Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________


Đ KHC PHONG



QUẢN LÝ NHÀ NƯC VỀ BẢO V
MÔI TRƯƠ
̀
NG Ơ
̉
TI
̉
NH BĂ
́
C NINH



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYÊ


̃
N THÊ
́
CHINH


HÀ NỘI, 2010

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong vài ba thập kỷ gần đây, do sức ép về dân số và phát triển kinh tế,
hiện tượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường
bị suy thoái nghiêm trọng, thậm chí ở một số vùng bị phá huỷ hoàn toàn.
Những vấn đề môi trường toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzôn,
đa dạng sinh học giảm sút, suy giảm tài nguyên đất và nước ngọt đang là
thách thức đối với sự tồn tại của loài người. Do vậy, để duy trì chất lượng môi
trường nhằm hướng tới phát triển bền vững đang là yêu cầu đặt ra đối với
toàn thế giới cũng như mỗi một quốc gia.
Để phát triển bền vững đòi hỏi phải có cơ chế quản lý Nhà nước đồng
bộ và linh hoạt trên cả ba bộ phận cấu thành là: kinh tế, xã hội và môi trường.
Hệ thống quản lý Nhà nước về môi trường ở nước ta đã được thành lập: Bộ
Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ này. Xong
hiện nay, các cơ quan quản lý môi trường cấp địa phương mới chỉ có tính
kiêm nhiệm và phần lớn mới chỉ được triển khai đến cấp tỉnh/thành phố trực
thuộc TW và cấp quận, huyện, còn thiếu các cơ quan quản lý môi trường ở
cấp thấp hơn như phường, xã, làng trong khi đó môi trường cộng đồng
thuộc những cấp này lại là đầu nguồn phát sinh ô nhiễm.
Thực tế cho thấy, hệ thống chính sách, pháp luật để quản lý Nhà nước

về bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững vẫn thiên về mệnh lệnh,
kiểm soát theo cách tiếp cận áp đặt các biện pháp hành chính nên ít có hiệu
quả về kinh tế, không khuyến khích được các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
tích cực thực hiện bảo vệ môi trường. Do vậy, đã có một số nghiên cứu đề
xuất các giải pháp quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở nhiều góc độ
khác nhau. Đây là một cách tiếp cận phù hợp với xu hướng cải cách nền kinh

2
tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Bắc có diện tích tự nhiên là 803,6 km². Trong một số năm gần đây,
cùng với quá trình hội nhập và phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường của cả nước, kinh tế của Bắc Ninh có những bước tăng trưởng đáng
khích lệ, năm 2005 là 13,5%, 2006 là 13,5%, năm 2007 là 15%, công nghiệp
phát triển với tốc độ nhanh, thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào khu
công nghiệp.
Trên địa bàn tỉnh có 4 khu công nghiệp tập trung đang hoạt động là: Quế
Võ, Tiên Sơn, Yên Phong, Đại Đồng - Hoàn Sơn, tiếp tục phát triển một số khu
công nghiệp như: Quế Võ II, Nam Sơn - Hạp Lĩnh, Việt Nam Singapo, tập đoàn
Hồng Hải, Yên Phong II, Thuận Thành I, II, III; quy hoạch 29 khu công nghiệp
vừa và nhỏ và có 62 làng nghề, trong đó có 30 làng nghề truyền thống đang phát
triển mạnh mẽ, phấn đấu đến năm 2015 trở thành tỉnh công nghiệp.
Song, vấn đề quản lý môi trường hướng tới phát triển bền vững ở Bắc
Ninh chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy, môi trường trong những năm
gần đây đang xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là môi trường làng nghề,
môi trường các khu công nghiệp tập trung có thể nói ô nhiễm môi trường ở
Bắc Ninh là một điển hình trong cả nước, hay nói cách khác môi trường ở
tỉnh Bắc Ninh đang ở cấp báo động đỏ. Tuy vậy, vẫn còn quá ít những
nghiên cứu cơ bản về lý thuyết cũng như phân tích cụ thể Quản lý Nhà nước

về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề môi trường đã được các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm
từ những năm 1970 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường hướng tới sự phát triển bền vững là vấn đề mới
được đề cập nhiều sau Hội nghị môi trường và phát triển bền vững có sự tham

3
gia của các nguyên thủ quốc gia tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) 1992; Đặc
biệt sau Hội nghị về phát triển bền vững tại Johannesburg - Nam Phi, năm 2002
(Rio+10).
Đối với nước ta, vấn đề quản lý và bảo vệ môi trường cho phát triển
bền vững đó được thể hiện trong Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam trên
cơ sở Quyết định 153/2004/QĐ-TTg về Agenda 21 của Việt Nam. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững, vai trò tác dụng của môi trường, ảnh
hưởng của môi trường đến đời sống con người, tác động qua lại của môi
trường đối với đời sống con người Một số công trình nghiên cứu của các
cấp, các ngành, các tầng lớp dân cư, nhiều nhà quản lý và các nhà khoa học
đã được xuất bản như: Ban Khoa giáo TW - Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, tiến tới kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi
trường ở Việt Nam xuất bản năm 2001; PGS,TS Nguyễn Thế Chinh, Áp dụng
các công cụ kinh tế để nâng cao năng lực quản lý môi trường ở Hà Nội, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999; GS.TS Lê Văn Khoa - Đại học Quốc gia Hà
Nội, QLNN về môi trường và phát triển bền vững; Đánh giá tác động môi
trường - phương pháp luận và thực tiễn (Nxb Kỹ thuật, Hà Nội 1994); TS
Nguyễn Ngọc Sinh, TS Nguyễn Đắc Hy, TS Nguyễn Văn Tài - Cục Môi
trường; Một số vấn đề cấp bách trong quản lý môi trường ở địa phương; Lưu
Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững,
Hà Nội 2002; TS Trần Thanh Lâm, Quản lý môi trường địa phương trong

