệu quả sẽ được tôn trọng và nguồn lực tài chính sẽ
được phân bổ một cách tốt nhất. McKinnon chỉ ra rằng tại hầu hết các nước
đang phát triển, chính phủ thường thích can thiệp vào hệ thống tài chính nước
đó nhằm giữ một mức lãi suất thực thấp hơn mức cạnh tranh, làm cho hệ
thống tài chính bị kìm hãm và không phát triển được. Khi lãi suất bị kìm hãm
ở dưới mức cân bằng thì sẽ không có sự phân bổ hiệu quả nguồn lực, vì một
số dự án sinh lợi nhiều hơn có thể không nhận được vốn đầu tư làm hiệu quả
trung bình của đầu tư giảm sút. Như vậy, nền kinh tế sẽ đạt mức tăng trưởng
chậm hơn các kết quả đạt được khi gỡ bỏ một phần việc kiểm soát lãi suất. Lý
giải cho việc giữ lãi suất thấp ở dưới mức cân bằng, chính phủ các nước này
thường cho rằng điều này sẽ cải thiện được đầu tư vì các dự án sẽ dễ sinh lợi
hơn. Nhưng các phân tích của lý thuyết của McKinnon chứng minh rằng khi
hệ thống tài chính bị kìm hãm (financial repression) đầu tư sẽ giảm và sự can
thiệp của chính phủ thường không mang lại hiệu quả kinh tế. Trên cơ sở đó,
McKinnon khuyến nghị các chính phủ ở các nước đang phát triển không nên
can thiệp vào hệ thống tài chính của nước họ và nên để cho chúng hoạt động
theo quy luật thị trường hay nói cách khác là nên để cho hệ thống tài chính tự
do (financial liberalization).
* Nội dung của tự do hóa tài chính
Kết hợp quan điểm phải xây dựng một hệ thống tài chính hoạt động
theo quy luật thị trường của Shaw-McKinnon với quan điểm tân cổ điển về
vai trò của chính phủ trong tác động tới hệ thống tài chính, có thể chỉ ra nội
dung của tự do hóa tài chính bao gồm các mặt sau:

12

- Xóa bỏ kiểm soát lãi suất và các loại phí dịch vụ tài chính: Chừng nào
mà chính phủ còn quy định trần lãi suất (tiền gửi hoặc cho vay) thì lãi suất
thực còn bị méo mó và không phản ánh được tính khan hiếm của đồng vốn.
Do đó kéo theo các hệ quả là:
+ Lãi suất thấp không kích thích tiêu dùng trong tương lai mà
kích thích tiêu dùng trong hiện tại, do đó tiết kiệm sẽ giảm dưới mức có thể.
+ Những người cho vay tiềm năng sẽ tỏ ra thích đầu tư vào các
dự án sinh lợi thấp của mình hơn là ký thác tiền vào ngân hàng.
+ Những người đi vay ngân hàng có thể nhận được các khoản
vay với lãi suất thấp hơn có thể sẽ chọn dự án đầu tư sinh lợi thấp hơn.
+ Việc quy định trần lãi suất cho vay còn dẫn đến việc tín dụng
không được phân phối dựa trên suất sinh lợi mong đợi của các dự án đầu tư
cạnh tranh mà dựa trên chi phí giao dịch và mức độ an toàn của các dự án đó.
Khi đó, phân bổ tín dụng trở nên không hiệu quả, méo mó.
Như vậy, thực hiện tự do hóa lãi suất nghĩa là quyền quyết định các
mức lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và các mức phí đối với hoạt động dịch
vụ tài chính sẽ được giao về cho các định chế tài chính.
- Giảm thiểu tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Ngân hàng trung ương thường quy
định cho các ngân hàng thương mại phải trích một tỷ lệ nhất định trong tổng
số các khoản ký thác đem gửi tại ngân hàng trung ương để đảm bảo khả năng
thanh toán cho các ngân hàng thương mại khi xảy ra trường hợp người gửi
đến rút tiền hàng loạt và ngân hàng thương mại thiếu tiền mặt chi trả. Mặt trái
của việc làm này là: (i) giảm khối lượng nguồn quỹ cho vay và (ii) làm gia
tăng quá mức khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay (các
nghiên cứu toán học đã chứng minh, chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi
suất cho vay đồng biến với tỷ lệ dự trữ bắt buộc). Để hạn chế các tác động (i)
và (ii) đòi hỏi phải giảm thiểu tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các ngân hàng, tạo
điều kiện cho các ngân hàng hoạt động hết công suất vốn có của mình.

