Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Việc làm trong quá trình công nghiệp hóa ở Bắc Ninhtt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.29 KB, 20 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ





VŨ BÁ HẢI






VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
Ở BẮC NINH



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ












Hà Nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ




VŨ BÁ HẢI



VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA
Ở BẮC NINH


Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH KHÁNG









Hà Nội - 2008


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1

CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA Ở NƯỚC TA 6
1.1. Việc làm và các nhân tố ảnh hƣởng tới việc làm trong
quá trình công nghiệp hoá. 6
1.2. Công nghiệp hoá tác động tới việc làm 21
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số địa phƣơng 28
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ Ở BẮC NINH 36
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hƣởng tới
việc làm ở tỉnh Bắc Ninh. 36
2.2. Tình hình giải quyết việc làm trong quá trình công
nghiệp hoá ở Bắc Ninh thời gian qua. 48
2.3. Những vấn đề đặt ra hiện nay về việc làm trong
trong quá trình CNH ở Bắc Ninh. 65
CHƢƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở TỈNH BẮC NINH 74
3.1. Phƣơng hƣớng cơ bản. 74

3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm
trong quá trình CNH ở tỉnh Bắc Ninh. 80
KẾT LUẬN 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107






1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm luôn là một trong những vấn đề xã hội có tính cấp thiết toàn cầu, là mối quan
tâm lớn của tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển.
Ở nước ta, vấn đề việc làm cho người lao động luôn được Đảng và nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố
quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh hoá xã
hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
Tạo việc làm cho người lao động, một mặt phát huy được tiềm năng lao động nguồn lực
to lớn cho sự phát triển kinh tế – xã hội, mặt khác là điều kiện cơ bản để xoá đói giảm nghèo có
hiệu quả nhất, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước.
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ
(1/1/1997) với diện tích tự nhiên 803,9 km
2
, dân số 976,700 người (2003). Sau những năm tái
lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Và từ
năm 2000 đến nay, kinh tế Bắc Ninh luôn tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, cơ
cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) hàng năm bình

quân 13,9%, tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp, xây dựng tăng nhanh từ 25, 6% (2000) lên
47,2% năm 2005, cùng với đó là quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng.
Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn còn mang đậm dấu ấn của một tỉnh nông nghiệp, lao động
nông nghiệp chiếm 68,2% (2003) và một trong những thách thức lớn nhất của Bắc Ninh hiện
nay là tình trạng thất nghiệp đang có xu hướng tăng nhất là ở khu vực nông thôn. Mặt khác tỷ lệ
gia tăng dân số còn khá cao trong khi diện tích đất nông nghiệp có hạn. Điều đó đã và đang cản
trở quá trình CNH, HĐH của tỉnh và là một bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Bắc Ninh hiện
nay.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề việc làm ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm đánh giá đúng thực
trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động
đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn. Do vậy, tôi chọn
đền tài “Việc làm trong quá trình công nghiệp hoá ở Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
- Ở nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây đã có những tác giả có những
công trình, bài viết xung quanh vấn đề này tiêu biểu như:
- PTS Nguyễn Hữu Dũng, PTS Trần Hữu Trung (Chủ biên): Về chính sách giải quyết
việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia. HN 1997. Các tác giả đã trình bày tổng quát về
phương pháp luận và phương pháp tiếp cận chính sách việc làm, làm rõ thực trạng vấn đề việc
làm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó khuyến nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm
trong công cuộc CNH, HĐH.


2
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị
hóa, công nghiếp hóa nông nghiệp nông thôn – Tạp chí Lao động xã hội, số 247 ( từ 16 –
30/9/2004). Tác giả đã đề cập đến thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong quá
trinh CNH, HĐH và đô thị hóa, đồng thời đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để
giải quyết việc làm ở nông thôn.
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra,

Tạp chí Con số và sự kiện, số 8/ 2003, trong bài viết tác giả đã đề cập những biến động của tình
hình dân số ở nông thôn và những xu hướng mới trong việc tạo việc làm ở nông thôn: Kinh tế
trang trại, khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ phát triển công
nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa từ các chương trình quốc
gia, quốc tế.
- GS.TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và
phát triển, số 64- 2002. Trong bài tác giả đã đánh giá thực trạng việc làm và thất nghiệp trên cơ
sở đó đề ra những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người lao động.
- TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp tạo
thêm việc làm, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 309 (6/2004). Trong bài tác giả đã đề cập đến
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn và việc phát triển này sẽ góp phần tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông
thôn.
- TS Nguyễn Bá Ngọc, KS Trần Văn Hoan (Chủ biên): Toàn cầu hóa: cơ hội và thách
thức đối với lao động Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà nội 2002. Các tác giả đã trình bày tác
động của toàn cầu hóa đến người lao động, phân tích cơ hội và thách thức đối với lao động Việt
Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp cho lao động Việt Nam
trong xu thế toàn cầu hóa.
- TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho người lao động ở nông thôn. Tạp chí Kinh tế
và phát triển, số 3/2002. Tác giả đã đánh giá tầm quan trọng và những kết quả đạt được trong
giải quyết việc làm ở nông thôn bằng cách phát triển các ngành phi nông nghiệp vơi phương
châm: “Ly nông bất ly hương”.
- GS.TS Đỗ Thế Tùng: ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc
làm ở Việt Nam, Tạp chí Lao động và công đoàn, số 6/2002. Tác giả phân tích và đánh giá ảnh
hưởng của kinh tế tri thức đối với việc làm.
Ngoài ra, cũng có mốt số luận văn thạc sỹ viết về đề tài việc làm ở một số tỉnh như: Hà
Tĩnh, Hà Nội, Kiên Giang, Đồng Nai, …. Tuy nhiên dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị vẫn
chưa có công trình nào viết về vấn đề này dưới dạng luận văn khoa học để tìm ra các giải pháp
đồng bộ, hữu hiệu cho giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ CNH phát triển mạnh
mẽ. Vì vậy, đề tài luận văn này là cần thiết đối với tỉnh Bắc Ninh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích


3
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở Bắc Ninh,
phân tích thực trạng, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài:
- Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp, làm rõ
những nhân tố tác động đến việc giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa từ đó làm
cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến
nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc làm cho người
lao động trên địa bản tỉnh Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ những năm
1997 – 2007, trên cơ sở đó xây dựng một số giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm cho người
lao động ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. đồng thời cũng sử dụng phương pháp đặc thù của khoa học kinh tế chính trị
như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp logic với lịch sử, phân tích, tổng hợp, so
sánh, kết hợp với khảo sát thực tiễn.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ cơ sở lý luận về vấn đề lao động, việc làm và thất nghiệp.
Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến nay.
Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm giải quyết việc làm ở tỉnh
Bắc Ninh trong quá trình công nghiệp hóa.

