Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Một giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trung học cơ sở thành phố móng cái giai đoạn 2014 đến 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.17 KB, 81 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
HC VIN CHNH TR KHU VC I
NGUYN TH NINH
MộT Số GIảI PHáP NÂNG CAO CHấT LƯợNG
GIáO DụC TRUNG HọC CƠ Sở THàNH PHố MóNG CáI
GIAI ĐOạN 2014 ĐếN 2020
LUN VN TT NGHIP
CAO CP Lí LUN CHNH TR - HNH CHNH

H NI, NM 2014
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
HC VIN CHNH TR KHU VC I
NGUYN TH NINH
MộT Số GIảI PHáP NÂNG CAO CHấT LƯợNG
GIáO DụC TRUNG HọC CƠ Sở THàNH PHố MóNG CáI
GIAI ĐOạN 2014 ĐếN 2020
LUN VN TT NGHIP
CAO CP Lí LUN CHNH TR - HNH CHNH
Ngi hng dn: Th.S. Giang Th Huyn
Phú Trng khoa Vn húa - Phỏt trin
H NI, NM 2014
2
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT KÝ HIỆU NỘI DUNG
1 BCH Ban chấp hành
2 CBQL Cán bộ quản lý
3 CNH- HĐH Công nghiệp hóa- hiện đại hóa
4 CNXH Chủ nghĩa xã hội
5 CSVC Cơ sở vật chất
6 GD&ĐT Giáo dục và đào tạo
7 HĐND Hội đồng nhân dân


8 HSG Học sinh giỏi
9 KT- XH Kinh tế xã hội
10 PCDGTH Phổ cập giáo dục tiểu học
11 PCDGTH-CMC Phổ cập giáo dục tiểu học- chống mù chữ
12 PCGD THCS Phổ cập giáo dục trung học cơ sở
13 PCGDTrH Phổ cập giáo dục trung học
14 PPDH Phương pháp dạy học
15 THCS Trung học cơ sở
16 THPT Trung học phổ thông
17 TNCS Thanh niên Cộng sản
18 TW Trung ương
19 UBND Uỷ ban nhân dân
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị của mỗi quốc gia, là biểu hiện trình độ phát triển của quốc gia đó.
Ngay từ khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Sớm nhận thức được tầm quan trọng của sự
nghiệp giáo dục- đào tạo, tại Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1976), Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 14-NQ/ TW, ngày 11-01-1979
về cải cách giáo dục “Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách
mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến
lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội” [03, tr. 9].
Tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp
với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX, X và XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng một lần
nữa xác định: “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học công nghệ và kinh tế tri thức”