13

- Xóa bỏ bao cấp vốn qua chỉ định tín dụng: Chính phủ thường chỉ định
cho các tổ chức tài chính trung gian của họ phải đầu tư một phần nguồn quỹ
cho vay (loanable fund) vào một khu vực nhất định với lãi suất thấp nhằm
đảm bảo các mục tiêu chính trị - xã hội. Các khu vực được chỉ định thường là
các khu vực có năng suất thấp và/hoặc thời gian khấu hao rất lâu, mà trong
điều kiện cạnh tranh, các nhà đầu tư có các dự án trong khu vực này không có
lợi thế khi vay vốn. Khu vực này cũng bao gồm một số doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả nhưng nhận được bảo hộ của Nhà nước hoặc một số doanh
nghiệp có độ rủi ro cao do phụ thuộc vào tự nhiên. Tác động của các chương
trình chỉ định tín dụng là: (i) Làm cho các ngân hàng thụ động trong việc cung
cấp tín dụng một cách có hiệu quả, nhiều cơ hội đầu tư có khả năng sinh lợi
cao hơn nhưng không nhận được vốn tín dụng để đầu tư; và (ii) Tạo ra tính ỷ
lại của khu vực được bảo hộ: không tích cực cải thiện sản xuất vì các khoản
tín dụng cấp cho khu vực này thường có sự bảo lãnh của Nhà nước, khi không
thanh toán được nợ thì Nhà nước sẽ đứng ra trả thay bằng cách này hay cách
khác. Do đó, một chương trình chỉ định tín dụng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến
sự ổn định vĩ mô như thâm hụt ngân sách và lạm phát
Vì vậy đòi hỏi phải có tự do hóa tín dụng, tức là phải xoá bỏ những hạn
chế, định hướng hay ràng buộc về đối tượng, số lượng trong quá trình cấp
cũng như phân phối tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng
cho các thành phần kinh tế.
- Tự do hóa hoạt động ngoại hối: Trong điều kiện mở cửa và hội nhập,
việc các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước là một
nhân tố hết sức quan trọng cho tiến trình tăng trưởng. Cùng với quá trình này
sẽ là sự chuyển dịch của dòng ngoại tệ chảy vào trong nước. Để quản lý tốt
dòng ngoại tệ này (khi tham gia vào thị trường tài chính nội địa, dòng vốn này
có ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động của hệ thống tài chính trong nước)
đòi hỏi phải có một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt và bắt kịp với tỷ giá

14

trên thị trường thế giới, đồng thời cũng đòi hỏi phải có cơ chế quản lý thị
trường ngoại hối một cách hiệu quả. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải xoá bỏ các
hạn chế về quản lý ngoại hối và thực hiện điều hành tỷ giá hối đoái theo cung
cầu thị trường, tức là phải tự do hóa hoạt động ngoại hối.
- Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài
chính: là việc xoá bỏ những hạn chế về phạm vi hoạt động, phạm vi kinh
doanh của các tổ chức tài chính tạo nên sự tự do cạnh tranh trong các hoạt
động trung gian tài chính. Một thị trường muốn hình thành thì trước hết phải
có hàng hóa, người bán và người mua, trong đó hàng hóa là điều kiện cần, còn
các đối tác tham gia vào giao dịch thị trường (người bán, người mua) là điều
kiện đủ cho việc hình thành thị trường. Do đó, để các giao dịch trên thị trường
được vận hành theo các quy luật tự nhiên vốn có thì trước hết phải tự do hóa
hoạt động của các đối tác tham gia vào giao dịch thị trường này.
* Trình tự tự do hóa tài chính
Trên thực tế, không có một trình tự chung nào cho tất cả các quốc gia
trên con đường tự do hóa tài chính. Mỗi một quốc gia sẽ phải tự chọn cho
mình một con đường tự do hóa tài chính khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội của quốc gia đó. Chẳng hạn, Malaysia và Indonesia
là hai nước có những điều kiện tương đối giống nhau nhưng cũng vẫn có cách
đi riêng của mình:

SƠ ĐỒ 1. QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở MALAYSIA VÀ INDONESIA









198
0
198
3
198
9
199
0
199
1
199
4
199
5
199
6
Năm
Malaysia
Indonesia
Cho phép Cty CK
nước ngoài h/đ
Rd= 5,5%
Thành lập TT tài
chính hải ngoại
TDH Lãi suất (trừ
khu vực ưu tiên)
Rd= 9,5%
TDH vay nợ
nước ngoài
TDH lãi suất,

TDH tín dụng
Trở lại kiểm soát
tín dụng
Rd= 3% (không tính
tiền mặt dự trữ)

15
Tuy nhiên, theo McKinnon, vẫn có thể chỉ ra một mô hình chung cho
phần lớn các quốc gia, và trong các điều kiện thông thường thì một quốc gia
bình thường nên tiến hành tự do hóa tài chính theo mô hình sau:
SƠ ĐỒ 2. TRÌNH TỰ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA MCKINNON








Bước thứ nhất, Chính phủ phải đạt được sự cân bằng về tài chính.
Kiểm soát tài khoá nên đi trước tự do hoá tài chính. Cụ thể, chi tiêu của Chính
phủ phải hợp lý và hiệu quả, hệ thống thuế phải hợp lý nhằm bù đắp những
nguồn thu bị mất do việc giảm thuế xuất nhập khẩu để khuyến khích tự do
hóa. Lý do chính của yêu cầu phải ổn định tài khóa trước tiên dựa trên quan
điểm cho rằng sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính phủ trong điều kiện
thị trường tài chính chưa phát triển (để có thể phát hành trái phiếu chính phủ)
thường dẫn đến việc Ngân hàng trung ương phát hành nội tệ quá mức để tài
trợ thâm hụt ngân sách, từ đó dẫn đến lạm phát. Phân tích bước thứ hai của
quá trình tự do hoá tài chính sẽ càng làm rõ vấn đề này.
Bước thứ hai trong trình tự tự do hoá tài chính là việc mở cửa thị

trường vốn trong nước sao cho người gửi tiền nhận được lãi suất thực dương.
Bước này đòi hỏi phải tiến hành tự do hoá lãi suất, tức là để cho lãi suất được
tự do vận hành theo các tín hiệu cung - cầu thị trường. Ở đây, có thể thấy rõ ý
nghĩa của bước 1, bởi vì việc vay và cho vay không hạn chế giữa các doanh
nghiệp và hộ gia đình chỉ có thể diễn ra thuận lợi khi mức giá cả được ổn định
và các thâm hụt tài khoá được loại trừ. Thật vậy, trong điều kiện lạm phát quá
Giảm thâm
hụt ngân sách
Tự do hoá tài chính
Giảm
dự trữ
bắt
buộc
Bỏ
kiểm
soát lãi
suất
Đa
dạng
hoá sở
hữu
Tăng
cạnh
tranh
Bỏ tín
dụng
chỉ
định