7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết:












4
NỘI DUNG

Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm
trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta
1.1. Việc làm và các nhân tố ảnh hưởng tới việc làm trong quá trình công nghiệp
hoá ở nước ta.
1.1.1. Khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp
1.1.1.1. Khái quát về lao động
Ngày nay có rất nhiều khác nhau về khái niệm lao động nhưng suy đến cùng thì lao
động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào giới tự nhiên nhằm cải
biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Do
đó, lao động là hoạt động đặc thù của con người, phân biệt con người và xã hội loài người với
các loài động vật và xã hội loài vật khác.
C.Mác khẳng định: “Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ

thuộc vào bất kỳ hình thái kinh tế – xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới
cho sự trao đổi chất của con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự sáng tạo của con người”.
1.1.1.2. Khái quát về việc làm
Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan niệm về việc
làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Theo Điều 13, Chương II của Bộ luật Lao động
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
1.1.1.3. Thất nghiệp
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì thất nghiệp là tình trạng số đông người trong
độ tuổi lao động không có việc làm hoặc không thể tìm được việc làm để kiếm sống.
Tóm lại, mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung các nhà khoa học
đều thống nhất cho rằng, thất nghiệp có bốn đặc trưng cơ bản:
Thứ nhất, là người nằm trong độ tuổi lao động;
Thứ hai, có khả năng lao động;
Thứ ba, đang không có việc làm;
Thứ tư, đang tích cực tìm kiếm việc làm.
1.1.2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến việc làm trong quá trình phát triển kinh
tế xã hội
1.1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên
1.1.2.2. Dân số và tỷ lệ tăng dân số
1.1.2.3. Khoa học – công nghệ
1.1.2.4.Sự phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động
1.1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
1.2. Công nghiệp hoá tác động tới việc làm


5
1.2.1. Tác động tới sự di động dân cư và lao động
Như vậy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã làm cho dân cư và lao động có
sự di chuyển cả về số lượng và chất lượng theo xu hướng dân cư và lao động ở khu vực đô thị

ngày càng tăng còn ở khu vực nông thôn ngày càng giảm.
1.2.2. Tác động đến cơ cấu việc làm.
1.2.3. Tác động đến cung về lao động.
Sự tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến cung về lao động có
thể nói rất phức tạp, nó không chỉ tác động đến số lượng mà còn tác động đến cả chất lượng của
nguồn lao động được cung ứng. Nhưng một điều rất dễ nhận thấy là quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá sẽ làm giảm dư thừa về lao động có trình độ chuyên môn tay nghề do sự phát triển
của các ngành công nghiệp và dịch vụ, từ đó đã thu hút được một số lượng lớn lao động đã qua
đào tạo, có trình độ chuyên môn tay nghề, thậm chí ngay trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp
cũng đòi hỏi phải có lao động lành nghề do áp dụng máy móc, khoa học kỹ thuật công nghệ
hiện đại vào quá trình sản xuất.
1.2.4. Tác động đến cầu về lao động
Tóm lại, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần to lớn trong việc giải
quyết việc làm, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động. Tuy nhiên, công nghiệp hoá, hiện
đại hoá chủ yếu làm tăng cầu đối với lao động đã qua đào tạo, có trình độ chuyên môn… đồng
thời lại làm tăng cung đối với lao động giản đơn, nhất là lao động nông nghiệp bị thu hồi đất.
Do vậy, để giải quyết việc làm dưới tác động của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì
giải pháp cơ bản nhất là đẩy mạnh quá trình đào tạo nghề cho người lao động.
1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở một số địa phương
1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Hải Dương
1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai
1.3.3. Kinh nghiệm của Hà Nam
* Những bài học kinh nghiệm được rút ra
Từ nghiên cứu kinh nghiệm giải quyết việc làm có tính điển hình ở một số địa
phương như trên, vận dụng vào điều kiện cụ thể của Bắc Ninh có thể sử dụng những bài học
kinh nghiệm sau:
1. Chú trọng đầu tư, phát triển giáo dục - đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề cho người lao động.
2. Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách đầu tư thông thoáng để tạo nên “sức hút”
các nguồn đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài như Đồng Nai đã thực hiện. Mặt khác,

Bắc Ninh cũng phải lựa chọn đầu tư phát triển những ngành nghề có công nghệ phù hợp với khả
năng và trình độ của người lao động trong tỉnh.
3. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn.


6
4. Khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống, du nhập và phát triển ngành
nghề mới.
5. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động.