thời kỳ CNH- HĐH đất nước; TS Phạm Khôi Nguyên, Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường trong
thời kỳ CNH-HĐH, Hà Nội 2005;
Ngoài ra còn có chuyên khảo Đặc san về môi trường nông thôn tháng
10 năm 2008; Đặc biệt ngày 22 tháng 4 năm 2005, dưới sự chủ trì của Thủ
tướng Chính phủ Phan Văn Khải, Hội nghị môi trường toàn quốc 2005 đã

4
được tổ chức tại Hà Nội với sự tham gia của trên 1000 đại biểu là lãnh đạo đại
diện các Bộ, ngành, cơ quan, đoàn thể ở TW, lãnh đạo đại diện UBND, Ban
Tuyên giáo, sở Tài nguyên và Môi trường của 64 tỉnh, thành phố trực thuộc
TW trong cả nước, các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán các nước, đại diện các
viện, các trường, cơ quan khoa học, các nhà quản lý, nhà khoa học với 220
báo cáo khoa học theo các chuyên đề khoa học - công nghệ về môi trường;
Môi trường và Những vấn đề Kinh tế - Xã hội - Nhân văn; Tham vấn quốc tế
xây dựng kế hoạch 5 năm về bảo vệ môi trường (2006-1010)
Những đề xuất khoa học và giải pháp của các công trình trên là rất có ý
nghĩa, có tác dụng rất thiết thực đối với công tác quản lý và bảo vệ môi
trường ở nước ta hiện nay và các địa phương. Trong luận văn, tác giả đã khai
thác và kế thừa có chọn lọc những đóng góp đó.
Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu trên vẫn chủ yếu đề cập
đến vấn đề mang tính kỹ thuật. Việc nghiên cứu quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường hướng tới sự phát triển bền vững còn nhiều vấn đề lý luận và thực
tiễn cần tiếp tục làm sáng tỏ. Đặc biệt đối với địa phương như tỉnh Bắc Ninh
đang phải đối mặt với những vẫn đề xuống cấp nghiêm trọng của môi trường.
Do đó tác giả chọn vấn đề "Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh
Bắc Ninh" làm đề tài viết luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn quản
lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Thông qua đó phân tích thực trạng năng

lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh, từ đó xây dựng
các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích này, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.

5
- Đánh giá thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh
Bắc Ninh.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh. Đặc biệt là
các tổ chức cá nhân làm nhiệm vụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về học thuật: cơ sở lý luận liên quan đến quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường.
- Về thời gian: nguồn số liệu và cơ sở dữ liệu từ năm (1997-2009).
- Về phạm vi lãnh thổ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Quan điểm sử dụng trong luận văn, trong quá trình nghiên cứu, tác giả
sử dụng cách tiếp cận:
- Tiếp cận trên quan điểm duy vật biện chứng;
- Tiếp cận trên quan điểm duy vật lịch sử;
- Tiếp cận trên quan điểm tổng hợp;
- Tiếp cận trên quan điểm hệ thống.
* Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp các phương pháp để nghiên cứu:

- Sử dụng các phương pháp khảo sát, thu thập tài liệu, thông tin, số liệu
tại một số làng nghề, ban quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp Bắc
Ninh phục vụ nghiên cứu.

6
- Phương pháp thống kê phân tích, bằng việc sử dụng các số liệu ban
đầu về thực trạng quản lý bảo vệ môi trường của tỉnh Bắc Ninh và các đơn vị
thực hiện dự án môi trường ở Bắc Ninh, tiến hành khảo sát thực tế nhằm đánh
giá kiểm chứng các vấn đề có liên quan.
- Phương pháp so sánh, phương pháp chuyên gia: Tiến hành lấy ý kiến
của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý về chủ đề quản lý Nhà
nước về bảo vệ môi trường.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
- Góp phần hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về
quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường và vai trò của nó đối với sự phát triển
bền vững của Việt Nam nói chung và của tỉnh Bắc Ninh nói riêng;
- Phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng
lực quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
- Làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý môi trường trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, cho các đối tượng học viên cao học và sinh viên
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận liên quan đến quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường.
Chƣơng 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh
Bắc Ninh.
Chƣơng 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.