Cải cách thương mại

Cải cách tài
khoản vốn
Quản lý tỷ giá hối đoái

16
cao, người cho vay sẽ bị thiệt do lãi suất thực có xu hướng âm, điều này sẽ
cản trở hành vi cho vay của người có vốn.
Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân
hàng và việc phân bổ các nguồn tín dụng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng chỉ
được giải phóng khỏi các đòi hỏi dự trữ phiền hà và các chỉ dẫn chính thức
trong việc định lãi suất tiêu chuẩn đối với tiền gửi vào và tiền cho vay sau khi
việc kiểm soát tài khoá chặt chẽ được bảo đảm, sao cho chính phủ không còn
cần phải đánh thuế lạm phát hoặc đánh thuế vào khoản tiền tích trữ quá mức
của người gửi tiền để có thu nhập. Như vậy, một lần nữa, kiểm soát tài khoá
lại phát huy vai trò là một bước đệm quan trọng trong tiến trình tự do hoá tài
chính.
Sau khi các ngân hàng đã quen với cách thức hoạt động độc lập theo cơ
chế thị trường, bước tiếp theo là mở rộng sự tham gia của các trung gian tài
chính mới, cho phép cả các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động. Tuy
nhiên quy chế này cũng cần được nới lỏng dần dần bởi nếu như hệ thống tài
chính được nới lỏng hoàn toàn và bất ngờ thì nó sẽ gây tác hại không nhỏ tới
hệ thống tài chính. Các tổ chức mới tham gia thị trường (trung gian tài chính
nước ngoài, có vốn lớn, công nghệ quản lý tốt ) khi đưa ra mức lãi suất hấp
dẫn hơn lãi suất hiện có của thị trường nhằm mục đích cạnh tranh giành tiền
gửi vô hình chung sẽ buộc các ngân hàng đang hoạt động phải nâng mức lãi
suất đối với tất cả các khoản tiền gửi của mình (cũ lẫn mới) để giữ khách.
Như vậy, các tổ chức trung gian tài chính này sẽ phải chịu mất thêm chi phí
do tăng lãi suất tính cho toàn bộ số tiền gửi của nó, trong khi các tổ chức mới
tham gia thị trường chỉ phải mất chi phí cho số ít tiền gửi mới thu hút được.
Kết quả là các ngân hàng “cũ” trên thị trường phải chịu lỗ về vốn đáng kể.

Trong một số trường hợp, khi các khoản thiệt hại về vốn như vậy trở nên quá
lớn so với giá trị tài sản của ngân hàng thì ngân hàng có thể sẽ dẫn đến phá
sản.

17
Cuối cùng, khi thị trường vốn trong nước được tự do hoá hoàn toàn tức
là việc vay và cho vay trong nước diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng (không
bị hạn chế) và tỉ lệ lạm phát trong nước được kiềm chế đến mức việc phá giá
đồng tiền theo tỉ giá hối đoái hiện hành không còn cần thiết, lúc này mới có
thể tiến hành bước cuối cùng trong trình tự tự do hóa tài chính - tự do hóa tài
khoản vốn. Nội dung của tự do hóa tài khoản vốn chính là cho phép các doanh
nghiệp, hộ gia đình vay hoặc gửi tiền tự do trên các thị trường vốn quốc tế,
cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự do, và cuối cùng là
chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
* Tiêu chí đánh giá mức độ tự do hóa của một hệ thống tài chính
Tự do hóa tài chính, như đã đề cập, chính là quá trình tạo các điều kiện
cần thiết để cho hệ thống tài chính có thể tự do vận hành theo đúng cơ chế thị
trường. Do vậy, đánh giá mức độ tự do hóa của một hệ thống tài chính cũng
tức là đánh giá mức độ thị trường của hệ thống tài chính đó. Việc đo lường
mức độ thị trường của hệ thống tài chính có thể được phản ánh thông qua
thước đo độ sâu tài chính.
Độ sâu tài chính (financial depth, financial deeping) là một đại lượng
dùng để đo lường mức độ phát triển của một hệ thống tài chính. Nó phản ánh
tính thị trường của hệ thống tài chính đó thông qua việc đo lường khối lượng
tài sản tài chính có khả năng sinh lợi được lưu hành trên thị trường. Để đánh
giá xem một quốc gia đã có đủ khả năng và điều kiện để tham gia vào quá
trình tự do hóa tài chính hay chưa, các nhà kinh tế học phải sử dụng các thước
đo độ sâu tài chính.
Các nghiên cứu của các tổ chức như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ
tiền tệ thế giới (IMF), và của các nhóm nghiên cứu, các cá nhân như De

Gregorio và Guidotti (1992), King và Levine (1993), Levine và Zervos
(1996), Rangarajan (1997), Beck, Demirgiic Kunt và Levine (2000), đã đưa
ra rất nhiều loại thước đo (chỉ số) với tên gọi và cách tính toán khác nhau như