Chương 2 Thực trạng giải quyết việc làm và những vấn đề
đặt ra trong quá trình công nghiệp hoá ở bắc ninh
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tới
việc làm ở tỉnh Bắc Ninh.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội.
* Thuận lợi:
- Tiềm năng của Bắc Ninh là có một lực lượng lao động dồi dào, con người Bắc Ninh
thông minh năng động, sáng tạo, cần cù trong lao động, đây là một nguồn lực quý để phát triển
kinh tế - xã hội một khi tỉnh có chính sách đúng đắn để khơi dậy và phát huy được nguồn lực
này.
- Vị trí địa lý của tỉnh là một lợi thế rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội và giải
quyết việc làm, là tỉnh giáp với Hà Nội, nằm trong tam giác phát triển kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh.
- Cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, thông tin liên lạc, ở Bắc Ninh phát
triển khá đồng bộ với hệ thống giao thông đường sắt liên vận quốc tế đi Bắc Kinh (Trung
Quốc), đường quốc lộ 1A- 1B, quốc lộ 18 được nâng cấp và hoàn thành đường cao tốc Bắc
Ninh - Nội Bài. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp và dịch vụ,
tạo nhiều việc làm cho người lao động.

- Bắc Ninh là tỉnh có nền văn hiến lâu đời, có làn điệu dân ca quan họ nổi tiếng
trong và ngoài nước, có nhiều lễ hội, nhiều di tích lịch sử văn hoá. Đây chính là tiềm năng để
Bắc Ninh phát triển du lịch văn hoá. Đặc biệt Bắc Ninh là tỉnh có nhiều làng nghề thủ công
truyền thống, nghề buôn bán có từ lâu đời nên được coi là vùng trăm nghề trong đó có những
làng nghề nổi tiếng như: đồ gỗ Đồng Kỵ, đúc đồng Đại Bái, gốm Phù Lãng, tranh Đông Hồ…
Đó là điều kiện để Bắc Ninh phát triển kinh tế , giải quyết nhiều việc làm cho người lao động
trong tỉnh.
* Khó khăn:
- Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất cả nước "đất chật, người đông", mật
độ dân số 1227 người/km
2
. Đây là bài toán khó trong vấn đề giải quyết việc làm của tỉnh.
- Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên rất hạn chế. Các loại tài nguyên khoáng sản,
thuỷ sản và rừng hầu như không đáng kể.
- Nguồn lao động mặc dù dồi dào nhưng chất lượng vẫn còn hạn chế, chủ yếu là lao
động phổ thông chưa qua đào tạo. Tính đến hết năm 2007 tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chiếm


7
34,5%. Đây là khó khăn, thử thách lớn để giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của tỉnh.
- Các ngành thương mại, du lịch, khách sạn… phát triển chậm, chưa khai thác đựơc
tiềm năng về truyền thống văn hoá, các di tích và cảnh quan của tỉnh. Thậm chí tỷ trọng của
ngành dịch vụ còn giảm, năm 1997 tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 331,18% GDP đến năm 2006
chỉ chiếm 27,98% GDP [17,tr53].
- Đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp và có xu hướng ngày càng giảm là một
trong những trở ngại lớn cho việc phát triển nông nghiệp và giải quyết việc làm. Mặt khác, nông
nghiệp của tỉnh vẫn mang tính độc canh chủ yếu là trồng lúa và nuôi lợn, gia cầm phân tán trong
các hộ gia đình.
2.1.3. Đặc điểm CNH tác động tới việc làm ở Bắc Ninh.

2.1.3.1. Công nghiệp của tỉnh phát triển với tốc độ nhanh.
2.1.3.2. Bắc Ninh có cơ cấu ngành công nghiệp đòi hỏi nguồn lao động có trình độ
cao.
2.1.3.3. Quy mô vốn đầu tư cho các dự án công nghiệp lớn.
2.1.3.4. Sự phân bố các xí nghiệp công nghiệp chủ yếu tập trung ở phía Bắc của
Tỉnh.
2.2. Tình hình giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá ở Bắc Ninh thời
gian qua.
2.2.1. Quy mô lao động và thực trạng thất nghiệp.
2.2.2. Chất lượng nguồn lao động ở Bắc Ninh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH.
2.2.3. Tình hình giải quyết việc làm trong quá trình CNH ở Bắc Ninh theo một số
lĩnh vực chủ yếu.
2.2.3.1. Theo ngành kinh tế:
2.2.3.2. Theo thành phần kinh tế:
* Những kết quả đạt được:
Nhìn lại 10 năm kể từ khi tái lập tỉnh (1/1/1997). Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bắc
Ninh đã từng bước đi lên và tự khẳng định mình trong việc phát triển kinh tế xã hội và nâng cao
đời sống nhân dân. Thắng lợi có ý nghĩa tổng quát nhất là kinh tế Bắc Ninh phát triển với tốc độ
cao và khá bền vững. Tổng sản phẩm trong tỉnh tạo ra hàng năm tăng liên tục, bình quân mỗi
năm tăng 12,4%. Cơ cấu kinh tế đã và đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, từng bước nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, kinh tế phát triển liên tục trong
những năm qua đã tạo điều kiện để giải quyết việc làm, từng bước nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư trong tỉnh.
Qua 10 năm thực hiện nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động, Bắc
Ninh đă từng bước thu được một số kết quả cụ thể sau:
1. Nhận thức, quan niệm của người lao động về việc làm đã được thay đổi cơ
bản. Người lao động đã tự chủ trong việc tự tạo việc làm cho mình và cho người khác trong các