7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG

1.1. Nhận thức về môi trƣờng
1.1.1. Khái niệm môi trường
Môi trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau, vì vậy cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường. Tuy nhiên,
môi trường sử dụng trong lĩnh vực pháp lí quản lý là khái niệm được hiểu như
là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như
là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Điều 3
Luật bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kì họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 định nghĩa môi
trường:
“Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo,
bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và sinh vật” .
Như vậy, theo định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường thì con người trở
thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo.
Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất, trong đó
những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng âm thanh,
các hệ thực vật, hệ động vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng hơn cả. Những
yếu tố này được coi là những thành phần cơ bản của môi trường. Chúng hình
thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả
năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng trong
chừng mực nhất định. Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường

còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo. Những yếu tố này do con người tạo ra
nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân

8
mình, như: hệ thống đê điều, các công trình nghệ thuật, các công trình văn
hóa kiến trúc
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của môi trường
- Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp: môi trường bao gồm nhiều thành
phần hợp thành (như tự nhiên, kinh tế, xã hội…) mỗi thành phần lại có bản
chất khác nhau. Do vậy, nó bị chi phối bởi quy luật khách quan, và các quy
luật đặc thù riêng của mỗi thành phần như các quy luật tự nhiên, các quy luật
kinh tế, các quy luật xã hội.
- Tính động: mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động không ngừng, khi
vận động làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và sau đó lại có
xu hướng lập lại thế cân bằng mới. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ
bản của môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính
trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người.
- Tính mở: Môi trường dù là lớn hay nhỏ như thế nào cũng đều là một
hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục “chảy”
trong không gian và thời gian. Vì thế hệ môi trường rất nhạy cảm với những
thay đổi bên ngoài, điều này lý giải vì sao các vấn đề môi trường mang tính
vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài và nó chỉ được giải quyết bằng nỗ lực của
toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế
giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế
hệ mai sau.
- Khả năng tự tổ chức và điều chỉnh: Trong hệ môi trường có các phần
tử cơ cấu là vật chất sống (con người, giới sinh vật) hoặc là các sản phẩm của
chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự
điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hóa
nhằm hướng tới trạng thái ổn định.

Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quy định tính chất, mức độ,
phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản,

9
lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục
hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt, xây dựng các hồ chứa và các vành
đai cây xanh…).
1.1.3. Vai trò của môi trường
Đối với một cá thể con người, cũng như đối với cộng đồng con người
và cả xã hội loài người, môi trường sống có vai trò quan trọng cụ thể là:
- Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống
và hoạt động sản xuất của con người;
- Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong
cuộc sống và sản xuất của mình
Trong xã hội sản xuất hàng hoá chưa phát triển cao, mật độ dân số thấp,
các chất thải thường được tái sử dụng. Thí dụ, các chất thải bài tiết được dùng
làm phân bón; các chất thải từ nông sản, lâm sản được làm cho thức ăn gia
súc, nhiên liệu. Những thành phần không thể tái sử dụng, tái chế thường được
phân huỷ tự nhiên bởi các sinh vật và vi sinh vật, sau một thời gian ngắn để
trở lại thành những hợp chất hoặc nguyên tố dùng làm nguyên liệu cho các
quá trình sản xuất mới.
Trong xã hội công nghiệp hoá, sản xuất hàng hoá phát triển, mật độ dân
số cao, lượng chất thải thường rất lớn, môi trường không đủ nơi chứa đựng,
quá trình tự phân huỷ không theo kịp so với lượng chất thải tạo ra. Hay người
ta thường gọi lượng chất thải vượt quá mức chịu tải của môi trường. Đây là
nguyên nhân cơ bản gây ra những biến đổi về môi trường ảnh hưởng tới cuộc
sống của con người.
- Môi trường là không gian sống, cung cấp các dịch vụ cảnh quan thiên nhiên:
Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong không gian môi trường,
môi trường là nơi duy nhất cho con người được hưởng các cảnh đẹp thiên

nhiên, thư thái về tinh thần, thoả mãn các nhu cầu tâm lý.
- Ngoài ra môi trường còn cung cấp thông tin cho con người.

10
1.1.4. Phân loại môi trường
Tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, có nhiều cách phân loại môi
trường khác nhau. Có thể phân loại môi trường theo các dấu hiệu sau đây:
- Theo quy mô: Chủ yếu người ta phân loại môi trường theo không gian
địa lý như môi trường toàn cầu, môi trường khu vực, môi trường quốc gia,
môi trường vùng, môi trường địa phương.
- Theo mục đích nghiên cứu sử dụng: Quản lý, sử dụng, khai thác các
nguồn tài nguyên thiên nhiên và xử lý chất thải sao cho không bị ảnh hưởng
tới đời sống hiện tại cũng như đối với các thế hệ mai sau hay nói cách khác là
chỉ xét tới những nhân tố tự nhiên và xã hội liên quan trực tiếp tới cuộc sống
của con người.
Với mục đích nghiên cứu của đề tài này chúng ta sẽ đi sâu vào tiếp cận
phân loại môi trường theo chức năng.
- Theo chức năng được chia làm các loại:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá
học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu
tác động của con người. Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để
xây nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên
khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất
thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm
phong phú.
Môi trường xã hội: Là tổng thể các loại quan hệ giữa con người với con
người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định… ở các cấp
khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, các quốc gia, tỉnh huyện,
cơ quan, làng, xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức
đoàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một

khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển,
làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.