18
Tỷ lệ tài sản của Ngân hàng trung ương (NHTW) trên tổng thu nhập quốc nội
(GDP), Tỷ lệ tài sản lỏng trên GDP, Tỷ lệ tài sản của các ngân hàng thương
mại (NHTM) trên tổng tài sản tài chính của nền kinh tế, Nhìn chung, có thể
chia các loại chỉ số này thành 3 loại chỉ số chính như sau:
a. Loại chỉ số nghiên cứu về quy mô của khu vực tài chính có khả năng
sinh lợi trong nền kinh tế. Trên quan điểm phân chia hệ thống tài chính ra
thành 2 bộ phận lớn: khu vực có khả năng sinh lợi (profitable) và khu vực
không có khả năng sinh lợi (non-profitable), các nhà nghiên cứu tập trung
phân tích khu vực thứ nhất vì khu vực này phản ánh rõ nhất tính thị trường
của hệ thống tài chính. Chỉ số tiêu biểu cho loại này là chỉ số DEPTH.
Tài sản lỏng
DEPTH =
GDP
trong đó:
+ Tài sản lỏng: bao gồm toàn bộ lượng tiền mặt nằm ngoài hệ
thống ngân hàng cộng với tài sản có sinh lợi nằm trong hệ thống NHTM và
các trung gian tài chính phi ngân hàng khác (bảo hiểm, quỹ tín dụng, )
+ GDP: tổng thu nhập quốc nội của nền kinh tế
Trên thực tế, giá trị tài sản lỏng trong công thức trên lại chính bằng
khối lượng tiền rộng (M2, M3) của nền kinh tế. Vì vậy, để đơn giản hơn ta có
thể dùng công thức:
M2 (hoặc M3)
DEPTH =
GDP
trong đó:

+ M2 (M3): Khối lượng tiền rộng được cung ứng trong nền kinh
tế
+ GDP: tổng thu nhập quốc nội

19
Chỉ số DEPTH do King và Levine tìm ra năm 1993 nhằm diễn tả mối
quan hệ giữa lượng tài sản có tính lỏng trong nền kinh tế với tổng thu nhập
quốc nội của nền kinh tế đó. Chỉ số DEPTH là một phản ánh rõ nhất về tính
hiệu quả cũng như sự phát triển của khu vực thứ nhất (khu vực kinh tế có khả
năng sinh lợi). Khi DEPTH tăng có nghĩa là tỷ lệ tài sản lỏng (hoặc tiền rộng -
M2,M3) trong tổng GDP đã được tăng lên. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc tính hiệu quả của khu vực kinh tế thứ nhất tăng, thị trường tài chính đang
dần tiến đến tự do hóa.
b. Loại chỉ số nghiên cứu về hoạt động của các trung gian tài chính,
đặc biệt là trong khả năng phân bổ tín dụng cho các khu vực của nền kinh tế.
Trên quan điểm phân chia hệ thống tài chính thành 2 khu vực: khu vực công
cộng và khu vực tư nhân (trong đó khu vực tư nhân được chú trọng hơn vì nó
thể hiện tính thị trường rõ nhất), loại chỉ số này tập trung nghiên cứu về sự
đáp ứng của các trung gian tài chính cho khu vực tư nhân nhằm phân tích vai
trò của các trung gian tài chính đó trong việc phân bổ tín dụng cho khu vực
này.
Đại diện cho loại chỉ số này là PRIV/Y, chỉ số diễn tả quan hệ tỷ lệ
giữa các tài sản tín dụng được phát hành cho khu vực tư nhân bởi hệ thống
ngân hàng so với tổng thu nhập quốc nội.
Tài sản tín dụng cho khu vực tư nhân
PRIV/Y =
GDP

trong đó:
+ Tài sản tín dụng cho khu vực tư nhân: bao gồm các loại giấy

tờ có giá (tài sản lỏng) do các NHTM phát hành nhằm cung cấp vốn cho khu
vực kinh tế tư nhân phát triển.
+ GDP: tổng thu nhập quốc nội