8

thành phần kinh tế. Người lao động được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh,
tạo mở việc làm.
2. Chương trình giải quyết việc làm được triển khai thực hiện có kết quả với sự
quan tâm của các ngành các cấp, sự hưởng ứng tích cực của các tổ chức, đoàn thể và mọi tầng lớp
dân cư. Kết quả là tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 7,52% (1996) xuống còn 3,08% (2006)
[17,47]. Và đã nâng hệ số sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn từ 75,6% (1997) lên
82,6% (2006).
3. Đã phát triển và đa dạng hoá các hình thức sản xuất kinh doanh tạo nhiều
việc làm mới cho người lao động của tỉnh như: Kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp
vừa và nhỏ, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
4. Công tác giải quyết việc làm gắn đã gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và cơ cấu lao động. Cơ cấu lao động đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực: tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ tăng lên rõ
rệt. Mặt khác, tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng tăng lên nhanh chóng năm 2007 đã đạt 34,5%.
5. Công tác đào tạo nghề cho người lao động đã được chú trọng làm cho chất
lượng nguồn lao động đã dần được nâng cao.
6. Công tác đầu tư vốn tín dụng cho người nghèo, giúp các hộ nghèo ổn định và
cải thiện đời sống, giải quyết thêm việc làm và việc làm mới cho người lao động. Đồng thời các
tổ chức đoàn thể quần chúng như: Hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân, đoàn thanh
niên… cũng đã phát huy được vai trò tích cực trong việc tạo mở nhiều việc làm cho người lao
động thông qua các hoạt động cho vay vốn, phổ biến kinh nghiệm sản xuất, chuyển giao kỹ
thuật, công nghệ…
Tóm lại, trong 10 năm qua thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, cơ
chế chính sách phù hợp của nhà nước, Bắc Ninh đã tạo ra được sự chuyển dịch chuyển biến cơ
bản về nhận thức, phương thức tạo mở việc làm, đã huy động được mọi nguồn lực cho đầu tư
phát triển việc và tạo việc làm. Chương trình giải quyết việc làm đã được triển khai thực hiện có
kết quả với sự quan tâm của các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể, nhờ vậy đã giảm được
thất nghiệp, tăng việc làm và bước đầu chuyển dịch cơ cấu và chất lượng lao động theo hướng
tích cực.

* Những hạn chế tồn tại:
1. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn cao chiếm 3,8% và hệ số sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn cũng chỉ đạt 82,6% (2006). Vì vậy tình trạng không có việc làm và
thiếu việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn là rất lớn.
2. Cơ cấu lao động mất cân đối nghiêm trọng trong đó: rất thiếu lao động có
chuyên môn kỹ thuật đã qua đào tạo, thừa lao động phổ thông và các ngành khoa học xã hội và
nhân văn, ngành sư phạm… Vì vậy gây lên tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu. Thực tế cho thấ số


9
người không có việc làm ở Bắc Ninh hầu hết là lao động phổ thông, không có trình độ chuyên
môn kỹ thuật.
3. Công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được đầu tư đúng mức về
chương trình, mục tiêu đào tạo cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề và đội ngũ giáo
viên… Do vậy chất lượng đào tạo còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường sức lao
động, dẫn đến tình trạng không chỉ thừa lao động phổ thông mà còn thừa cả lao động ngay sau
khi đã được đào tạo.
4. Còn thiếu những chính sách kinh tế đủ mạnh để thu hút đầu tư, khai thác
được mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, tạo mở việc làm.
2.3.1. Giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.
2.3.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động và
việc làm.
2.3.3. Khả năng giải quyết việc làm có hạn trong khi cung lớn hơn cầu về lao động
(nhất là lao động giản đơn)
2.3.4. Lao động giản đơn thừa - lao động có chất lượng thiếu.
2.3.5. Đào tạo nguồn nhân lực chưa gắn với nhu cầu thực tế của tỉnh

Chương 3 Phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu
để giải quyết việc làm ở tỉnh Bắc Ninh
3.1. Phương hướng cơ bản.

3.1.1. Giải quyết việc làm phải gắn với từng giai đoạn phát triển của quá trình
CNH.
3.1.2. Giải quyết việc làm phải dựa trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1.3. Giải quyết việc làm phải trên cơ sở đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn.
3.1.4. Giải quyết việc làm phải đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững và an sinh xã
hội.
3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết việc làm trong quá trình CNH ở tỉnh
Bắc Ninh.
3.2.1. Gắn việc quy hoạch các khu công nghiệp, khu đô thị với giải quyết việc làm
cho người lao động bị thu hồi đất.
*Thứ nhất: Các cấp uỷ Đảng và doanh nghiệp đóng trên địa bàn cần vận dụng và
thực hiện nghiêm luật đất đai và các quyết định của chính phủ có liên quan tới thu hồi và giải
quyết việc làm.
* Thứ hai: Phải gắn quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng
kết cấu hạ tầng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm tạo ra sự gắn kết
giữa khu vực công nghiệp, đô thị với nông nghiệp nông thôn.


10
* Thứ ba: Đối với lực lượng lao động thanh niên
* Thứ tư: Đối với người lao động từ 35 tuổi trở lên khi bị mất việc do thu hồi đất.
*Thứ năm: Chính quyền các cấp trong tỉnh cần chủ động hướng dẫn người dân sử
dụng tiền đền bù một cách có hiệu quả.
*Thứ sáu: Thực hiện triệt để tiết kiệm quỹ đất trong quy hoạch các khu công nghiệp,
khu đô thị ở Bắc Ninh.
3.2.2. Đa dạng hoá các ngành nghề và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
tạo nhiều việc làm cho người lao động nhằm tăng cầu về lao động.
3.2.2.1. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội.

- Một là: Quán triệt và thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân, tạo môi trường tâm lý xã hội và kinh doanh
thuận lợi để mọi công dân được tự do sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Hai là: Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đảm bảo thực sự bình đẳng giữa
kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác, nhằm tạo thuận lợi để các doanh nghiệp tư
nhân, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh được tiếp cận các nguồn vốn tại các
tổ chức tín dụng của nhà nước.
- Ba là: Tạo điều kiện thuận lợi và ưu đãi về đất đai để làm mặt bằng sản xuất kinh
doanh cho các đơn vị kinh tế tư nhân. Đặc biệt cần làm tốt công tác xây dựng cơ sở hạ tầng các
khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ.
- Bốn là: Tăng cường hơn nữa chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, công nhân
kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các lớp tập huấn, các trung tâm dạy nghề
miễn phí.
- Năm là: Tăng cường các biện pháp quản lý, cải tiến thủ tục hành chính theo mô
hình “một cửa, một dấu” ở những công việc có liên quan đến doanh nghiệp, trong các lĩnh vực:
đăng ký kinh doanh, xây dựng, đất đai, thuế… tạo ra sự chuyển biến đồng bộ, thông thoáng đối
với mọi đối tác về đầu tư sản xuất kinh doanh tại Bắc Ninh.
3.2.2.2. Đẩy nhanh quá trình phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ theo
hướng CNH.
* Đối với nông nghiệp:
Nông nghiệp Bắc Ninh hiện nay vẫn là một ngành sản xuất chính của tỉnh, mặc dù
vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, nhưng cũng đã góp phần giải quyết một cách cơ bản vấn đề
lương thực cho tỉnh. Để giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh trong quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ngành nông nghiệp phải chuyển đổi một cách cơ
bản theo hướng đa dạng hoá sản xuất, đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, phá vỡ độc canh cây lúa,
hình thành các vùng chuyên canh, phát triển mạnh các loại cây thực phẩm. Mở mang ngành
nghề thu hút lao động nhằm sử dụng lao động dư thừa trong nông nghiệp. Muốn vậy phải đẩy
mạnh chăn nuôi, đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính, phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ



11
với quy mô vừa và nhỏ để hỗ trợ phục vụ sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, vận tải, sơ chế
nông sản… Một số biện pháp cụ thể như sau:
- Cần phải nhanh chóng thực hiện chủ trương “dồn vùng đổi thửa” để tạo điều kiện
áp dụng khoa học kỹ thuật, phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá…
- Phát huy hết tiềm năng sẵn có về diện tích mặt nước chưa sử dụng, những vùng
đất trũng ngập thường xuyên của các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ để phát triển nuôi
trồng thuỷ sản. Đồng thời mạnh dạn hình thành các vùng chuyên nuôi gia súc gia cầm ở những
huyện có tiềm năng và lợi thế để phục vụ cho nhu cầu cả khu vực và xuất khẩu.
- Giải quyết vững vấn đề lương thực, thực phẩm đi sâu thâm canh tăng năng suất
cây trồng. Đặc biệt cần chú trọng chuyển một số diện tích trồng lúa ở các huyện ven Hà Nội
như Thuận Thành, Từ Sơn và các xã của thành phố Bắc Ninh sang trồng các loại cây rau, hoa,
cây cảnh…
- Phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp gắn với công nghiệp sơ chế, khuyến
khích sự liên kết “bốn nhà” và khuyến khích doanh nghiệp ký kết và thực hiện nghiêm túc hợp
đồng tiêu thụ nông sản cho nông dân ngay từ đầu.
* Đối với các ngành công nghiệp.
Mục tiêu phát triển công nghiệp của Bắc Ninh trong giai đoạn từ nay đến năm 2015
là tạo ra được sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH có khả năng
thu hút lao động nông thôn để khắc phục tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm do thu hồi đất,
phấn đấu đến năm 2015 đạt mụa tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp và dự kiến đến năm
2015 lao động công nghiệp và xây dựng chiếm trên 505 trong tổng số lao động của tỉnh.
Để đạt mục tiêu trên, góp phần vào giải quyết việc làm cho người lao động, tỉnh
cần tập trung vào giải quyết các việc sau:
- Thực hiện đồng thời chiến lược ưu tiên, khuyến khích các dự án thuộc lĩnh vực
công nghệ cao với các dự án sử dụng nhiều lao động.
Trong những năm gần đây do Bắc Ninh quá chú trọng thu hút các dự án trong các
lĩnh vực cao cho nên chưa thu hút được các dự án sử dụng nhiều lao động thuộc các lĩnh vực:
may mặc, giày da, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực, thực phẩm…
- Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, thực hiện chính sách ưu đãi

đặc biệt để phát triển công nghiệp ở khu vực phía Nam tỉnh.
Khu vực phía Nam tỉnh gồm các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành là khu
vực rất giàu tiềm năng đối với phát triển công nghiệp. Khu vực này chiếm tới 40,3% diện tích
và 35% dân số, với chất lượng nguồn nhân lực tương đối cao với truyền thống hiếu học của trạng
nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh, có làng tiến sĩ… và cũng là vùng còn nhiều diện tích đất chưa sử
dụng nhất. Tuy nhiên đây là khu vực còn nhiều khó khăn nhất của tỉnh. Bởi khu vực này chưa có hệ
thống kết cấu hạ tầng phát triển nhất là mạng lưới giao thông đường bộ, cả khu vực chỉ có một tuyến
tỉnh lộ 282 đã bị xuống cấp nghiêm trọng.


12
Vì vậy trong thời gian tới Bắc Ninh cần phải hoàn thiện tuyến tỉnh lộ 282 kết nối
với quốc lộ 5 trên cơ sở đó xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở các huyện Thuận
Thành, Gia Bình, Lương Tài, trong đó ưu tiên thu hút các dự án có khả năng thu hút nhiều lao
động như: May mặc, giày da, chế biến lương thực, thực phẩm…
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát
triển các ngành công nghiệp phục vụ nông thôn, công nghiệp có tính đến sự liên kết với các tỉnh
trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Tăng cường tiếp xúc, đối thoại với doanh nghiệp nhằm
giải quyết mọi vướng mắc để sớm hoàn thành các dự án đầu tư mới.
- Đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề và đội ngũ cán bộ quản lý để tạo ra sức hút
đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
* Đối với ngành dịch vụ:
Thương mại – dịch vụ là một ngành có khả năng thu hút được nhiều lao động. Tuy
nhiên trong những năm qua ngành dịch vụ của Bắc Ninh vẫn chuyển biến rất chậm chạp, đến
năm 2006 mới chỉ chiếm 28,6% GDP của tỉnh. Để ngành dịch vụ của Bắc Ninh có những bước
chuyển biến mạnh mẽ, góp phần tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, tỉnh cần tập trung
thực hiện các giải pháp chủ yếu sau:
- Quy hoạch lại mạng lưới các chợ ở khu vực nông thôn, đặc biệt là các chợ đầu
mối trung tâm cụm, xã, liên xã, thị trấn, thị tứ, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có môi
trường để giao lưu hàng hoá và dịch vụ.

