Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG



TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ HƢƠNG GIANG



TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY
TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ
TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS, TS. PHẠM QUANG PHAN



HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA
CHÁY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 6

1.1. Một số khái niệm cơ bản 6
1.1.1. Khái niệm Dịch vụ phòng cháy chữa cháy - một hàng hoá
công cộng. 6
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nƣớc về phòng cháy chữa cháy 16
1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài 19
1.2. Vai trò quản lý nhà nƣớc đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 20
1.2.1. Nội dung quản lý nhà nƣớc đối với dịch vụ phòng cháy
chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài 20
1.2.2. Tầm quan trọng của quản lý nhà nƣớc đối với dịch vụ
phòng cháy chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở nƣớc ta 24
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà nƣớc đối với dịch vụ phòng
cháy chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài 26
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản, Trung Quốc, Nga 26
1.3.2. Những bài học rút ra cho Việt Nam 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI
DỊCH VỤ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 32
2.1. Thực trạng cầu về dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam 32
2.1.1. Tổng quan về khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài ở nƣớc ta 32
2.1.2. Cầu về dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam 36
2.2. Cung về dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam 49
2.2.1. Quản lý Nhà nƣớc đối với cung dịch vụ phòng cháy chữa

cháy về mặt vĩ mô 49
2.2.2. Quản lý Nhà nƣớc đối với cung dịch vụ phòng cháy chữa
cháy về công tác hỗ trợ 56
2.3. Đánh giá chung về hoạt động quản lý nhà đối với dịch vụ phòng
cháy chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài ở Việt Nam 62
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc 62
2.3.2. Một số tồn tại và nguyên nhân cơ bản 63
2.3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết để nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với dịch vụ phòng cháy
chữa cháy trong các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài ở Việt Nam 66
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG
CƢỜNG VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ
PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY TRONG CÁC DOANH NGHIỆP ĐẦU
TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM 70
3.1. Định hƣớng tăng cƣờng công tác quản lý của nhà nƣớc đối với
dịch vụ phòng cháy chữa cháy ở nƣớc ta hiện nay 70
3.1.1. Dự báo tình hình cháy nổ ảnh hƣởng tới công tác quản lý
nhà nƣớc đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy 70
3.1.2. Phƣơng hƣớng đẩy mạnh công tác quản lý nhà nƣớc đối
với dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 72
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng vai trò quản lý nhà
nƣớc đối với dịch vụ phòng cháy chữa cháy trong doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam 74
3.2.1. Nhóm giải pháp ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu về dịch
vụ phòng cháy chữa cháy đối với doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam 74
3.2.2. Giải pháp dài hạn nhằm hoàn thiện hệ thống cung ứng

dịch vụ phòng cháy chữa cháy 76
3.3. Một số kiến nghị cơ bản đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài nhằm tăng cƣờng hiệu quả cho các nhóm giải
pháp trên 82
3.3.1. Nâng cao trách nhiệm của ngƣời đứng đầu cơ sở của các
doanh nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 82
3.3.2. Tăng cƣờng hoạt động tuyên truyền giáo dục về phòng
cháy chữa cháy 84
3.3.3. Trang bị đầy đủ, đồng bộ và sử dụng có hiệu quả phƣơng
tiện, dụng cụ phòng cháy chữa cháy tại chỗ 85
3.3.4. Tăng cƣờng hoạt động tự kiểm tra an toàn phòng cháy
chữa cháy trong cơ sở có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài 86
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 92

BẢNG QUY ƢỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DN: Doanh nghiệp
KCN: Khu công nghiệp
NXB: Nhà xuất bản
PCCC: Phòng cháy chữa cháy
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày 4 tháng 10 năm 1961 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
53/LCT công bố Pháp lệnh “quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công
tác PCCC”, đặt cơ sở pháp lý cho toàn bộ hoạt động phòng cháy và chữa cháy
ở nước ta. Pháp lệnh trên đã được các cấp, các ngành và đông đảo nhân dân tự
giác thực hiện và là tiền đề để xây dựng luật PCCC sau này, góp phần quan
trọng thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta.
Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện đường lối đổi mới và phát triển
kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta, các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam ngày càng tăng, cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ các khu công
nghiệp, khu chế xuất công nghệ cao, các trung tâm thương mại, khu chung cư
cao tầng… kéo theo là sự gia tăng các vụ hoả hoạn về số lượng và mức độ
thiệt hại gây khó khăn không nhỏ trong công tác quản lý nhà nước về PCCC.
Đặc biệt đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đầu tư
lớn, ngành nghề sản xuất đa dạng, sử dụng nhiều nguyên nhiên vật liệu có
tính chất nguy hiểm cháy, nổ cao tăng, thì nguy cơ cháy và thiệt hại do cháy
gây ra ngày càng lớn. Cháy lớn không những gây thiệt hại rất nghiêm trọng về
tài sản mà còn làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của nước ngoài vào Việt
Nam cũng như sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung.
Vì vậy, để quản lý tốt và hạn chế đến mức tối đa các vụ cháy và thiệt
hại do cháy gây ra, trong thời gian gần đây công tác PCCC đã được Đảng, nhà
nước và các cấp chính quyền quan tâm. Năm 2001, luật PCCC đã được Quốc
hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 4/10/2001.
Ngày 4/4/2003 Chính phủ có Nghị định số 35/2003/NĐ - CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy. Ngoài ra, còn nhiều