11
Môi trường nhân tạo: Bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên,
làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở
các khu vực đô thị, công viên nhân tạo…
1.2. Bảo vệ môi trƣờng là tất yếu khách quan nhằm hƣớng tới phát
triển bền vững
1.2.1. Phát triển bền vững
Đinh nghĩa của Liên Hợp Quốc (UNEP): “Phát triển bền vững là sự
phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không
tổn hại tới sự thỏa nãm các nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Hình: 1.1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi trƣờng.

Phát triển bền vững là sự phát triển cân đối giữa ba cực: tăng trưởng
kinh tế, xã hội và môi trường, cả ba cực tồn tại độc lập với nhau nhưng lại có
mối quan hệ thống nhất với nhau đó là cùng hướng tới phát triển bền vững.
Do vậy, không được xem nhẹ cực nào.
Theo Quyết định số 153/2004/QĐ - TTg để triển khai thực hiện định
hướng chiến lược phát triển bền vững, tháng 12 năm 2004 tại Hà Nội, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai trương trình nghị sự
21 của Việt Nam. Chương trình tập trung nhiều nội dung, trong đó có hướng
Kinh tế

Xã hội
Phát triển
bền vững




Môi trường

12
dẫn xây dựng thực hiện chương trình phát triển bền vững tại các ngành, địa
phương, nhấn mạnh các ngành, các cấp, các địa phương cần lồng ghép định
hướng phát triển bền vững trong quy hoạch phát triển, trong công tác kế hoạch.
Thực hiện Nghị quyết trên Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành
Quyết định số 73/2007/QĐ- UBND ngày 31/10/2007 về việc phê duyệt Chiến
lược phát triển bền vững tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2006 - 2010, định hướng
đến năm 2010 (Chương trình Nghị sự 21 tỉnh Bắc Ninh). Chương trình đã
đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường
giai đoạn 2001 - 2006, đồng thời đưa ra định hướng phát triển bền vững giai
đoạn 2006 - 2010 định hướng đến năm 2020; Chương trình đã xây dựng
những lựa chọn ưu tiên để phát triển bền vững trên 03 lĩnh vực chủ yếu: lĩnh
vực kinh tế, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực bảo vệ môi trường, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên và đưa ra các giải pháp tổ chức thực hiện.
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội Bắc Ninh liên tục phát triển, tốc
độ phát triển luôn đạt ở mức cao và ổn định, bình quân 5 năm 2001 - 2005 đạt
14%/năm. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển Bắc Ninh đang phải đối mặt
với với nhiều khó khăn, thách thức. Đó là tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn,
đa dạng sinh học bị cạn kiệt, môi trường có dấu hiệu xuống cấp, đời sống sức
khỏe của bộ phận dân cư bị ảnh hưởng. Với mục tiêu trở thành tỉnh công
nghiệp vào năm 2015, Bắc Ninh đang chủ trương chủ động huy động các
nguồn lực phát triển nhằm thực hiện thành công mục tiêu đề ra.
1.2.2. Bảo vệ môi trường nhằm hướng tới phát triển bền vững
Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của quá trình phát triển cuộc
sống con người. Muốn có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ổn định và phát triển,
con người phải bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững.
Vậy để bảo vệ môi trường hướng tới phát triển bền vững chúng ta phải

tuân thủ những nguyên tắc sau đây:
- Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng;

13
- Cải thiện cuộc sống của con người;
- Bảo vệ cuộc sống và tính đa dạng của trái đất, đa dạng sinh học;
- Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được;
- Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. Đó là thói quen đối xử không
tôn trọng thiên nhiên, nước nghèo thì tấn công vào thiên nhiên để tồn tại, còn
các nước giầu thì tiêu dùng lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Mọi người trên
hành tinh không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác đều phải có
quan niệm đúng đắn về giá trị của nguồn tài nguyên thiên nhiên trên trái đất
và những tác động của con người đối với chúng.
- Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. Có như vậy
mới gắn trách nhiệm và quyền lợi của các cộng đồng với môi trường mà họ
đang sống.
- Một xã hội bền vững phải biết kết hợp hài hoà giữa phát triển và bảo
vệ môi trường, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương phải có cơ
cấu thống nhất về quản lý bảo vệ môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên
khoáng sản.
1.2.3. Mối quan hệ giữa môi trường và phát triển bền vững
- Mối quan hệ ngày càng phát triển sâu rộng:
Tương ứng với quá trình phát triển mạnh mẽ về khoa học và công nghệ,
sự tác động của con người trong quá trình phát triển đến môi trường ngày
càng mạnh mẽ về cường độ, sâu sắc và phức tạp về tính chất, đồng thời ngày
càng mở rộng về quy mô đe dọa đến sự PTBV.
- Mối quan hệ chặt chẽ, thường xuyên, lâu dài và qua lại.
Trong môi trường sống, con người chỉ là một bộ phận không thể tách
rời, mà gắn bó mật thiết với từng thành phần của môi trường. Điều này được thể
hiện rõ trong quá trình sinh hoạt, phát triển kinh tế - xã hội con người liên tục,

thường xuyên tác động vào môi trường, làm biến đổi môi trường và tạo ra các
loại môi trường riêng (Môi trường nhân tạo) ngày càng đa dạng và phong phú.