- Khai thác triệt để vị trí giáp thủ đô Hà Nội trong việc giao lưu hàng hoá, nhất là
hàng nông sản, coi đây là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm của nông nghiệp. Mặt khác ưu
tiên thu hút các dự án thuộc các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế… nhằm tạo ra động lực cho sự
phát triển của ngành dịch vụ ở các khu vực xung quanh.
- Mở rộng thị trường du lịch kết hợp với thủ đô Hà Nội và các tỉnh bạn để phát huy
tiềm năng du lịch văn hoá - lịch sử của tỉnh như: Quan họ Bắc Ninh, đền Bà Chúa Kho, đền thờ
8 vị Vua Nhà Lý… Đồng thời tiếp tục đẩy nhanh các dự án du lịch mới như: Tuyến du lịch Phật
Tích, Tuyến : Chùa Dâu- chùa Bút Tháp- Làng tranh Đông Hồ- đền thờ Cao Lỗ Vương- bến
Bình Than.
- Phát triển mạnh các hợp tác xã thương mại, dịch vụ, cung cấp vật tư kỹ thuật, vật
tư nông nghiệp và phát huy vai trò chủ đạo trong tiêu thụ nông sản.
- Mở rộng và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ như: giao thông vận tải, bưu chính
viễn thông, dịch vụ tư vấn, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm…

3.2.2.3. Khôi phục và phát triển mới các ngành nghề thủ công truyền thống.
3.2.2.4. Tiếp tục thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước.
3.2.3. Thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm nguồn
cung về lao động.
3.2.4. Giải pháp phát triển thị trường sức lao động.


13
* Đối với thị trường lao động trong tỉnh:
- Một là: Hoàn thiện và nâng cao vai trò của mô hình sàn giao dịch lao động, việc làm.
Từ năm 2005 đến nay, Sở lao động – thương binh và xã hội Bắc Ninh đã tổ chức và phát
triển mô hình sàn lao động việc làm. Đây là một mô hình mang tính chuyên nghiệp rất cao. Tại
đây nhà tuyển dụng và người lao động đều bình đẳng; Một bên có nhu cầu nhân lực, còn một
bên có nhu cầu làm việc, hai bên gặp nhau cũng giống như ta thoả thuận mua hàng hoá thông
thường. Tại sàn giao dịch, người lao động cũng như nhà tuyển dụng được niêm yết các thông tin
cơ bản, thông qua đó mọi người có thể tìm hiểu kỹ thông tin về nhau trước khi quyết định. Nhờ

ứng dụng công nghệ thông tin nên nhà tuyển dụng và người lao động có thể lên sàn thông qua
Internet.
Chỉ tính trong tháng 6 đầu năm 2007, số lao động lao động tìm được việc làm qua Sàn giao
dịch lao động việc làm Bắc Ninh tăng 150% so với cả năm 2006. Qua đó nói lên rằng mô hình
sàn giao dịch lao động việc làm là mô hình mới, tiên tiến, ngày càng đáp ứng nhu cầu của đông
đảo người lao động và các nhà tuyển dụng.
- Hai là: Tăng cường thông tin đa chiều về lao động và việc làm thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng.
Cần phải phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng như: sách, báo, tạp chí,
phương tiện phát thanh truyền hình, Internet… đặc biệt là phát huy vai trò của các điểm văn hoá
xã trong việc phổ biến thông tin về lao động và việc làm đối với người lao động ở khu vực nông
thôn.
- Ba là: Tạo ra sự thống nhất giữa thị trường lao động trong tỉnh và thị trường cả nước.
Trong nền kinh tế thị trường thì các nguồn lực sẽ được phân bổ một cách hợp lý nhất là
nguồn lao động. Vì vậy khi phát triển thị trường lao động tỉnh cần phải cung cấp thông tin đầy
đủ cho người lao động biết về nhu cầu việc làm của trong và ngoài tỉnh, đồng thời tạo ra cơ chế
để người lao động trong tỉnh có thể dễ dàng “di chuyển” tới những địa phương khác có nhu cầu
tuyển dụng. Mặt khắc cũng cần tạo ra cơ chế để người lao động ngoại tỉnh dễ dàng “di chuyển”
tới làm việc tại địa phương. ở đây cần phải làm giảm bớt sự phiền hà trong khâu hộ tịch, hộ
khẩu.
- Bốn là: Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề để giảm sự bất cập của tình trạng “vừa thừa, vừa
thiếu” lao động. Trong đó phải thực hiện giải pháp “chỉ đào tạo những ngành nghề mà xã hội
cần, chứ không đào tạo những ngành nghề mà các cơ sở đào tạo có”.
- Năm là: Việc phát triển thị trường lao động phải gắn với phát triển đồng bộ các loại thị
trường.
Do thị trường lao động có mối quan hệ chặt chẽ với các thị trường khác như: thị trường
các yếu tố sản xuất, thị trường hàng hoá và dịch vụ. Chính vì vậy sự phát triển đồng bộ này sẽ
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lựa chọn việc sản xuất kinh doanh, lựa chọn việc sử dụng và
tìm kiếm lao động.