2
văn bản quan trọng khác có liên quan của nhiều cấp, ngành phục vụ cho công
tác PCCC. Tuy nhiên, trên thực tế công tác PCCC vẫn còn nhiều hạn chế,
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra và chưa bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế thị

trường ở Việt Nam. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân song nguyên nhân
cơ bản nhất là vai trò quản lý nhà nước về dịch vụ PCCC còn nhiều bất cập.
Từ thực tiễn trên cho thấy việc nghiên cứu đề tài “Tăng cường vai trò
quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiêp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam” là một yêu cầu có tính cấp thiết cả về mặt
lý luận và thực tiễn đối với nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC đã được đề cập trong nhiều đề
tài nghiên cứu khoa học các cấp cũng như một số giáo trình chuyên ngành,
một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ. Sau đây có thể nêu một số ví dụ cụ
thể:
- Luận án tiến sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Quang Thứ, Hà Nội, 2004
với đề tài "Dịch vụ phòng cháy chữa cháy - Một loại hàng hoá công cộng
trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nứớc ta". Luận án nghiên cứu lý luận
và thực tiễn về dịch vụ PCCC với tư cách là một loại hàng hoá công cộng
trong nền kinh tế thị trường, từ đó xác định phương hướng và giải pháp chủ
yếu nhằm phát triển dịch vụ PCCC trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta.
- Đề tài khoa học cấp bộ Công an của các tác giả: Đào Quốc Hợp, Bùi
Xuân Hoà, Đặng Trung Khánh: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn để xác định
nhu cầu nhân lực và tổ chức đào tạo cán bộ PCCC cho các ngành, đoàn thể và
các tổ chức kinh tế - xã hội", Hà Nội, 2006. Đề tài phân tích những nhiệm vụ
cơ bản của lực lượng dân phòng, lực lượng phòng cháy và chữa cháy trên cơ
sở phân tích kết quả điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng lực lượng PCCC
đề tài đã xác định nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực PCCC và đề xuất một số

3
giải pháp phù hợp cho công tác tổ chức đào tạo cán bộ PCCC trình độ đại
học, trung học cho các ngành, đoàn thể và các tổ chức kinh tế - xã hội.
- Đề tài khoa học cấp Bộ Công an của các tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn,

Nguyễn Thế Từ, Kiều Hồng Mai: "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng cháy, chữa cháy trong các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nước ta
hiện nay", Hà Nội, 2004. Nội dung đề tài nhằm phân tích những vấn đề về lý
luận và thực tiễn hoạt động PCCC trong các cơ sở sản xuất công nghiệp trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu đề tài đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
PCCC trong các cơ sở sản xuất công nghiệp.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở Trường Đại học PCCC: "Nghiên cứu biện
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Phòng cháy chữa cháy trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ" của tác giả Vũ Hữu Quyết, Hà Nội, 2004. Đề tài gồm 3
chương: Doanh nghiệp vừa và nhỏ, những vấn đề liên quan đến hoạt động
PCCC; Thực trạng hoạt động PCCC trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ; Một
số biện pháp và kiến nghị.
- Đề tài khoa học cơ sở của tác giả Đào Hữu Dân - Trường Đại học
PCCC: "Nghiên cứu chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực PCCC của
lực lượng Cảnh sát PCCC trước yêu cầu đòi hỏi của sự ngiệp đổi mới đất
nước hiện nay", Hà Nội, 2001. Nội dung đề tài gồm 3 chương: Cơ sở pháp lý
của việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực PCCC; Thực
trạng việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về PCCC của lực lượng
Cảnh sát PCCC hiện nay; Một số kiến nghị và đề xuất.
- Công trình “Nghiên cứu sự chuyển đổi nhận thức về hoạt động PCCC
từ khi chuyển sang kinh tế thị trường” của tiến sĩ Ngô Văn Xiêm năm 1999.
Trong công trình này tác giả đã đánh giá vai trò của công tác PCCC đối với sự
phát triển kinh tế xã hội; phân tích tư duy kinh tế theo cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp đã cản trở việc phát triển các loại hàng hoá công cộng, trong đó
có dịch vụ PCCC.