[12, tr. 5]. Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Ðảng khóa XI đã
đề ra Nghị quyết "Ðổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN và hội nhập quốc tế". Nghị quyết 10/NQ- CP về Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2011- 2020 đã đề ra 5 quan điểm phát triển, trong đó
“Giáo dục- Đào tạo được xác định là khâu đột phá, là chìa khóa của mọi sự
thành công trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội (KT- XH). Vì vậy thực
sự coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển KT-
XH đã trở thành triết lý nhằm đảm bảo các điều kiện để phát huy nguồn lực
con người- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đây chính
là nền tảng động lực thúc đẩy kinh tế- xã hội, sự nghiệp giáo dục- đào tạo
phát triển” [02, tr.4].
4
Cùng với sự ổn định và phát triển kinh tế- xã hội của thành phố,
ngành Giáo dục và Đào tạo trong những năm qua cũng đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Quy mô giáo dục đang được mở rộng ở tất cả các cấp
học, bậc học. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo được sự quan tâm của toàn xã
hội. Tỷ lệ học sinh đến lớp ngày càng cao, chất lượng giáo dục toàn diện
có những bước chuyển biến tích cực theo tinh thần cuộc vận động "Hai
không" và phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, các nhiệm vụ trọng tâm khác của ngành được tổ chức tiến hành đạt
kết quả tốt. Tỷ lệ giáo viên có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn tăng nhanh,
chương trình kiên cố hóa trường lớp, xây nhà công vụ giáo viên thực hiện
có nhiều cố gắng. Công tác xã hội hoá giáo dục được các nhà trường, địa
phương triển khai tích cực hiệu quả, đã huy động được nhiều nguồn lực
của xã hội đóng góp, xây dựng cho sự nghiệp giáo dục- đào tạo. Nhiều học
sinh có hoàn cảnh khó khăn đã vượt khó vươn lên có thành tích cao trong
học tập. 100% số xã, phường trên địa bàn thành phố được công nhận phổ
cập giáo dục THCS và cơ bản hoàn thành về phổ cập GDTH.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được, sự nghiệp giáo dục của
thành phố vẫn còn chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông:
Chất lượng giáo dục giữa các trường chưa đồng đều; cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy học chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của hoạt động dạy và học; năng
lực của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên còn nhiều hạn chế, bất cập; công tác
xã hội hóa giáo dục chưa tương xứng so với yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học hiện nay vì vậy chưa đáp ứng được yêu đào tạo nguồn nhân lực cho
sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hóa đất nước.
Tình hình trên đặt ra cho cấp ủy, chính quyền, ngành giáo dục và
đào tạo trong toàn thành phố cần phải đánh giá đúng thực trạng chất lượng
giáo dục trên địa bàn, đề ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy những
thành tích đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo của thành phố góp phần vào công cuộc đổi mới,
xây dựng đất nước.
5
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXII đã chỉ rõ mục tiêu,
nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo thành phố Móng Cái: “Phát triển toàn diện
giáo dục, đào tạo, nâng cao hiệu quả, tính thiết thực của công tác khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đến 2015 phấn đấu 70% số trường
đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành các chỉ tiêu về phổ cập giáo dục ở các ngành
học, cấp học. Phấn đấu xây dựng Móng Cái trở thành đô thị loại II, biên giới
hiện đại, thân thiện với môi trường trước năm 2020” [10, tr. 3]. Để đạt được
mục tiêu này, phát triển toàn diện và mạnh mẽ giáo dục và đào tạo là một giải
pháp quan trọng, mang tính đột phá chiến lược.
Trước yêu cầu mới về nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo, nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và
Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XXII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII.
Là cán bộ Liên đoàn Lao động thành phố phụ trách việc phối hợp thực hiện

công tác giáo dục trên địa bàn, tôi rất băn khoăn để làm thế nào nâng cao chất
lượng giáo dục, nhất là giáo dục khối Trung học Cơ sở. Tôi xác định rằng:
công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên, đảm bảo chất lượng
dạy và học, huy động sự quan tâm, chăm lo của toàn xã hội đối với công tác
giáo dục sẽ là mắt xích chủ yếu và quan trọng nhất trong việc nâng cao chất
lượng giáo dục trên địa bàn. Công tác này được cải tiến và đẩy mạnh sẽ có tác
dụng quyết định tạo nên sự chuyển biến cao về chất lượng của cấp học THCS,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước nói
chung và thành phố nói riêng.
Với suy nghĩ đó, tôi chọn đề tài "Một giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục Trung học cơ sở thành phố Móng Cái giai đoạn 2014 đến 2020” viết
luận văn tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị- hành chính niên khóa 2013- 2014.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao chất
lượng giáo dục THCS.
6
Thứ hai, phân tích thực trạng giáo dục THCS thành phố Móng Cái giai
đoạn 2009- 2013.
Thứ ba, từ kết quả phân tích, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục THCS giai đoạn 2014- 2020 và đưa ra những
kiến nghị, đề xuất thực hiện các giải pháp đó.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng giáo dục THCS của thành phố
Móng Cái.
- Phạm vi nghiên cứu: Đánh giá thực trạng giáo dục THCS thành phố
Móng Cái giai đoạn 2009- 2013, đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục THCS của Thành phố giai đoạn 2014- 2020.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về giáo dục và đào tạo.

- Phương pháp luận thực hiện đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo
sát thực tiễn
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao chất lượng
giáo dục THCS.
Chương 2: Thực trạng chất lượng giáo dục THCS ở thành phố Móng
Cái giai đoạn 2009- 2013.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục
THCS ở thành phố Móng Cái giai đoạn 2014- 2020.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NÂNG CAO
CHÂT LƯỢNG GIÁO DỤC THCS
1.1. Vị trí, vai trò của giáo dục và tầm quan trọng của giáo dục THCS
1.1.1. Vị trí, vai trò của giáo dục
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển con người, chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hiện nay,
không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các Chính
phủ đều coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nguồn tài nguyên và sự
giàu có của một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm
trong bản thân con người, trí tuệ con người.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm
lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hóa ngày càng tăng; tài
năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người,
không phải xuất hiện một cách ngẫu hiên, tự phát, mà phải trải qua quá trình
đào luyện công phu có hệ thống. Vì vậy, giáo dục hiện nay được nhìn nhận