14
* Đối với hoạt động xuất khẩu lao động:
- Một là: Cần phải thay đổi nhận thức trong hoạt động xuất khẩu lao động nhằm
giảm chi phí tối đa cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tỉnh cần phải thấy được sức ép lớn và những khó khăn trong giải quyết việc làm,
những hậu quả của nạn thất nghiệp gây ra. Và trên thực tế, những năm qua tỉnh đã phải chi phí
rất lớn cho vấn đề giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, đào tạo nguồn nhân lực cho người
lao động. Mặt khác, cũng phải nhìn nhận biết vai trò và lợi ích của hoạt động xuất khẩu lao
động như: góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần to lớn vào công tác xoá đói
giảm nghèo. Đặc biệt nó còn góp phần nâng cao trình độ tay nghề, trình độ quản lý tiên tiến,
tăng nguồn thu ngoại tệ va tăng cường hợp tác quốc tế.
Trên cơ sở tỉnh cần thực hiện các biện pháp như không thu tiền của người đi xuất
khẩu lao động và coi đây là một hàng hoá đặc biệt mà trong điều kiện ngày nay chúng ta đang
rất cần được xuất khẩu thậm chí phải thực hiện chính sách “trợ cấp xuất khẩu”, đồng thời phải
giảm tới mức tối đa các chi phí về thủ tục hành chính, giấy tờ, hộ chiếu, đi lại, đào tạo nghề và
học tiếng… cho người lao động. Chỉ có như vậy mới tạo ra được bước đột phá trong hoạt động
xuất khẩu lao động của tỉnh.
- Hai là: Cần phải thường xuyên học tập kinh nghiệm của tỉnh bạn và của quốc tế
trong hoạt động xuất khẩu lao động.
Hiện nay ở nhiều địa phương trong cả nước và nhiều quốc gia đã có các biện pháp
rất hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu lao động. Ví dụ: kinh nghiệm của Yên Bái cho thấy các
cấp chính quyền địa phương thường xuyên có hoạt động tuyên dương, khen thưởng những dòng
họ, những thôn xóm đưa được người đi xuất khẩu lao động.
- Ba là: Tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu,
đáp ứng nhu cầu thị trường quốc tế.
Người lao động cần được đào tạo cả về trình độ chuyên môn kỹ thụât, ngoại ngữ, ý
thức tổ chức kỷ luật, pháp luật… phục vụ cho quá trình sinh sống và làm việc. Ngoài ra cần phải
giáo dục về kiến thức pháp luật, sự hiểu biết về đất nước, con người, phong tục tập quán, tín

ngưỡng tôn giáo… Cần xây dựng các trung tâm dạy nghề và ngoại ngữ riêng cho lĩnh vực xuất
khẩu lao động. Chương trình đào tạo phải được biên soạn cho phù hợp với từng khu vực, từng
nước. Muốn vậy thì cần phải có chính sách, chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức trong
việc đào tạo người lao động đi xuất khẩu.
- Bốn là: Cho người đi xuất khẩu lao động được vay vốn từ các tổ chức tín dụng với
lãi suất thấp để trang trải chi phí đi làm việc ở nước ngoài. Chính quyền địa phương và các tổ
chức chính trị xã hội bảo lãnh bằng tín chấp, tạo mọi điều kiện cho những người có hoàn cảnh
khó khăn hoàn thành các thủ tục cần thiết để đựơc đi làm việc ở nước ngoài.
- Năm là: Đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền đối với hoạt động xuất khẩu
lao động và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động.


15
Cùng với hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại thì thị trường xuất khẩu lao động
cũng ngày càng được mở rộng với nhiều thị trường tiềm năng như: Trung Đông, Malayxia, các
nước Đông Âu… đã hứa hẹn nhiều triển vọng lớn bên cạnh các thị trường: Nhật Bản, Đài
Loan, Hàn Quốc…
Mặt khác, cũng cần phải tăng cường công tác thông tin tuyên truyền vừa là biện
pháp thúc đẩy công tác xuất khẩu lao động phát triển vừa ngăn ngừa được những hành vi tiêu
cực có thể xảy ra. Trong đó cần giúp người lao động nắm được tiêu chuẩn, yêu cầu và tổng chi
phí cần thiết đối với mỗi thị trường khác nhau.
- Sáu là: ban hành các chính sách, biện pháp thưởng phạt nghiêm minh đối với hoạt
động xuất khẩu lao động.
Tỉnh cần phải xử lý nghiêm minh theo pháp luật bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có
hành vi lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc thiếu trách nhiệm khi tổ chức đưa người ra nước ngoài
nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động
- Bảy là: Hoàn thiện hệ thống quản lý xuất khẩu lao động.
Cần phải đổi mới hệ thống quản lý xuất khẩu lao động theo hướng tinh giảm dần
mối trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh gạn nhưng hiệu quả. Có như vậy mới giảm được chi phí,
tránh được phiền hà và cả những tiêu cực do bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả và cả những tiêu

cực do bộ máy cồng kềnh, kém hiệu quả mang lại.
Cần phải tuyển chọn cán bộ quản lý xuất khẩu lao động có phẩm chất đạo đức trong
sạch, có trình độ quản lý và trình độ ngoại ngữ thông thạo, hiểu được phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, tôn giáo của đất nước và địa phương có lao động Việt Nam đến làm việc.
3.2.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với yêu cầu xã hội.
- Một là: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội. Cần phải tuyên truyền để thay
đổi tâm lý chung của không chỉ học sinh mà còn cả các bậc cha mẹ học sinh là phải thi bằng
được để vào các trường Đại học. Muốn vậy phải làm cho mọi người dân hiểu đúng vị trí, vai trò
của công tác đào tạo nghề đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, cũng như đối với việc làm, nâng
cao chất lượng cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình. Duy trì và phát huy các hoạt động thi tay
nghề, thi thợ cao quý như “Bàn tay vàng”, nghệ nhân… cho những người có tay nghề giỏi.
Mặt khác cần phải thay đổi nhận thức của các cơ quan đào tạo nghề, đó là chỉ đào
tạo “cái thị trường cần” chứ không dạy “cái mà mình có”. Chỉ có như vậy mới giảm bớt được
tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu” lao động ở tỉnh hiện nay. Đồng thời cũng tạo ra căn cứ thực tế
để thu hút thanh niên theo học các trường nghề.
- Hai là: Mở rộng quy mô và các hình thức đào tạo nghề.
Sắp xếp lại hệ thống trường và cơ sở dạy nghề theo hướng chuyên sâu. Duy trì và
củng cố bốn trường hiện có: Trường công nhân kỹ thuật, Trường dạy nghề giao thông, trường
công nhân xây dựng, trường dạy chữ, dạy nghề cho người tàn tật. Sớm hoàn thiện 7 trung tâm
dạy nghề thuộc 7 huyện với số lượng đào tạo 500 học sinh/năm. Và mỗi trung tâm dạy nghề


16
phải gắn với nhu cầu lao động của từng vùng… Mặt khác cần khuyến khích các hình thức đào
tạo như:
+ Đào tạo nghề tại các doanh nghiệp, tại các trang trại.
+ Dạy nghề tổ chức theo lớp họp.
+ Bồi dưỡng, nâng bậc tay nghề.
+ Phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ, trao đổi kinh nghiệm sản xuất kinh
doanh.