4
Ở nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vấn đề tổ chức, quản lý và phát triển sản xuất các hàng hóa công

cộng, trong đó có dịch vụ PCCC cũng đã được nhận thức và thực hiện ngày
càng có hiệu quả hơn. Các công trình trên đã nghiên cứu nhiều về công tác
PCCC của lực lượng Cảnh sát PCCC ở nước ta hiện nay. Song chưa có đề tài
nào đi sâu phân tích vấn đề quản lý nhà nước về PCCC như một đối tượng
nghiên cứu hoàn chỉnh.
Vì vậy, với cách tiếp cận riêng của mình, đề tài luận văn "Tăng cường
vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam" là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách toàn diện về quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam dưới góc nhìn của
chuyên ngành kinh tế chính trị.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động
quản lý nhà nước về dịch vụ PCCC trong Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò
quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã giải
quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ dịch vụ PCCC là một hàng hoá công cộng và cơ sở lý luận của
hoạt động quản lý nhà nước đối với hàng hoá dịch vụ PCCC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động PCCC trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò quản lý nhà nước đối với
dịch vụ PCCC trong DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

5
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà
nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Quan điểm tiếp cận:
Với quan điểm: “Cân bằng cung - cầu dịch vụ PCCC là thước đo hiệu
quả vai trò quản lý Nhà nước về dịch vụ PCCC”, đề tài tiếp cận vai trò quản
lý Nhà nước về dịch vụ PCCC với 2 nội dung chủ yếu là cầu về dịch vụ
PCCC và cung về dịch vụ PCCC. Trên quan điểm đó toàn bộ nghiên cứu
được triển khai theo khung logic (hình 1).
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn
của công tác quản lý nhà nước về cung dịch vụ PCCC, cầu về dịch vụ PCCC
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó đưa ra các
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ
PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu: Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn chỉ đi sâu
nghiên cứu khía cạnh kinh tế, còn khía cạnh kỹ thuật, nghiệp vụ chỉ đề cập
trong chừng mực cần thiết.
Hình 1. Khung logic về phƣơng pháp tiếp cận nội dung nghiên cứu của đề tài

Hiện trạng dịch vụ
PCCC trong các DN
Hệ thống cung ứng
DV PCCC
Cầu về DV PCCC
trong các DN
Cung về DV PCCC
với các DN
VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DN CÓ
VỐN ĐTTT NƯỚC NGOÀI

6

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Dựa vào lý luận Kinh tế chính trị Mác - Lênin, quan điểm của Đảng,
Nhà nước và tiếp thu có chọn lọc lý luận của kinh tế học hiện đại cùng một số
đề tài khoa học về lĩnh vực PCCC.
- Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, nhất là phương pháp trừu
tượng hoá của Kinh tế - chính trị, coi trọng phương pháp phân tích và tổng
hợp, phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp mô hình hoá…để rút ra
những kết luận và giải pháp thực tiễn của hoạt động quản lý nhà nước về
PCCC ở nước ta.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn chỉ rõ dịch vụ PCCC là một hàng hoá công cộng cũng như
vai trò quản lý nhà nước đối với hàng hoá dịch vụ này.
- Luận văn phân tích thực trạng quản lý nhà nước về dịch vụ PCCC
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ các số liệu thu
thập thông qua nguồn của Cục Cảnh sát PCCC (C23) để từ đó đưa ra những
giải pháp khả thi tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm hạn chế tới mức
tối thiểu số lượng và mức độ thiệt hại do cháy, nổ gây ra tạo môi trường tốt
thu hút đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường vai trò quản lý nhà
nước đối với dịch vụ PCCC trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với dịch vụ
PCCC trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 3. Phướng hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường vai
trò quản lý nhà nước đối với dịch vụ PCCC trong doanh nghiệp đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam.


7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TĂNG CƢỜNG VAI TRÕ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ PHÕNG CHÁY CHỮA CHÁY
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Dịch vụ phòng cháy chữa cháy - một hàng hoá công cộng
1.1.1.1. Khái niệm dịch vụ phòng cháy chữa cháy
Để tìm hiểu khái niệm dịch vụ PCCC chúng ta cần phân tích, nghiên
cứu hai khái niệm độc lập là khái niệm dịch vụ và khái niệm PCCC.
Một là khái niệm dịch vụ: Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về
dịch vụ: Có quan điểm cho rằng, dịch vụ chỉ là hoạt động của những ngành
phục vụ, tức là một công việc cho người khác hay cho cộng đồng, làm một
việc mà hiệu quả của nó đáp ứng yêu cầu nào đó của con người như: vận
chuyển, sửa chữa, bảo dưỡng…
Lại có quan niệm cho rằng: Dịch vụ là hoạt động cung ứng lao động
khoa học, kỹ thuật nghệ thuật… nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh
doanh, đời sống vật chất, tinh thần các hoạt động ngân hàng tín dụng, cầm đồ,
bảo hiểm.
Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại dịch vụ được hiểu rộng hơn,
bao gồm tất cả các ngành, các lĩnh vực tạo ra giá trị tổng sản phẩm quốc nội
hay tổng sản phẩm quốc dân trừ các sản phẩm hiện vật.
Quan niệm của C. Mác hàng hoá được chia ra làm hai bộ phận: hàng
hoá hữu hình và hàng hoá vô hình hay dịch vụ. Do đó, hàng hoá dịch vụ cũng
giống các hàng hoá khác đều có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