không phải là yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu thành của nền
sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy rằng không có quốc gia nào muốn phát
triển mà ít đầu tư cho giáo dục. Công cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế
giới hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua về phát
triển giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương
khóa VIII của Đảng ta đã nhấn mạnh: “Thực sự coi giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu; giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội; đầu tư cho giáo dục và đào
tạo là đầu tư phát triển. Muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thắng
lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục và đạo tạo vì giáo dục đào tạo có vai
8
trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền
văn hóa” [6, tr.8].
Giáo dục và đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản
xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hóa tinh thần của chủ
nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư
tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thực pháp quyền và ý thức đạo
đức, xây dựng nền văn hóa, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc
hình thành lối sống mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã từng
xác định nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục đó là nhằm xây dựng con
người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát
huy các giá trị văn hóa của dân tộc là những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Như vậy, giáo dục và đào tạo có tác dụng to lớn đến toàn bộ đời sống
vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục và đào tạo là cơ
sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, chiến lược phát triển con
người của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.2. Tầm quan trọng của giáo dục THCS

Giáo dục phổ thông có vai trò đặc biệt quan trọng hệ thống giáo dục,
góp phần trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa, tạo ra động lực phát triển kinh tế xã
hội, thông qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực con
người về trí tuệ và tâm hồn, năng lực, sự thành thạo, tài năng, đạo đức, nhân
cách, lối sống của cá nhân và cộng đồng.
Trong hệ thống giáo dục nước ta, giáo dục phổ thông được chia thành 3
bậc học: Tiểu học, THCS và THPT. Trong sự phát triển, bậc học trước tạo
9
tiền đề cho các bậc học sau cao hơn, các bậc học đều thực hiện chức năng
trang bị kiến thức cho học sinh, giúp học sinh hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách. Điều 27, Luật giáo dục năm 2005, khẳng định: "Mục tiêu của
giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, lối sống,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên
hoặc đi vào sống lao động tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [34, tr.9].
THCS là bậc học thứ hai trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cầu nối
giữa bậc Tiểu học với bậc THPT, Trung học chuyên nghiệp và học nghề. Giáo
dục THCS có ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình hình thành nhân cách và phát
triển trí tuệ của học sinh. Chương trình giáo dục THCS được thực hiện trong 4
năm từ lớp 6 đến hết lớp 9, học sinh có độ tuổi tuổi từ 11 đến 14 tuổi. Đây là
giai đoạn tâm sinh lý lứa tuổi có nhiều biến đổi sâu sắc, muốn tự khẳng định
mình, với nhiều ước mơ và hoài bão. Mục tiêu của giáo dục THCS nhằm giúp
học sinh củng cố và phát huy những kết quả của giáo dục Tiểu học, có trình độ
văn hóa phổ thông cơ sở và những hiểu biết về kỹ thuật, hướng nghiệp để tiếp
tục học THPT, Trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao
động. Điều 27, Luật giáo dục năm 2005, đã xác định nhiệm vụ của cấp học
THCS: "Giáo dục THCS phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở
Tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về Tiếng