14
- Giải quyết sự lựa chọn giữa phát triển và bảo vệ môi trường hướng
tới phát triển bền vững.
Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật
chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến
quan hệ xã hội. Phát triển là xu thế tất yếu của từng cá nhân và cả loài người
trong quá trình sống. Các hoạt động phát triển kinh tế tác động đến môi
trường thể hiện ở khía cạnh có lợi hoặc không có lợi. Mặt khác, môi trường tự
nhiên đồng thời cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua
việc làm suy thoái nguồn tài nguyên, đang là đối tượng của hoạt động phát
triển hoặc gây ra thảm họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong
khu vực.
Có thể nói rằng, mọi vấn về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể đình chỉ tiến hóa và
ngừng sự phát triển của mình. Con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa môi
trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao cho phát triển
không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường làm
được như vậy là đã giải quyết được sự phát triển bền vững.
1.3. Quản lý Nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng
1.3.1. Bản chất quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường xác định rõ chủ thể là Nhà
nước, bằng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của mình đưa ra các biện
pháp, luật pháp, chính sách kinh tế kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ
chất lượng môi trường sống và phát triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng quản lý Nhà nước về bảo vệ
môi trường xét về mặt bản chất khác với những hình thức quản lí khác như

các hình thức quản lí bảo vệ môi trường do các tổ chức phi chính phủ (NGO:
none Government) đảm nhiệm; quản lí môi trường dựa trên cơ sở cộng đồng;

15
Quản lí môi trường có tính tự nguyện… Hình thức quản lí Nhà nước về môi
trường chủ yếu là điều hành và kiểm soát (CAC: comment And Control).
Quản lí Nhà nước về môi trường là quá trình Nhà nước bằng các cách
thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con
người nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa môi trường và phát triến sao cho
vừa thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của con người vừa đảm bảo được chất
lượng của môi trường sống [nguồn Luật BVMT 2005].
Và như vậy chúng ta có thể thấy rằng Quản lý Nhà nước là sự sử dụng
tổng hợp các công cụ, các biện pháp, chính sách, kinh tế, hành chính, khoa
học - kỹ thuật - công nghệ xã hội nhân văn, văn hóa của Nhà nước và của
các Chính quyền ở Địa phương một cách thích hợp và đồng bộ để tác động,
hướng dẫn điều chỉnh và giám sát các hoạt động của con người, của các tổ
chức xã hội, nhằm giữ vững sự thống nhất và hài hòa giữa sự phát triển kinh
tế - xã hội và bảo vệ môi trường sao cho vừa thỏa mãn nhu cầu sống của con
người, sự tồn tại và phát triển của xã hội, vừa bảo đảm chất lượng sinh thái -
nhân văn nằm trong khả năng chịu đựng của các điều kiện tự nhiên.
Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường quan trọng nhất là quản lý,
điều hành, kiểm tra, giám sát việc bảo vệ môi trường. Để thực hiện tốt việc
quản lý bảo vệ môi trường cần phải biết sử dụng sức mạnh tổng hợp các biên
pháp, các loại công cụ quản lý một cách đồng bộ, thích hợp. Mỗi một công cụ
quản lý chỉ có một chức năng và phạm vi tác động nhất định. Nhiệm vụ của
Nhà nước là liên kết chúng lại với nhau một cách thích hợp để chúng có thể
hỗ trợ lẫn nhau. Vì các công cụ quản lý Nhà nước là sự cụ thể hóa các biện
pháp, phương tiên nhằm thực hiện những nội dung của công tác quản lý bảo
vệ môi trường của Nhà nước ở tất cả các cấp.
Quản lý Nhà nước về môi trường là một trong những hệ thống quản lý

của Nhà nước bao gồm các nội dung cơ bản sau:

16
+ Ban hành tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi
trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
+ Xây dựng thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế
hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự
cố môi trường.
+ Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có
liên quan đến bảo vệ môi trường. Như hệ thống thuỷ lợi (đê sông, đê biển, hồ
chứa nước…), khu vực trồng rừng đầu nguồn, xây dựng công viên, vành đai
cây xanh của các thành phố, khu công nghiệp…
+ Tổ chức xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện
trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
+ Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và
các cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường của các chủ
thể hoạt động, đặc biệt của các cơ sở sản xuất kinh doanh.
+ Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi
trường, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường, xử
lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên
truyền phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
+ Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Tóm lại, quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một nội dung cụ
thể của quản lý Nhà nước. Đó là việc sử dụng các công cụ quản lý trên cơ sở
khoa học, kinh tế, luật pháp, để tổ chức các hoạt động nhằm đảm bảo giữ cân
bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.