8
Tuy vậy, hiểu một cách chung nhất thì dịch vụ là: những hoạt động lao

động mang tính xã hội cao, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại
dưới hình thái vật thể nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và đời sống của
con người một cách kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn [29, tr.12].
Mặc dù vậy, có thể hiểu dịch vụ bằng cách xem xét các đặc điểm nổi
bật và khác biệt của dịch vụ so với hàng hoá. Có ba đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, dịch vụ mang tính vô hình. Tính vô hình của dịch vụ thể hiện
ở chỗ sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật
phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó không thể xác định chất lượng
dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa.
Thứ hai, quá trình sản xuất (cung ứng) dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy
ra đồng thời. Trong nền kinh tế hàng hóa, sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu
thông và tiêu dùng. Do đó hàng hóa có thể được lưu kho để dự trữ, có thể vận
chuyển đi nơi khác theo nhu cầu của thị trường. Khác với hàng hóa, quá trình
cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Thí dụ với dịch vụ tư vấn
đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư tư vấn khách hàng cũng là lúc khách hàng
tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn do người chuyên gia này cung
ứng.
Thứ ba, không thể lưu trữ được dịch vụ. Sự khác biệt này là do sản xuất
và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng
loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
Như vậy, dịch vụ là một lĩnh vực mở, thay đổi và phát triển tuỳ thuộc
vào sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, của tiến bộ khoa
học công nghệ và của kinh tế thị trường hiện đại. Dịch vụ là phương tiện hữu
hiệu để thực hiện mục tiêu “vì con người”, tạo khả năng cho con người phát
triển toàn diện.
Hai là, khái niệm Phòng cháy chữa cháy: Để hiểu được khái niệm về
Phòng cháy chữa cháy (PCCC) trước hết phải hiểu thế nào là cháy. Theo luật

9
PCCC: Cháy là: “trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát đựơc có thể gây

thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi truờng” [26, tr.8].
Do đó, việc nghiên cứu tìm ra bản chất, quy luật của quá trình phát
sinh, phát triển đám cháy đối với mỗi chất, mỗi quá trình trong công nghệ sản
xuất, trong mọi hoạt động bình thường của xã hội…là để tìm ra các giải pháp
phòng ngừa có hiệu quả, đó chính là hoạt động phòng cháy. Khoa học về
phòng cháy và chữa cháy chỉ ra rằng: Phòng cháy là tổng hợp các biện pháp,
giải pháp về tổ chức, kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn chế các điều kiện và
nguyên nhân gây cháy, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cứu người, cứu tài
sản, chống cháy lan khi xảy ra cháy và cho việc dập tắt đám cháy [10, tr.7].
Tuy nhiên, sự cháy phát sinh và phát triển thành đám cháy là một quá
trình hết sức phức tạp do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong
đó có những nguyên nhân do sơ xuất bất cẩn hoặc ngoài sự kiểm soát của con
người đã và sẽ tiếp tục tồn tại, gây nên những vụ cháy có thể gây tổn hại lớn
về người và tài sản. Vì vậy, việc phòng cháy phải đi đôi với chữa cháy, hoạt
động chữa cháy tồn tại như một tất yếu trong các mặt hoạt động chung của xã
hội. Theo khoa học về phòng cháy và chữa cháy thì chữa cháy là tổng hợp các
biện pháp về tổ chức, kỹ thuật và chiến thuật để cứu người, cứu tài sản, chống
cháy lan và dập tắt đám cháy.
Như vậy, ta thấy Phòng cháy và chữa cháy tuy là hai khái niệm có nội
dung khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên một thể
thống nhất trong hoạt động PCCC, từ đó có thể khái quát thành khái niệm
chung về phòng cháy và chữa cháy như sau: Phòng cháy và chữa cháy là tổng
hợp các biện pháp, giải pháp về tổ chức, chiến thuật và kỹ thuật nhằm loại
trừ hoặc hạn chế nguyên nhân, điều kiện gây cháy; tạo điều kiện thuận lợi
cho việc chủ động cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan và chữa cháy kịp
thời, có hiệu quả khi có cháy xảy ra [10, tr.8].

10
Từ việc nghiên cứu hai khái niệm trên chúng ta có thể rút ra kết luận về
dịch vụ PCCC như sau:

Là những hoạt động lao động mang tính xã hội cao, tạo ra các sản
phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể bao gồm các biện pháp,
giải pháp về tổ chức, chiến thuật và kỹ thuật nhằm loại trừ hoặc hạn chế
nguyên nhân, điều kiện gây cháy; tạo điều kiện thuận lợi cho việc chủ động
cứu người, cứu tài sản, chống cháy lan và chữa cháy kịp thời, có hiệu quả
nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất và đời sống của con người một cách kịp
thời, thuận lợi và hiệu quả.
1.1.1.2. Khái niệm hàng hoá công cộng.
Trong nền kinh tế thị trường, người ta thường chia các loại hàng hoá
thành hai nhóm là hàng hoá cá nhân và hàng hoá tập thể hay hàng hoá công
cộng. Hàng hoá cá nhân là loại hàng hoá mà nếu một người đã sử dụng và tiêu
dùng nó thì người khác không thể tiêu dùng nó được nữa. Người này nếu
muốn tiêu dùng hàng hoá cá nhân thuộc quyền sở hữu của người kia thì phải
mua, thuê, mượn.
Khác với hàng hoá cá nhân, hàng hoá công cộng mang những đặc trưng
khác biệt và có rất nhiều quan niệm khác nhau về hàng hoá công cộng:
- Từ điển kinh tế học hiện đại (1999) do D.Pearce cho rằng: hàng hoá
công cộng là hàng hoá hoặc dịch vụ mà nếu đã sản xuất và cung ứng cho một
người nào đó thì đối với những người khác cũng được cung cấp như vậy mà
không phải chịu bất cứ chi phí nào thêm.
- P. Samuelson định nghĩa: Hàng hoá công cộng là những hàng hoá mà
lợi ích của nó có thể phân chia trong toàn bộ cộng đồng mà không phân biệt
một cá nhân nào đó mong muốn mua hàng hoá đó hay không.
- D.Begg cho rằng: Hàng hoá công cộng là một loại hàng hoá mà ngay
cả khi một người đã dùng thì người khác vẫn có thể dùng được [8].