Việt, lịch sử dân tộc, kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên,
pháp luật, Tin học, ngoại ngữ; có hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và
hướng nghiệp" [34, tr.9]. Vì vậy, việc trang bị kiến thức phải đảm bảo tính phổ
thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và có hệ thống, gắn với thực tiễn cuộc
sống, phù hợp tâm lý tuổi học sinh giai đoạn này rất quan trọng.
Theo tư duy hiện nay, để đi tắt đón đầu từ một nước kém phát triển thì
vai trò của giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ càng có tính quyết định.
Giáo dục phải đi trước một bước, thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
10
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục đào tạo đáp ứng nguồn nhân lực có chất
lượng cao, có kỹ năng vững vàng, có khả năng sáng tạo. Điều đó đòi hỏi phải
đổi mới về tư duy giáo dục ngang tầm với tư duy kinh tế và tư duy kỹ thuật.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của công nghệ thông tin và nền kinh tế tri thức, có đòi
hỏi mỗi con người phải tích cực học tập để chiếm lĩnh tri thức về khoa học
công nghệ, về văn hóa. Bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI là: "học để biết",
"học để làm", "học để chung sống, học cách sống với người khác", "học để
khẳng định mình" đang được các nước quan tâm trong chiến lược phát triển
giáo dục, mà giáo dục phổ thông là nền tảng, trong đó giáo dục THCS có một
vị trí hết sức quan trọng, là điểm chốt căn bản, một bậc học được phổ cập tạo
tiền đề định hướng cho mỗi cá nhân trong quá trình phát triển phẩm chất, tài
năng. Vì vậy việc đầu tư và nâng cao chất lượng THCS là quan trọng và cần
thiết góp phần đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
1.2. Những yếu tố quy định chất lượng giáo dục THCS
Thực hiện tốt yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
cho học sinh, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao về hưởng thụ giáo dục của xã
hội, từng bước để học sinh của trường có khả năng tiếp cận với các trường
học THCS có chất lượng tổ chức và quản lý trường học, cơ sở vật chất, đội
ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và các hoạt động xã hội trong trường học có vai

trò quy định chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh.
Chuẩn hóa, hiện đại hóa về các hoạt động: Tổ chức và quản lý trường
học, cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên nhằm tạo ra môi
trường giáo dục tương đối đồng đều giữa các địa bàn, tạo cơ hội bình đẳng về
điều kiện học tập cho mọi trẻ em ở các vùng kinh tế- xã hội khó khăn khắc
phục khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa thành phố và nông thôn. Một
11
trong những yếu tố quy định chất lượng giáo dục THCS, đó là sự lãnh đạo,
quản lý của cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý trong nhà trường. Để có
chất lượng quản lý tốt, cần có biện pháp quản lý phù hợp, gắn kết các hoạt
động giáo dục. Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục trước hết cần có sự
đổi mới trong công tác quản lý nhà trường, tập trung ở việc thực hiện các
chức năng đó là: Kế hoạch hóa, tổ chức, điều hành và kiểm tra.
Trong tình hình hiện nay, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, người
cán bộ quản lý ngoài việc thực hiện tốt các chức năng, đảm bảo các tiêu chuẩn
theo quy định, còn phải có sự sáng tạo, dự đoán, dự báo công việc, linh hoạt
trong các hoạt động quản lý đội ngũ cán bộ, giáo viên, học sinh, cơ sở vật
chất- kỹ thuật và các công tác khác của nhà trường.
Về chất lượng đội ngũ giáo viên, trong nhà trường, học sinh lĩnh hội
kiến thức chủ yếu thông qua giáo viên, thông qua các bài giảng của thầy, chất
lượng bài giảng tốt sẽ làm cho các em lĩnh hội kiến thức tốt hơn. Bên cạnh đó,
người thầy còn phải là tấm gương sáng về các chuẩn mực đạo đức lối sống
cho học sinh noi theo. Do vậy, cần phải xây dựng đội ngũ giáo viên trong nhà
trường phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu bộ môn, đạt trình độ chuẩn về
đào tạo theo quy định, được phân công giảng dạy theo đúng chuyên môn đào
tạo; xây dựng một tập thể sư phạm có ý thức phấn đấu vươn lên, hoàn thành
tốt nhất các nhiệm vụ được giao, không vi phạm các quy định tại điều lệ
trường trung học và quy định về đạo đức nhà giáo, có nhân cách tốt, yên tâm
với công việc, hết lòng với học sinh thân yêu.
Đối với học sinh, trong giai đoạn hiện nay, ngành giáo dục đang thực