+ Dạy nghề kèm bổ túc văn hoá…
Một trong những hình thức đào tạo nghề phổ biến và có hiệu quả cao là đào tạo tại
các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp để qua đó nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu tại chỗ
cho từng doanh nghiệp, điều này đã được thực hiện ở khu công nghiệp Quế Võ, Tiên Sơn…
Ưu điểm của hình thức đào tạo này là không chỉ tạo ra thị trường tiêu thụ “sản phẩm” đào tạo
một cách hợp lý, gắn đào tạo với sử dụng mà còn xây dựng quan hệ ràng buộc và trách nhiệm,
nghĩa vụ của đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
- Thứ ba: Hoàn thiện và đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất,
trang thiết bị cho dạy – học, đổi mới phương pháp đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực và chế
độ cho đội ngũ giáo viên để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, công
nhân kỹ thuật cho doanh nghiệp.
- Thứ tư: Đẩy mạnh xã hội hoá công tác dạy nghề nhằm huy động mọi nguồn lực
tham gia công tác dạy nghề.
Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện thuận lợi để toàn xã hội tham gia phát
triển dạy – học nghề, tạo cơ hội cho mọi người, mọi lứa tuổi, mọi trình độ nhất là học sinh phổ
thông được học nghề.
Tranh thủ chất xám, trình độ khoa học kỹ thuật của các viện nghiên cứu, các trung
tâm khoa học, các trường đại học, cao đẳng, các chuyên gia… trong giảng dạy để nâng cao chất
lượng đào tạo nghề.
Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong đào tạo nghề với các hình thức khác nhau như:
đưa công nhân đi đào tạo ở nước ngoài, mời các chuyên gia sang đào tạo, tranh thủ các nguồn
tài trợ (các dự án của các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài) nhằm từng bước tiếp cận
trình độ chuẩn của khu vực và quốc tế.
- Thứ năm: Có cơ chế, chính sách nhằm phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Nhà nước
về lao động với đại diện giới chủ, giới thợ, đại diện các hội nghề nghiệp và cơ sở dạy nghề trong
xây dựng nhu cầu của doanh nghiệp và nguồn nhân lực.


KẾT LUẬN




17
Việc làm là một trong những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tất cả các quốc
gia trên trế giới. Nó quyết định tới sự ổn định, công bằng và tiến bộ xã hội. Là một căn cứ quan
trọng để khẳng định sự phát triển của nền kinh tế và cũng là thước đo thể hiện năng lực quản lý
cũng như bản chất chính trị của mỗi chế độ xã hội.
Bắc Ninh là một tỉnh “đất chật, người đông”, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn khá
cao, tình trạng thất nghiệp ở nông thôn tuy không nhiều nhưng tình trạng thiếu việc làm lại rất
cao. Chính vì vậy, tạo mở việc làm, hạn chế thất nghiệp là một vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, là
mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bắc Ninh. Trong khuôn khổ của luận
văn này, tác giả đã tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
- Luận giải những khái niệm cơ bản nhất về lao động, việc làm, thất nghiệp. Phân tích
những nhân tố tác động đến việc làm, đặc biệt là sự tác động của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
- Khái quát kinh nghiệm giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng
Nai, Hải Dương, Nhật Bản và Đài Loan nhằm rút ra một số kinh nghiệm cho tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích thực trạng giải quyết việc làm ở Bắc Ninh trong quá trình CNH, HĐH thời
gian qua, những thành công bước đầu và những hạn chế, tồn tại trong giải quyết việc làm. Phân
tích sự tác động của quá trình CNH, HĐH đến việc làm trong tỉnh, quá trình này đã làm cho cơ
cấu lao động có những chuyển biến theo hướng tích cực, tình trạng tâất nghiệp có xu hướng
giảm xuống, đời sống của người lao động đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, sự chuyển biến
của cơ cấu lao động còn chậm, tình trạng thiếu việc làm vẫn ở mức cao, còn có sự mất cân đối
lớn giữa cung và cầu lao động, công tác đào tạo nghề vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh.
- Mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong 5 năm (2006- 2010 và tầm nhìn 2020 của Bắc
Ninh với nội dung cơ bản là đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH; phấn đấu đến năm 2015 cơ bản
trở thành tỉnh công nghiệp. Đây là cơ sở định hướng cho việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực
trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu trên, hòan thành “chiến lược giải quyết việc làm” của
tỉnh, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản. Một là, gắn việc quy hoạch các KCN, khu đô thị

với giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất. Hai là, đa dạng hóa các ngành nghề
và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Ba là, hạ
thấp tỷ lệ sinh, nhằm giảm nguồn cung tự nhiên người lao động. Bốn là, phát triển thị trường lao
động. Năm là, đẩy mạnh công tác đào tạo nghề gắn với yêu cầu xã hội nhằm khắc phục sự bất
hợp lý trong quan hệ cung- cầu lao động về chất lượng và cơ cấu ngành nghề.
Những giải pháp cơ bản, trọng yếu trên vừa có ý nghĩa thực tiễn trước mắt, vừa có ý
nghĩa chiến lược lâu dài nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, xóa đói, giảm nghèo, khai
thác được nguồn lực có vai trò quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH, đưa
Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.

×