11
Như vậy, chúng ta thấy rằng có nhiều quan niệm khác nhau về hàng
hoá công cộng, nhưng theo tôi quan niệm của D.Begg là hợp lý hơn cả. Với
định nghĩa này ta thấy được sự khác biệt rất lớn giữa hàng hoá cá nhân và

hàng hoá công cộng. Nếu hàng hoá cá nhân được sản xuất, phân phối, tiêu
dùng chịu sự chi phối hoàn toàn bởi các quy luật kinh tế của thị trường thì
hàng hoá công cộng không hoàn toàn theo cơ chế thị trường, nghĩa là không
hoàn toàn lấy lợi nhuận đơn thuần là mục tiêu và do tính xã hội của hàng hoá
nên nó được nhà nước quản lý.
1.1.1.3. Các đặc trưng cơ bản của hàng hoá dịch vụ phòng cháy chữa cháy
Hàng hoá dịch vụ PCCC là hàng hoá công cộng nên ngoài các đặc
trưng có tính đặc thù ra thì nó vẫn mang các đặc trưng cơ bản của hàng hoá
công cộng.
* Đặc trưng chung của hàng hoá công cộng.
Hàng hoá công cộng được đề cập lần đầu tiên trong một bài báo của
Paul Samuelson viết năm 1945. Trong bài báo này Samuelson cho rằng hàng
hoá công cộng có hai thuộc tính cơ bản là tính tiêu dùng không đối đầu (non -
rivalry) và tính tiêu dùng không loại trừ (non - excludability).
Tiêu dùng không đối đầu: có nghĩa là những người tiêu dùng không bị
đặt vào tình huống đối đầu nhau khi cùng sử dụng một hàng hoá. Tiêu dùng
của người này không làm giảm tiêu dùng hàng hoá công của người kia.
Tiêu dùng không loại trừ: có nghĩa là tiêu dùng của người này không
ngăn cản tiêu dùng của người khác. Những người đang tiêu dùng không thể
cấm những người chưa tiêu dùng, dùng hàng hoá như mình. Trong ví dụ công
viên, những người ở trong công viên không thể cấm người khác đang đi vào
công viên với lý do rằng công viên này đang thuộc quyền sử dụng của những
người đến trước. Hay như việc nhà nước thực hiện các chương trình chăm sóc
sức khoẻ quốc gia (tiêm phòng chống bại liệt) mọi người dân đều được hưởng
dịch vụ trên.

12
Như vậy, chúng ta thấy rằng bản chất kinh tế của hàng hoá công cộng
là chi phí sản xuất vô cùng lớn (để phục vụ nhiều người) nhưng khi sản xuất
xong, chi phí để chấp nhận thêm một người sử dụng mới là 0.Vì vậy, đối với

hàng hoá dịch vụ việc sản xuất và cung ứng thường thuộc về nhà nước.
* Đặc trưng mang tính đặc thù của hàng hoá dịch vụ phòng cháy chữa cháy
Trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây,
ta có thể rút ra các đặc trưng đặc thù của hàng hoá dịch vụ PCCC với tư cách
là hàng hoá công cộng như sau:
Thứ nhất, Dịch vụ PCCC là dịch vụ công ích mang tính xã hội cao, gắn
với an toàn và an ninh cuộc sống của mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi cơ
quan.
Như chúng ta biết, việc sử dụng dịch vụ PCCC đem lại nhiều lợi ích
cho người sử dụng. Mỗi một người dân khi sử dụng dịch vụ PCCC không
những được hưởng những lợi ích nhất định (hay đúng hơn là tránh được thiệt
hại) mà còn là chủ thể tham gia vào dịch vụ này. Chỉ cần một sơ suất của
người dân trong việc dùng lửa, dùng điện, một sự sơ suất của công nhân trong
việc sắp xếp, vận chuyển hàng hoá, nhất là những hàng hoá dễ cháy, nổ hoặc
là một sự thiếu thận trọng trong thiết kế xây dựng, như tính toán không đúng
giới hạn chịu lửa, chịu nhiệt của cấu điện, dùng vật liệu dễ cháy ở vách, trần
nhà…là có thể gây hoả hoạn làm thiệt hại tài sản và sinh mệnh của nhân dân.
Nếu mọi người dân có ý thức cảnh giác phát hiện và báo kịp thời các vụ
hoả hoạn cho lực lượng PCCC thì sẽ làm tốt được dịch vụ PCCC, hạn chế,
ngăn ngừa được thiệt hại và tổn thất không nhỏ do cháy, nổ gây ra.
Như vậy, dịch vụ PCCC mang tính xã hội cao, bởi vậy việc tổ chức và
thực hiện dịch vụ này phải dựa trên cơ sở huy động các nguồn lực của nhân
dân, mỗi người dân đều có thể trở thành chủ thể tham gia công tác PCCC, mọi
đơn vị kinh tế, mọi cơ quan phải chủ động chuẩn bị các phương tiện PCCC.
Dịch vụ PCCC thực hiện trên nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm.