hiện đổi mới phương pháp dạy học: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học thì học sinh là chủ thể, là trung tâm của sự giáo dục. Học sinh
cần có động cơ, thái độ học tập đúng đắn, chủ động, sáng tạo trong việc tiếp
thu kiến thức, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, thẩm mỹ, thể chất.
12
Luôn cải tiến phương pháp học tập, có ý thức phấn đấu vươn lên để đạt kết
quả cao nhất trong rèn luyện và học tập.
Muốn hoàn thành mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là trong
giai đoạn hiện nay khi toàn ngành giáo dục đang thực hiện chương trình đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học thì nhu cầu nâng cao cơ sở vật chất
giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa là vô cùng quan trọng và cấp
thiết. Cơ sở vật chất chủ yếu phục vụ cho các trường THCS phải đạt chuẩn
theo quy định như phòng học, bàn ghế, phòng chức năng, phòng thực hành,
phòng công vụ, thư viện, trang thiết bị dạy học
1.3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về giáo dục
1.3.1. Quan điểm Chủ nghĩa Mác- Lênin về giáo dục
Chủ nghĩa Mác chỉ ra rằng: Bản chất con người trong tính thực hiện
của nó là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con người là sản phẩm của mối
quan hệ nói chung, trong đó có nhà trường là phương tiện, môi trường chủ
yếu hình thành nhân cách và trang bị cho thế hệ trẻ những tri thức, phát triển
trí tuệ để con người hình thành năng lực bản thân và có năng lực phát triển
sáng tạo ra những tri thức về tự nhiên- xã hội. Giáo dục với tư cách là một bộ
phận của xã hội có nhiệm vụ đào tạo ra thế hệ tương lai. C.Mác khẳng định:
“Nền giáo dục tương lai, nó sẽ kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể
dục đối với tất cả những trẻ em trên một lứa tuổi nào đấy, coi đó không chỉ là
một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một
phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện
nữa”
.

[30, tr.668].
Theo Mác, trong quá trình hình thành nhân cách, điều kiện quyết định
là hoạt động thực tiễn, hoạt động lao động và hoạt động xã hội. Hoạt động xã
hội và lao động vừa là điều kiện để hình thành nhân cách vừa là thước đo,
13
đánh giá tính chủ thể của mỗi cá nhân. Con người phát triển toàn diện sẽ là
mục đích của nền giáo dục Cộng sản Chủ nghĩa, và con người phát triển toàn
diện là người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có về tất cả mọi mặt đạo
đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm nhận thức, năng lực, óc thẩm mỹ và có khả
năng cảm thụ được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra xung
quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản
thân. Vì vậy, con người phát triển toàn diện theo quan điểm của Mác, trước
hết phải là sự phát triển không ngừng của tất cả các mặt. Song, điều đó không
mâu thuẫn với sự phát triển thiên hướng, phát triển năng khiếu chuyên biệt và
ngược lại, sự phát triển các mặt là tạo điều kiện cho các năng lực chuyên biệt
càng hoàn thiện và càng phát triển tốt hơn. Như vậy, C.Mác đề cập đến nội
dung giáo dục một cách toàn diện, bao gồm: giáo dục thể lực, trí lực, khoa
học kỹ thuật tổng hợp và giáo dục gắn liền với lao động sản xuất, tức là nội
dung giáo dục bao gồm các mặt: trí, đức, thể mỹ và giáo dục nghề nghiệp.
Đồng thời, đã chứng minh một cách khoa học rằng, sự phát triển toàn diện,
phát triển mọi khả năng tiềm tàng của con người nhờ giáo dục và đào tạo là
yếu tố quyết định sự phát triển xã hội: “Việc kết hợp giữa lao động sản xuất
được trả công, giáo dục trí lực, giáo dục thể lực và giáo dục kỹ thuật tổng hợp
sẽ nâng giai cấp công nhân lên cao hơn rất nhiều so với trình độ của giai cấp
quý tộc và tư sản ”

[29,tr. 263]
V.I.Lênin đã kế thừa, vận dụng và phát triển những tư tưởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về giáo dục và đào tạo trong thực tiễn cách mạng nước
Nga, trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vào những thập

niên đầu của thế kỷ XX. Tại Đại hội Toàn Nga về công tác giáo dục lần thứ
nhất diễn ra vào ngày 28/8/1918, V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của
công tác giáo dục, coi đó là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo
thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói:“ Sự
14
nghiệp của nhà trường chúng ta cũng là đấu tranh đánh đổ giai cấp tư sản;
chúng ta tuyên bố công khai rằng: nói nhà trường đứng ngoài cuộc sống,
ngoài chính trị, là nói dối và lừa bịp”