20
PRIV/Y tăng có nghĩa là vai trò của các trung gian tài chính (trừ
NHTW) trong việc phân bổ nguồn vốn cho khu vực kinh tế tư nhân và phi
chính phủ đang có sự gia tăng. Đây chính là dấu hiệu chứng tỏ hiệu quả hoạt
động của các trung gian tài chính đang được nâng cao, thị trường tài chính
đang tiến gần đến tự do hóa. Điều này cũng gợi ý rằng, nếu có sự cải tổ lại hệ
thống ngân hàng, thì việc cung cấp thêm các dịch vụ tài chính mới sẽ có hiệu
quả hơn cho khu vực tư nhân so với cho khu vực công cộng.
c. Loại chỉ số nghiên cứu về quy mô của các trung gian tài chính trong
mối quan hệ qua lại với nhau, cụ thể là giữa khu vực có khả năng sinh lợi và
khu vực phi sinh lợi, giữa khu vực tư nhân và khu vực công cộng, giữa
NHTW và các tổ chức tín dụng khác, Đây là loại chỉ số nhằm xác định tính
thị trường của hệ thống tài chính thông qua việc đo lường số lượng, quy mô,
giá trị tài sản của các trung gian tài chính sẵn sàng cung cấp các dịch vụ có
khả năng sinh lợi như quản trị rủi ro và công nghệ mới.
Đại diện cho loại chỉ số này là BANK. Chỉ số BANK là tỷ lệ giữa tài
sản của các NHTM trên tổng tài sản của hệ thống ngân hàng (bao gồm cả
NHTW và các NHTM).
Tài sản nội địa của NHTM
BANK =
Tài sản nội địa của hệ thống ngân hàng
trong đó:
+ Tài sản nội địa của NHTM: bao gồm toàn bộ tài sản của các
NHTM được phát hành cho thị trường nội địa.
+ Tài sản nội địa của hệ thống ngân hàng: bao gồm tài sản nội
địa của các NHTM cộng với tài sản nội địa của NHTW.

Khi chỉ số BANK tăng lên cũng có nghĩa là trên thị trường tài chính nội
địa đã xuất hiện nhiều loại hình tài sản tài chính hơn, có nhiều loại dịch vụ tài

21
chính hơn và như vậy, hệ thống tài chính cũng phát triển lên một trình độ cao
hơn.
Cả 3 loại chỉ số trên tuy khác nhau về đối tượng tính toán, về cách tính,
về ý nghĩa nhưng nhìn chung đều đem lại những kết quả giống nhau khi so
sánh về mức độ phát triển giữa các hệ thống tài chính của các quốc gia. Tuy
nhiên, sự phản ánh của các chỉ số này lại không hoàn toàn giống nhau cho
mọi trường hợp. Chính vì vậy, việc kết hợp sử dụng cả 3 loại chỉ số này là hết
sức cần thiết trong nghiên cứu, phân tích mức độ tự do hóa của một hệ thống
tài chính cụ thể. Điều này được thể hiện rõ hơn qua bảng số liệu sau:

Bảng 1. CÁC THƢỚC ĐO ĐỘ SÂU TÀI CHÍNH TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
(số liệu năm 2001)
Chỉ số
DEPTH
PRIV/Y
BANK
Trung Quốc
1,502
1,197
0,987
Anh
1,093
1,324
0,996
Indonesia
0,538

0,192
0,727
Nhật Bản
1,980
1,092
0,904
Malaysia
1,332
0,984
0,917
Phillippin
0,618
0,360
0,899
Thái Lan
1,144
0,786
0,967
Việt Nam
0,459
0,353
0,933
Nguồn: International Financial Statistics (IFS), IMF. ()

Ở phần trên chúng ta đã phân tích, việc phân loại các chỉ số phụ thuộc
vào mục đích sử dụng các chỉ số đó. Cụ thể:
- Chỉ số DEPTH nghiên cứu về quy mô của khu vực tài chính có khả
năng sinh lợi trong nền kinh tế.
- Chỉ số PRIV/Y nghiên cứu về khả năng phân bổ tín dụng cho các khu
vực của nền kinh tế.