13
Thứ hai, Phát triển dịch vụ phòng cháy chữa cháy rất cần vai trò quản
lý của nhà nước.
Như phân tích ở phần trước, Dịch vụ PCCC là hàng hoá công cộng có

chi phí cận biên thấp hơn thu nhập cận biên rất nhỏ và có thể loại trừ nhưng
không muốn loại trừ. Vì vậy, hàng hoá này không chỉ dựa vào sự điều tiết của
thị trường mà vai trò của nhà nước phải giữ vị trí chủ đạo nhằm huy động
nguồn lực của toàn dân trong việc cung ứng. Muốn phát huy vai trò chủ đạo
của nhà nước trong quản lý và phát triển dịch vụ PCCC thì trước hết nhà nước
phải hoàn thiện luật pháp về PCCC, giám sát và kiểm tra nghiêm ngặt việc
tuân thủ các quy phạm pháp luật ấy; quy định rõ ràng trách nhiệm và quyền
hạn của mọi cấp mọi ngành, mọi công dân trong việc PCCC, xử lý nghiêm
mọi hành vi phạm pháp. Thực tế cho thấy: phòng cháy hơn chữa cháy, vì vậy
công tác giám sát, kiểm tra, phát hiện sớm những sai phạm trong lĩnh vực này
có tầm quan trọng đặc biệt so với các lĩnh vực khác.
Thứ ba, Dịch vụ phòng cháy chữa cháy chịu ảnh hưởng rất lớn của thời
tiết, khí hậu và thuộc tính lý, hoá của hàng hoá nhất là những hàng hoá dễ
cháy, dễ nổ.
Cũng như các ngành dịch vụ khác, ngành dịch vụ PCCC chịu ảnh
hưởng lớn của thời tiết, khí hậu và các thuộc tính lý, hoá… Những năm có khí
hậu khô, hanh, hạn hán thường dễ gây cháy rừng. Những doanh nghiệp sử
dụng thiết bị tiêu thụ nhiều điện, nhiệt, sấy, chất nổ, xăng dầu…phải soạn
thảo qui chế PCCC chặt chẽ, chuẩn bị phương án PCCC chu đáo, giáo dục ý
thức PCCC cao cho mọi cán bộ, công nhân; phương tiện thông tin về cháy
nhanh nhạy, phải tăng cường kiểm tra chuyên đề.
Đối với những cơ sở trọng điểm này phải có sự phối hợp giữa cơ quan
quản lý nhà nước về PCCC với các đơn vị hữu quan, như Tổng công ty điện
lực, tổng công ty xăng dầu, tổng công ty dầu khí, tổng công ty hoá chất…

14
Thứ tư, Dịch vụ phòng cháy chữa cháy có mối quan hệ khăng khít với
quốc phòng, an ninh nói chung, bởi vậy cần phải lồng ghép dịch vụ PCCC với
các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, hệ thống quốc phòng toàn
dân.

Trong các nguyên nhân gây cháy nổ có không ít trường hợp do âm mưu
phá hoại, gây rối trật tự, như các thế lực phản động trong nước hoặc ngoài
nước thâm nhập vào để phá kho xăng, nhà máy điện; hoặc kẻ phạm pháp gây
cháy để phi tang tài liệu, chứng cớ nhằm che dấu tội ác… Trong những
trường hợp này không thể tách riêng dịch vụ PCCC mà phải gắn nó với các cơ
quan hữu quan trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh mới thực hiện tốt dịch vụ
này được.
Thứ năm, Hoạt động dịch vụ PCCC có thể phân thành tám nhóm với
các đặc điểm mang tính chất đặc thù.
Ở nước ta hiện nay có rất nhiều loại hình dịch vụ hoạt động thông qua
các nghề có liện quan đến công tác đảm bảo an toàn PCCC. Mỗi loại hình có
một đặc thù riêng và do vậy công tác quản lý đối với mỗi loại hình dịch vụ
này cũng khác nhau. Dựa trên những nhóm nghề hoạt động có cùng tính chất,
đặc điểm cùng những yêu cầu cơ bản trong công tác quản lý nhà nước có thể
phân loại hoạt động dịch vụ PCCC thành tám nhóm sau:
+ Xuất nhập khẩu phương tiện PCCC: Là hoạt động mua bán, tạm nhập
tái xuất, tạm xuất tái nhập hoặc chuyển khẩu của thương nhân Việt Nam với
thương nhân nước ngoài qua biên giới, qua lãnh thổ hoặc khu chế xuất bằng
con đường chính ngạch, tiểu ngạch các loại phương tiện PCCC.
+ Làm mới phương tiện PCCC: Hoạt động này bao gồm sản xuất mới,
gia công, cải hoán, sửa chữa, san nạp, bảo dưỡng, bảo trì, các loại phương
tiện, hệ thống PCCC. Dịch vụ này còn mang tính tự phát, chưa có sự quản lý
của cơ qua nhà nước, nhiều dịch vụ không có chuyên môn, nghiệp vụ PCCC
mà chủ yếu làm kinh tế là chính.