[25, tr 92 ]; “ Những người lao động
khao khát có tri thức, vì tri thức cần cho họ để chiến thắng. Chín phần mười
quần chúng lao động đã hiểu rõ rằng tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng của họ, rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức; rằng
giờ đây việc làm cho mọi người có thể thực sự được học hành, là do bản thân
họ quyết định. Sự nghiệp của chúng ta sẽ thắng vì bản thân quần chúng đã bắt
tay xây dựng một nước Nga mới, xã hội chủ nghĩa.” [25, tr.92 ];
Một trong những điều kiện cơ bản, tiên quyết để nâng cao năng suất lao
động là phải nâng cao trình độ học vấn và văn hóa cho quần chúng nhân dân
lao động. Điều này, chỉ có thể thực hiện được và thực hiện đạt hiệu quả tối
ưu nhất là thông qua giáo dục và bằng giáo dục. Nhận thức một cách sâu sắc
tầm quan trọng của công tác giáo dục trong sự nghiệp chấn hưng đất nước
nên trong Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga tháng 2/1919 ở nội
dung nói về nền giáo dục quốc dân, V.I.Lênin viết: “Trong lĩnh vực giáo dục
quốc dân, Đảng Cộng sản Nga tự đặt cho mình nhiệm vụ phải hoàn thành sự
nghiệp cách mạng tháng Mười 1917 đã bắt đầu nhằm biến nhà trường từ một
công cụ thống trị giai cấp của giai cấp tư sản thành một công cụ để đập tan
nền thống trị đó, cũng như để hoàn toàn xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai
cấp. Nhà trường phải trở thành một công cụ của chuyên chính vô sản, nghĩa là
nhà trường không những phải truyền bá những nguyên lý của chủ nghĩa cộng
sản nói chung, mà còn phải là một công cụ truyền bá ảnh hưởng về tư tưởng,

về tổ chức và giáo dục của giai cấp vô sản vào những tầng lớp nửa vô sản và
không phải vô sản trong quần chúng lao động, nhằm hoàn toàn đập tan sự
kháng cự của bọn bóc lột và thực hiện chế độ cộng sản, Kết hợp chặt chẽ
công tác giáo dục với lao động sản xuất”

[26, tr. 141- 142 ]. V.I.Lênin cho
15
rằng, khi cách mạng mới thành công, bước đầu củng cố chính quyền thì
nhiệm vụ của công tác giáo dục là tuyên truyền và giáo dục về tư tưởng,
chính trị là chủ yếu. Khi cách mạng bước sang giai đoạn hoà bình, xây dựng
đất nước thì nhiệm vụ của công tác giáo dục cũng phải có sự thay đổi theo
cho phù hợp. Sự thay đổi đó thể hiện ở chỗ: công tác giáo dục và đào tạo phải
luôn gắn liền, bám sát với thực tiễn cuộc sống, giáo dục và đào tạo phải trở
thành đòn bẩy, thành công cụ, thành nguồn nội lực bên trong của quá trình
phát triển kinh tế- xã hội.
Bên cạnh những quan điểm về giáo dục và đào tạo nêu trên, V.I.Lênin
còn đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng: “Học, học nữa, học mãi!”, đã trở thành khẩu
hiệu, thành câu châm ngôn của hàng triệu, triệu các thế hệ không chỉ của nền
giáo dục ở Nga, mà còn là khẩu hiệu của nền giáo dục ở nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam.
Như vậy, cả C.Mác và V.I.Lênin đều khẳng định vai trò to lớn của giáo
dục và đào tạo đối với quá trình phát triển kinh tế- xã hội và sự tác động trở
lại của phát triển kinh tế- xã hội đối với giáo dục và đào tạo, chỉ rõ ý nghĩa
lớn lao và vai trò quyết định của giáo dục và đào tạo đối với việc phát triển
con người, nguồn lực con nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH của mỗi quốc
gia nói riêng. Những quan điểm ấy có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối
với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của các nước xã hội chủ nghĩa, góp phần
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Điều này, đặc biệt có ý nghĩa thiết
dụng đối với những nước thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam hiện nay.