17
1.3.2. Tính tất yếu khách quan của quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
Xuất phát từ đặc tính chung của môi trường là có khả năng tự phục hồi,
tự làm sạch, nhưng khi đã bị biến đổi mạnh bởi quá trình phát triển thường
không thể tự lấy lại cân bằng được. Để môi trường có thể lấy lại trạng thái cân
bằng nhất thiết phải có sự can thiệp của con người một cách có ý thức. Sự can
thiệp này không chỉ của từng cá nhân con người, mà phải là của cả cộng đồng
người. Hoạt động mang tính cộng đồng này luôn đòi hỏi phải có tính tổ chức
quyền lực cao. Nhà nước với tư cách là người đại diện hợp pháp lợi ích cho
toàn thể nhân dân lao động, với bộ máy quyền lực công mới có thể tổ chức
được hoạt động này một cách có kết quả.
Nhà nước là chủ sở hữu đối với hầu hết các nguồn tài nguyên thiên
nhiên như đất đai, rừng núi, sông hồ… những nguồn tài nguyên này cũng
đồng thời là những yếu tố, những thành phần quan trọng của môi trường sống.
Là chủ sở hữu Nhà nước có đầy đủ quyền hạn để thiết lập nên chế độ quản lí
và sử dụng chúng để vừa đảm bảo thu được lợi ích kinh tế, vừa bảo vệ được
môi trường, góp phần vào việc giữ cân bằng trạng thái môi trường.
Quản lí mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là một trong những chức
năng cơ bản của Nhà nước, trong đó quản lí môi trường là một mặt, một lĩnh
vực quan trọng và ngày càng được xem là một lĩnh vực cốt yếu.
Kinh nghiệm ở các nước đã đạt được thành tích cao trong hoạt động
bảo vệ môi trường cho thấy quản lí Nhà nước về môi trường là một trong
những nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên
một cách hợp lí và luôn giữ được môi trường ở trạng thái cân bằng.
Vấn đề ngoại ứng và hàng hoá công cộng.
Như chúng ta đã biết ngoại ứng hàng hoá công cộng là những nguyên
nhân gây ra thất bại thị trường, nghĩa là thất bại về mặt chính sách trong quản
lí bảo vệ môi trường, hậu quả là gây ra những thiệt hại cho môi trường, đe dọa
nghiêm trọng tới phát triển bền vững của quốc gia. Vậy để khắc phục tình


18
trạng này đòi hỏi phải có sự quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là một
tất yếu khách quan.
1.3.2.1. Ô nhiễm môi trường đe doạ đến sự sống của con người
Trong “Tuyên bố Joannesburg về phát triển bền vững” năm 2002 của
Liên Hiệp Quốc đã khảng định về những thách thức mà nhân loại đang và sẽ
phải đối mặt có nguy cơ toàn cầu là:
“Môi trường toàn cầu tiếp tục trở nên tồi tệ. Suy giảm đa dạng sinh học
tiếp diễn, trữ lượng cá thể tiếp tục giảm sút, sa mạc hoá cướp đi nhiều đất đai
mầu mỡ, tác động của biến đổi khí hậu đã biểu hiện rõ ràng. Thiên tai ngày
càng nhiều và ngày càng khốc liệt. Các nước đang phát triển trở nên dễ bị tổn
hại hơn. Ô nhiễm không khí, nước và biển tiếp tục lấy đi cuộc sống thanh
bình của hàng triệu người”.
Đối với những vấn đề cụ thể về ô nhiễm môi trường.
- Sự biến đổi khí hậu:
Từ thực tế về biến đổi của khí hậu trong những năm vừa qua cho thấy
tính chất biến đổi rất phức tạp, thất thường. Diễn biến nhiệt độ có xu hướng
tăng lên với đặc điểm là phân hoá mạnh theo cả không gian và thời gian. Ví
dụ như ở Hà Nội So sánh với biến đổi toàn cầu tăng khoảng 7% sau gần 150
năm (1854 - 2000) thì nhiệt độ trung bình năm của Hà Nội đã tăng khoảng
0,75% sau 41 năm (1960 - 2001) lượng mưa phân bổ không đều, nhiều vùng
lượng mưa phân bổ khá lớn dẫn đến lũ lụt. Một số nơi thiếu mưa nghiêm
trọng dẫn đến hạn hán. Bão, lũ, lụt diễn biến phức tạp, thường xuất hiện sớm
với cường độ mạnh.
Từ những đánh giá trên cho thấy xu hướng biến đổi khí hậu theo chiều
hướng ngày càng xấu.
- Môi trường không khí:
Không khí chịu tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hoá, đô
thị hoá, thực tế cho thấy chất lượng không khí ở đô thị và các khu công


19
nghiệp trong những năm gần đây có sự thay đổi không đáng kể. Điều đáng
chú ý nhất đối với môi trường không khí là ô nhiễm bụi có tính điển hình và
phổ biến ở khắp mọi nơi. Hầu hết các đô thị đều ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô
nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động. Nồng độ bụi trung bình ở hầu hết các
đô thị đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1-2 lần, cá biệt có nơi vượt tiêu
chuẩn cho phép tới 5-7 lần. Nguyên nhân chính là do thi công xây dựng mới
và sửa chữa nhưng không được quản lý tốt.
- Môi trường đất:
Thoái hoá là xu hướng phổ biến từ đồng bằng đến trung du và miền
núi. Việc sử dụng các hoá chất trong nông nghiệp không đúng kỹ thuật là
nguyên nhân gây ra ô nhiễm môi trường cục bộ ở một số địa phương và xu
hướng ngày càng gia tăng.
- Môi trường nước:
Do áp lực tăng dân số cùng với tốc độ của công nghiệp hoá và đô thị
hoá nhanh là nguyên nhân cơ bản gây lên áp lực đối với môi trường nước.
Hầu hết nước thải sinh hoạt (kể cả nước thái bệnh viện) ở đô thị là 90% nước
thải từ các khu công nghiệp cũ chưa được xử lý, xả trực tiếp vào kênh mương,
sông, hồ gây ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường nước ở một số địa
phương. Lượng nước ngầm ở một số thành thị lớn đang có xu hướng cạn kiệt
dần về lượng, có dấu hiệu nhiễm và suy giảm mực nước ngầm vào mùa hè.
- Môi trường nông thôn:
Việc phát triển tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề và các cơ sở chế
biến ở một số vùng nông thôn, do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản
xuất nhỏ, phân tán xen kẽ trong dân và hầu như không có thiết bị thu gom,
xử lý chất thải, đã gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề. Đặc biệt nghiêm
trọng là các làng nghề tái chế kim loại, tái chế ni lông, sản xuất giấy,
nhuộm vàng mã… Đối với phần lớn các khu vực nông thôn chưa được cải