15
+ Kinh doanh phương tiện PCCC: Theo Điều 3 - Luật doanh nghiệp thì
kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trinh đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.

Do tính chất đặc thù riêng, hoạt động kinh doanh phương tiện PCCC là
hoạt động mua bán, cung ứng của thương nhân với người tiêu dùng trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam các phương tiện PCCC.
+ Thiết kế hệ thống PCCC: Theo Từ điển tiếng Việt - thiết kế là thiết
lập các tài liệu kĩ thuật toàn bộ gồm có bản tính toán, bản vẽ…để có thể theo
đó mà xây dựng công trình, sản xuất thiết bị, sản phẩm…
Theo quy định tại Điều 16 - Luật PCCC, tất cả các công trình đều phải
thiết kế hệ thống PCCC và phải được cơ quan quản lý nhà nước về PCCC phê
duyệt. Hiện nay, hoạt động thiết kế PCCC có thể chia thành hai loại chính đó
là thiết kế PCCC trong quy hoạch và thiết kế PCCC trong xây dựng công
trình.
+ Lắp đặt hệ thống PCCC: Hoạt động lắp đặt hệ thống PCCC là hoạt
động thi công thực hiện các giải pháp phòng cháy chữa cháy theo các tài liệu
thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt (lắp đặt hệ thống báo, chữa
cháy tự động hoặc bán tự động, hệ thống đèn chỉ dẫn thoát nạn, hệ thống
chiếu sáng sự cố…).
+ Tư vấn phòng cháy chữa cháy: Theo Từ điển Tiếng Việt, tư vấn là
phát biểu ý kiến về những vấn đề được hỏi đến nhưng không có quyền quyết
định. Trong thực tế PCCC, hoạt động tư vấn PCCC bao gồm tư vấn trong việc
lựa chọn loại phương tiện PCCC, chọn đơn vị thiết kế, thi công hệ thống
PCCC, tư vấn pháp luật PCCC… Theo quy định pháp luật, chỉ có trung tâm
nghiên cứu khoa học kỹ thuật và ứng dụng trong PCCC của Cục cảnh sát
PCCC và của trường Đại học PCCC có đủ thẩm quyền hoạt động trong lĩnh
vực này.

16
+ Bảo hiểm cháy: Là sự phối hợp giữa công ty bảo hiểm với các cơ
quan và đơn vị hữu quan trong việc phòng cháy, huy động một phần thu từ
bảo hiểm cháy để làm kinh phí thực hiện dịch vụ phòng cháy và chữa cháy;
đến bù thiệt hại do cháy giúp các cá nhân và đơn vị mua bảo hiểm có điều

kiện khắc phục hậu quả của hoả hoạn, khôi phục kinh doanh và cuộc sống,
đảm bảo anh ninh xã hội.
+ Huấn luyện, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ phòng cháy chữa
cháy. Theo chức năng, nhiệm vụ, theo quy định của pháp luật hiện nay chỉ có
trung tâm của Cục cảnh sát PCCC và trường Đại học PCCC có đầy đủ chức
năng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ phòng cháy chữa cháy nhằm trang bị kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ PCCC cho các đối tượng có nhu cầu.
Từ sự phân tích các đặc điểm đặc thù của dịch vụ PCCC rút ra mấy
nhận xét sau đây:
+ Dịch vụ PCCC là hàng hoá công cộng gắn với đặc trưng có thể loại
trừ nhưng không muốn loại trừ.
+ Ngành dịch vụ PCCC là ngành dịch vụ có thu, thực hiện theo quan
niệm dịch vụ PCCC là HHCC và phương châm Nhà nước và nhân dân cùng
làm, nên đòi hỏi phải tổ chức lại bộ máy ngành PCCC có tính chất của ngành
dịch vụ mà sản phẩm của nó là HHCC, phải có một cơ chế thu chi tài chính
mới phù hợp
Như vậy, dịch vụ PCCC vừa mang tính chất dịch vụ và hàng hoá công
cộng nói chung vừa có tính chất riêng của một loại dịch vụ công ích có tính
xã hội hoá cao, liên quan đến mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi ngành, bảo
đảm an toàn cho sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về phòng cháy chữa cháy
PCCC là một lĩnh vực hoạt động có liên quan trực tiếp đến trật tự an
toàn xã hội cho nên rất cần có sự quản lý, điều chỉnh và tác động của nhà