22
- Chỉ số BANK nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa các khu vực
của hệ thống tài chính.
Do vậy, có thể thấy rõ chỉ số DEPTH gắn liền với việc giải thích mối
quan hệ giữa thị trường tài chính với tăng trưởng kinh tế, giải thích vai trò và
sự cần thiết phải phát triển thị trường tài chính. Đồng thời, việc thu thập số
liệu và tính toán chỉ số này cũng thuận lợi nhất, do số liệu về GDP và M2
luôn được cung cấp trong các báo cáo thường niên của chính phủ. Vì vậy, cho
đến nay chỉ số DEPTH vẫn được sử dụng phổ biến nhất, rộng rãi nhất.
1.1.2. Sự cần thiết của tự do hóa tài chính
Như chúng ta đã phân tích, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm trái
ngược về tự do hóa tài chính cũng như về những tác động của nó đối với sự
phát triển của hệ thống tài chính nói riêng cũng như đối với tăng trưởng kinh
tế nói chung, nhưng trên thực tế tự do hóa tài chính đang là một trào lưu lớn
của các nền kinh tế hiện đại. Ngân hàng thế giới (World Bank - WB) đã rất
ủng hộ quan điểm cho rằng phát triển tài chính sẽ dẫn đến các tác động tốt đối
với việc kích thích tăng trưởng kinh tế khi cho rằng “Tài chính là chìa khóa
của đầu tư và như thế là chìa khóa của tăng trưởng. Việc thiếu một hệ thống
tài chính làm cho việc cho vay vừa tốn kém vừa rủi ro đối với khu vực tư
nhân, do đó họ có xu hướng chuyển qua đầu tư dưới hình thức tự tài trợ. Vấn
đề gặp phải là hiện có rất nhiều dự án với mức sinh lợi hấp dẫn có khả năng bị
bỏ qua do nó cần một số lượng vốn đầu tư ban đầu lớn, vượt xa khả năng tiết
kiệm trong quá khứ của các chủ đầu tư. Do đó phát triển tài chính là rất cần
thiết”[WB, 1989]. Trước một thực tế như vậy, tự do hóa tài chính được xem
như một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia khi thực hiện hội
nhập, bởi vì:
a) Thị trường tài chính chỉ có thể phát huy vai trò tích cực của nó khi
nó được hoạt động một cách tự do. Cũng giống như bất cứ thị trường nào,
một khi được hoạt động theo cơ chế tự do cạnh tranh thì thị trường tài chính


23
mới có cơ hội đạt đến thị trường cạnh tranh hoàn hảo, ở đó các quy luật của
thị trường sẽ phát huy tối đa vai trò của chúng để giữ cho thị trường đạt hiệu
quả cao nhất về phân bổ nguồn lực, xác lập giá cả, cung-cầu, Một thị trường
tài chính được tự do hóa sẽ đem lại lợi ích cho quốc gia đó trên các mặt sau:
* Góp phần huy động được nguồn vốn lớn hơn và phân bổ vốn có hiệu
quả hơn. Trước hết, xét về nguồn vốn trong nước, tự do hoá tài chính có thể
nâng cao tỷ lệ tiết kiệm của tư nhân so với thu nhập và mở ra cách thức phân
bổ vốn tốt hơn thông qua việc mở rộng và đa dạng hoá thị trường tài chính mà
ở đó các cơ hội đầu tư cạnh tranh nhau để thu hút các dòng tiết kiệm và thị
trường có khuynh hướng làm bình đẳng phân phối thu nhập. Quá trình này
không chỉ làm tăng tiết kiệm và những nguồn vốn có thể cho vay mà còn làm
cho việc phân bổ những nguồn vốn đó có hiệu quả hơn và do đó góp phần dẫn
đến một mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Về phía nước ngoài, tự do hoá tài khoản vốn tạo cơ hội cho các nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào trong nước qua các kênh FDI và PFI, đóng góp một
nguồn vốn vô cùng quan trọng cho nền kinh tế. Mặt khác, các nhà đầu tư vì
động cơ lợi nhuận nên luôn tính toán xem sẽ đầu tư vốn vào đâu cho có hiệu
quả nhất. Chính vì vậy mà nguồn vốn càng được phân bổ hiệu quả hơn.
Những người ủng hộ sự lưu chuyển tự do của vốn còn chỉ ra các lợi ích
vượt ra ngoài lợi ích tĩnh do quá trình phân bổ lại nguồn vốn vay giữa các
nước như sau: do vốn cổ phần trong nước bây giờ có thể được kết hợp trong
một danh mục đầu tư rộng lớn hơn nhiều nên chúng ít rủi ro hơn. Điều này
làm tăng giá của chúng và giảm chi phí vốn cho các công ty trong nước. Đến
lượt mình, điều này lại làm cho các cơ hội đầu tư trước đây được coi là quá
mạo hiểm trở nên khả thi và tổng hợp lại, những cơ hội này có thể đóng góp
đáng kể cho tăng trưởng.
* Nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước. Ngành
dịch vụ tài chính tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ phải chịu tổn thất do việc xoá