20
thiện đáng kể, tỷ lệ số hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28-30% số hộ nông
thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh là 40%.
- Môi trường khu đô thị và khu công nghiệp:
Ô nhiễm do chất thải rắn, tỷ lệ thu gom rác thải tính trung bình ở các
khu đô thị mới đạt khoảng 60-70%. Đặc biệt chất thải nguy hại chưa được thu
gom và xử lý theo đúng quy định.
Khí thải, tiếng ồn, do hoạt động giao thông vận tải nội thị và mạng lưới
sản xuất quy mô vừa, nhỏ, cùng với hạ tầng đô thị yếu kém là nguyên nhân
làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào
tình trạng đáng báo động. Hệ thống cấp nước, thoát nước xuống cấp không
đáp ứng được nhu cầu.
- Môi trường lao động:
Môi trường lao động ở đây được hiểu là môi trường nơi làm việc của
người lao động. Những năm gần đây môi trường nơi làm việc được cải thiện,
có tác động tích cực đến sức khoẻ người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên còn nhiều khu vực sản xuất không
đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn lao động. Tình trạng ô nhiễm về bụi, hoá
chất độc hại, tiếng ồn, nhiệt độ đã làm gia tăng tỷ lệ công nhân mắc bệnh
nghề nghiệp, nhất là trong các ngành nghề hoá chất, luyện kim, vật liệu xây
dựng, khai thác mỏ…
Trên đây là những vấn đề ô nhiễm đáng báo động và ngày càng gia
tăng, phức tạp trên bình diện rộng. Chính vì lẽ đó việc đầu tư trang thiết bị,
đào tạo nhân lực trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không tương xứng thì
không có khả năng đáp ứng kịp thời việc quản lý bảo vệ môi trường.
1.3.2.2. Sở hữu tài nguyên và môi trường thuộc Nhà nước
Nhà nước là chủ sở hữu đối với hầu hết các nguồn tài nguyên thiên
nhiên như đất đai, rừng núi, sông hồ… những nguồn tài nguyên này cũng
đồng thời là những yếu tố, những thành phần quan trọng của môi trường sống.


21
Là chủ sở hữu Nhà nước có đầy đủ quyền hạn để thiêt lập nên chế độ quản lí
và sử dụng chúng để vừa đảm bảo thu được lợi ích kinh tế, vừa bảo vệ được
môi trường, góp phần vào việc giữ cân bằng trạng thái môi trường.
Quản lí mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là một trong những chức
năng cơ bản của Nhà nước, trong đó quản lí môi trường là một mặt, một lĩnh
vực quan trọng và ngày càng được xem là một lĩnh vực cốt yếu.
Kinh nghiệm ở các nước đã đạt được thành tích cao trong hoạt động
bảo vệ môi trường cho thấy, quản lí Nhà nước về môi trường là một trong
những nhân tố quan trọng bảo đảm cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên
một cách hợp lí và luôn giữ được môi trường ở trạng thái cân bằng.
Như vậy, Nhà nước không thể giao cho đối tượng nào khác chịu trách
nhiệm chính quản lý môi trường, trách nhiệm đó phải thuộc về Nhà nước.
1.3.2.3. Vai trò quản lý Nhà nước nhằm khắc phục những khiếm khuyết
của thị trường
Vai trò quản lý bảo vệ môi trường của Nhà nước trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội được quyết đinh bởi những khuyết tật của cơ chế thị
trường. Với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp - tác nhân chủ
yếu gây ô nhiễm và tàn phá môi trường không chú ý hoặc tìm cách né tránh
những chi phí cho bảo vệ môi trường. Do vậy, với những công cụ trong tay,
Nhà nước cần thiết phải tăng cường vai trò quản lý của mình để điều chỉnh
điều tiết hoạt động, hành vi của các doanh nghiệp đề thực hiện mục tiêu bảo
vệ môi trường.
Huy động, phát huy sự tham gia của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
và toàn thể cộng đồng trong bảo vệ môi trường.
Mặc dù Nhà nước có vai trò to lớn, không thể thay thế được trong việc
bảo vệ môi trường, nhưng nếu chỉ có Nhà nước thì cũng không thể bảo vệ
được môi trường. Mỗi công dân trong cộng đồng trực tiếp và thường xuyên
hàng ngày, hàng giờ, thậm chí hàng phút, hàng giấy tới môi trường sống qua