17
nước. Nhận thức được tầm quan trọng đó, năm 1961 Nhà nước ta đã ban hành
Pháp lệnh quy định việc quản lý nhà nước về PCCC. Luật PCCC đã được
Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua một lần nữa xác định trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà nước về PCCC. Là một bộ phận

trong quản lý nhà nước về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, quản lý
nhà nước về PCCC là: sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
pháp luật của nhà nước đối với các hoạt động trong lĩnh vực phòng cháy và
chữa cháy của các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra góp
phần bảo vệ tính mạng, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tổ chức, cá nhân,
bảo vệ môi trường, bảo đảm an ninh và trật tư an toàn xã hội [10, tr.10].
Như vậy, phòng cháy chữa cháy là một lĩnh vực cần có sự quản lý của
nhà nước với mục tiêu kiềm chế sự gia tăng các vụ cháy và thiệt hại do cháy
gây ra, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Có nhiều cách tiếp cận vấn đề quản lý Nhà nước đối với dịch vụ PCCC,
dưới quan điểm kinh tế chính trị học, nghiên cứu này sẽ tiếp cận theo hướng
xem xét đối tượng quản lý Nhà nước về dịch vụ PCCC như là quản lý Nhà
nước về cung- cầu dịch vụ PCCC. Trên cơ sở tiếp cận như vậy, nghiên cứu
cũng sẽ xem xét thêm một số cơ sở lý luận về cung- cầu dịch vụ PCCC.
Khái niệm cung - cầu dịch vụ PCCC
Nhu cầu, trong kinh tế học thường được hiểu là mong muốn tiêu dùng
hay còn được gọi là sở thích tiêu dùng. Trong kinh tế học, nhu cầu nếu có khả
năng tài chính để đáp ứng thì sẽ được hiểu là cầu.
Cầu là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn
sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định, với các điều
kiện khác là không thay đổi. Cầu khác nhu cầu vì nhu cầu là những mong
muốn và nguyện vọng của con người (thường là vô hạn). Sự khan hiếm làm

18
cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa mãn. Cầu là nhu cầu có khả năng
thanh toán, tức là nhu cầu được đảm bảo bằng một số lượng tiền tệ để có thể
mua được số hàng hóa. Như vậy, cầu xoay quanh hai yếu tố: mong muốn sẵn
sàng tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ và khả năng thanh toán.

Cầu được chia làm hai loại là cầu của cá nhân và cầu thị trường. Nếu
như cầu của cá nhân phản ánh cầu của từng người tiêu dùng đối với một loại
hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó thì cầu của thị trường là cái mà ta có thể quan
sát được vì nó là tổng tất cả các cầu cá nhân của hàng hóa và dịch vụ đó.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cầu như: thu nhập của người tiêu dùng,
giá cả của các loại hàng hóa liên quan, sở thích hay thị hiếu của người tiêu
dùng, các chính sách của Chính phủ…
- Nếu sản phẩm, dịch vụ mà người mua có nhu cầu là hàng hóa thiết
yếu hoặc hàng hóa xa xỉ hay hàng hóa cao cấp, thì khi thu nhập tăng, lượng
cầu sản phẩm, dịch vụ này cũng tăng.
- Nếu là sản phẩm, dịch vụ thứ cấp, thì khi thu nhập tăng, lượng cầu
mặt hàng lại giảm vì sở thích của khách hàng thay đổi.
Vì vậy, trong phạm vi đề tài này chúng ta tập trung nghiên cứu cầu thị
trường về dịch vụ PCCC tức là tổng tất cả cầu cá nhân của hàng hóa dịch vụ
PCCC và xem xét dịch vụ PCCC như là một hàng hóa thiết yếu.
Khác với cầu, cung là số lượng hàng hóa và dịch vụ mà nhà cung cấp
có khả năng và sẵn sàng cung ứng ở các mức giá khác nhau trong một thời
gian nhất định với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Với dịch vụ
PCCC, đây là một hàng hóa cộng cộng nên nhà cung cấp chủ yếu ở đây là
Nhà nước, có những dịch vụ chỉ có thể là Nhà nước cung cấp như: tạo môi
trường pháp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng PCCC thanh tra, kiểm tra xử lý vi
phạm… nhưng cũng có những khâu dịch vụ có thể xã hội hóa: cung cấp thiết
bị PCCC, tư vấn, thiết kế an toàn PCCC…

19
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cung như chính sách và quy định của
chính phủ, công nghệ, giá của các yếu tố sản xuất, số lượng nhà cung ứng…
Với cách tiếp cận như trên, có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với cung
dịch vụ PCCC trên 02 nội dung:
- Quản lý Nhà nước đối với cung dịch vụ PCCC về mặt vĩ mô: cung

cấp cơ sở hạ tầng, tạo môi trường pháp lý, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm.
- Quản lý Nhà nước đối với cung dịch vụ PCCC về công tác hỗ trợ: đào
tạo nguồn nhân lực, tư vấn thiết kế an toàn PCCC, cung cấp thông tin, chuyển
giao khoa học công nghệ.
1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Theo luật đầu tư, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm
doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu
tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phần, sát nhập, mua lại và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Vậy doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu như
thế nào? Như chúng ta biết, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu
tư theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
với các hình thức đầu tư trực tiếp như:
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc
100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài

×