24
bỏ các biện pháp bảo hộ vốn đã nuôi dưỡng những nhà cung ứng hoạt động
với chi phí và lợi nhuận cao trong nhiều năm. Việc thông tin dễ dàng hơn và
việc dỡ bỏ các hạn chế đối với hoạt động vay và gửi tiền ở nước ngoài đã
buộc các ngân hàng trong nước phải cắt giảm chi phí, ít nhất là cho các khách
hàng lớn, đồng thời ép chúng phải nâng cao chất lượng phục vụ nếu không
muốn mất chỗ đứng. Trong sự cạnh tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ
chức bị loại ra khỏi cuộc chiến do không đủ sức mạnh hoặc không chịu đổi
mới để thích nghi với hoàn cảnh mới. Tuy nhiên, những tổ chức còn tồn tại đ-
ược sẽ có một sức mạnh mới lớn hơn trước kia rất nhiều, không những đủ sức
cạnh tranh trong nước mà còn có thể vươn ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó,
sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài nổi tiếng thường kéo theo sự cải
thiện về tính minh bạch, nhất là khi các ngân hàng này mang theo mình các
thông lệ kế toán hoàn thiện hơn. Kết quả là, hệ thống tài chính đã được nâng
cao tính cạnh tranh ở cả quy chế điều tiết lẫn các thành phần tham gia trong
hệ thống.
* Xã hội được tiếp cận với những dịch vụ tối hơn và giá cả rẻ hơn. Lợi
ích này là hệ quả trực tiếp của việc mở cửa tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường
dịch vụ tài chính. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc Ban thư ký
của WTO (năm 1997) đã kết luận rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính ở các nước theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong
việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó, chi phí dịch vụ giảm đi
đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các loại hình dịch vụ được đa
dạng hóa và khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách
nhanh nhất. Điều này không chỉ có lợi đối với người tiêu dùng mà còn góp
phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Năm 1997, nguyên Bộ trưởng
ngân khố Mỹ - Roberl E. Rubin đã đưa ra kế hoạch nhằm hiện đại hóa hệ
thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa
trên những tính toán thực tế như sau:


25
“Thời gian trước đây, khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong
lĩnh vực dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi ích đáng
kể Năm 1995, giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đô la vào các
hoạt động bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử
rằng, do kết quả cạnh tranh của kế hoạch hiện đại hóa hoạt động dịch vụ tài
chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có thể giảm đi 1% thì cũng
đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đô la một năm. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở
thực tế, tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5% - tức là vào
khoảng 15 tỷ đô la mỗi năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền
kinh tế”. [Robin, 1997].
b) Hội nhập vào tiến trình phát triển chung của thế giới cũng tức là
tham gia vào toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Một trong những
bước đi đầu tiên để hội nhập vào tiến trình này chính là hội nhập trên lĩnh vực
tài chính, và do vậy đòi hỏi quốc gia đó phải thực hiện tự do hóa tài chính.
Bởi vì, một khi thực hiện tốt tự do hóa tài chính thì quốc gia đó mới có thể
khai thác được những mặt tích cực của toàn cầu hóa và hội nhập phục vụ cho
sự nghiệp phát triển đất nước. Những mặt tích cực đó là:
* Thúc đẩy thương mại quốc tế. Thương mại giữa các quốc gia thực
chất là trao đổi ngang giá, do vậy một giao dịch thương mại luôn có hai mặt:
chuyển giao hàng hoá dịch vụ và thanh toán. Ở đây, tự do hoá tài chính thúc
đẩy thương mại quốc tế bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho mặt thứ hai
thông qua tự do chuyển tiền, tự do mua các tài sản ngoại tệ từ các nguồn thu
xuất khẩu, chủ động bảo hiểm tỷ giá
* Phân tán rủi ro. Rủi ro là hiện tượng phổ biến trong mọi hoạt dộng
kinh tế. Do vậy, phân tán rủi ro là một nhu cầu khách quan. Việc phân tán đầu
tư ở nhiều nơi khác nhau dưới nhiều hình thức sẽ cho phép bảo toàn được vốn
trong mọi trường hợp (đa dạng hóa danh mục đầu tư để đảm bảo “không bỏ
trứng vào chung một rổ”). Dưới tự do hoá tài chính, việc tự do hoá tài khoản

×