22
sinh hoạt và sản xuất. Môi trường tốt lên hay xấu đi phụ thuộc rất nhiều vào ý
thức và hành động của mỗi người.
Con người là một bộ phận hữu cơ của môi trường, gắn bó mật thiết và
trực tiếp với tất cả các thành phần của môi trường. Do vậy, mỗi người, mỗi
thành viên trong cộng đồng đều bình đẳng, có quyền lợi và trách nhiệm như
nhau đối với việc sử dụng cũng như bảo vệ thiên nhiên, môi trường. Điều đó
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và phải được chú ý trên cả hai phương diện:
- Ý thức giữ gìn và hành động thân thiện trong việc bảo vệ thiên nhiên,
môi trường.
- Đóng góp sức của, sức người của các tổ chức và cá nhân cho sự
nghiệp bảo vệ thiên nhiên, môi trường.
1.3.3. Các công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường
Công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường là các biện pháp hành
động nhằm thực hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức
khoa học và sản xuất. Mỗi công cụ có một chức năng và phạm vi tác động
nhất định, chúng liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Theo bản chất có thể chia công cụ quản lý Nhà nước về bảo vệ môi
trường thành các loại cơ bản sau:
1.3.3.1. Công cụ chính sách và pháp luật: Cộng cụ luật pháp, chính
sách hay còn gọi là các công cụ pháp lý bao gồm các văn bản về luật quốc tế,
luật quốc gia, các văn bản khác dưới luật (Pháp lệnh, nghị định, quy định các
tiêu chuẩn môi trường, giấy phép môi trường…) kế hoạch, chiến lược và
chính sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế và địa phương.
Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các quy tắc, quy phạm quốc tế
điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế
trong việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc
gia và môi trường ngoài phạm vi sử dụng của quốc gia. Cho đến nay đã có
hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường. Việt Nam đã tham gia và


23
ký kết nhiều văn bản trong số đó. Pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường do
nhiều nước ký kết hoặc tham gia không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ
quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nào đó, các
quy phạm của Luật quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải được chuyển hoá
thành quy phạm pháp luật quốc gia nghĩa là Nhà nước phải phê chuẩn các văn
bản này.
Luật Môi trường quốc gia là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các
nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong
quá trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của
môi trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau, nhằm
bảo vệ hiệu quả môi trường sống của con người. Hệ thống luật bảo vệ môi
trường của một quốc gia thường gồm luật chung và luật sử dụng hợp lý các
thành phần môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương, một
ngành.
Ở Việt Nam, Luật bảo vệ Môi trường được Quốc hội thông qua ngày
29/11/2005 là văn bản quan trọng nhất về bảo vệ môi trường. Nhiều khía cạnh
bảo vệ môi trường cũng được đề cập trong các văn bản pháp luật khác (gọi là
luật của các thành phần môi trường) như Luật Khoáng sản, Luật Phát triển và
Bảo vệ rừng, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Tài nguyên nước, Luật Đê
điều…
- Nghị định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hoá hoặc hướng
dẫn thực hiện các nội dung của luật. Nghị định của chính phủ do tập thể chính
phủ ban hành theo đa số một nửa để thực hiện chức năng của chính phủ .
- Thông tư do Bộ trưởng và các Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành
có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
- Tiêu chuẩn môi trường, là những chuẩn mực, giới hạn cho phép, được
quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường. Tiêu chuẩn môi trường có
quan hệ mật thiết với phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc xây dựng


24
tiêu chuẩn môi trường một mặt dựa trên quy định đã được kiểm nghiệm thực
tế mặt khác phải có nhiều căn cứ khoa học, nhằm bảo đảm cho tiêu chuẩn môi
trường phù hợp với nhu cầu bảo vệ sinh thái, đồng thời khả thi về mặt kinh tế,
xã hội. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường phản ánh trình độ khoa học, công
nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế xã hội có tính đến dự báo phát triển.
Cơ cấu của hệ thống tiêu chuẩn môi trường bao gồm các nhóm sau:
+ Những quy định chung;
+ Tiêu chuẩn nước (nước mặt, nước ngầm, nước thải…)
+ Tiêu chuẩn không khí (khói bụi, khí thải,…).
+ Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng hoá chất, sử
dụng hoá chất liên quan đến đất nông nghiệp;
+ Tiêu chuẩn về bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ…
+ Tiêu chuẩn liên quan đến cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử văn hoá.
+ Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác
khoáng sản trong lòng đất ngoài biển…
1.3.3.2. Công cụ kinh tế: Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ dựa vào
thị trường là công cụ chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi
ích trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh
hưởng tới hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường.
Một số công cụ kinh tế chủ yếu là:
- Thuế tài nguyên: Là một khoản thu của ngân sách Nhà nước đối với các
doanh nghiệp về sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trính sản xuất.
- Thuế, phí môi trường: Thuế, phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm
đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc “Người gây ô
nhiễm phải trả tiền” Thuế, phí môi trường nhằm hai mục đích chủ yếu:
Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường
và tăng nguồn thu cho ngân sách.

×