1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, quan điểm về vai trò
của giáo dục trong việc phát huy nhân tố con người giữ vị trí hết sức quan
trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với con người, coi
16
con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định mọi thành công; con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là cơ sở
khoa học, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta trong nhận thức và hoạt
động xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, dốt nát là nguyên nhân cơ bản của yếu hèn và sai lầm.
Dốt thì dại, dại thì hèn. Hồ Chí Minh coi dốt nát là một trong ba loại giặc cần
phải tiêu diệt (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). Chính vì vậy, sau khi đất
nước vừa giành được độc lập, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ
lâm thời (03-9-1945), Hồ Chí Minh đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của chính
quyền mới, trong đó có 2 nhiệm vụ về giáo dục, đó là “cần mở một chiến dịch
để chống nạn mù chữ” và “giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực
hiện: cần, kiệm, liêm chính” [18, tr.34]. Người chỉ rõ: Một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí, bởi không một quốc
gia nào có thể tiến hành xây dựng một chế độ xã hội mới và bảo vệ Tổ quốc
thành công trong điều kiện văn hóa, dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội thấp
kém. Chưa đầy một tuần sau ngày độc lập, ba sắc lệnh quan trọng về giáo dục
đã được Người ký và ban hành: Sắc lệnh 17-SL, thành lập Nha Bình dân học
vụ, Sắc lệnh 19-SL, quy định mọi làng phải có lớp học bình dân, và Sắc lệnh
20-SL, cưỡng bách học chữ Quốc ngữ không mất tiền. Một nền giáo dục mới-
nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập được Người nêu rõ trong Thư gửi
các học sinh: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp
thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo
các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo
dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em… Non sông
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài

vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [18, tr.35].
17
Hồ Chí Minh chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục hướng vào các
giá trị dân tộc, hiện đại và nhân văn, một nền giáo dục phục vụ Tổ quốc, phục
vụ nhân dân. Theo chỉ đạo của Người, Bộ Giáo dục đã đề ra mục đích, phương
pháp và tổ chức của nền giáo dục mới. Không chỉ quan tâm hoàn thiện thể chế
và bộ máy của nền giáo dục mới, Hồ Chí Minh còn khởi động cho toàn dân
thấm nhuần tư tưởng “dân mạnh thì nước giàu”, “dân cường thì nước thịnh”, và
Người kêu gọi mọi người phải làm cho dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc
thông thái, xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Hưởng ứng lời kêu gọi của
Người, nhiều trường học cho thanh thiếu niên, cho đồng bào các dân tộc, cho
phụ nữ, phụ lão,… đã khai giảng, cả nước sôi nổi với phong trào bình dân học
vụ, diệt “giặc dốt”. Từ một nước 95% dân số mù chữ, nhiều làng xã đã xóa nạn
mù chữ, nhiều “chiến sĩ diệt dốt” đã được vinh danh.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò của giáo dục đối với sự hình
thành nhân cách con người. Người cho rằng, mỗi con người đều có cái thiện
và ác ở trong lòng, ta phải làm thế nào cho phần tốt trong mỗi con người nảy
nở như hoa mùa Xuân. Thông qua giáo dục thì cái thiện trong mỗi con người
sẽ ngày càng nhiều thêm và cái ác sẽ mất dần đi. Tuy vậy, Hồ Chí Minh
không coi giáo dục là yếu tố vạn năng, là tất cả, mà chỉ là phần chủ đạo, phần
nhiều. Người viết:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền.
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên” [17, tr.13].
Để có những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”, Hồ Chí Minh
thường xuyên quan tâm việc xây dựng một nền giáo dục toàn diện và khẳng
định: Nền giáo dục đó phải kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa đức dục, trí
dục, thể dục, mỹ dục, nhằm đào tạo ra những con người có tri thức, có lý

18
tưởng, có đạo đức, có sức khỏe, có thẩm mỹ. Người nói: “Trong việc giáo dục
và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: Đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội
chủ nghĩa, văn hóa, khoa học- kỹ thuật, lao động và sản xuất” [22, tr.13].
Trong hoàn cảnh đất nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược,
vừa có chiến tranh, vừa có hòa bình, Hồ Chí Minh càng coi trọng vai trò của
giáo dục. Người nói: “không có giáo dục, không có cán bộ, thì cũng không
nói gì đến kinh tế, văn hóa” [20, tr.13]. Đối với người cán bộ cách mạng, Hồ
Chí Minh càng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục, bởi cán bộ là cái
gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay cán bộ kém. Nội dung giáo dục cho cán bộ bao gồm: Giáo dục lý luận
chính trị; giáo dục văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ; giáo dục phong cách, đạo
đức cách mạng. Giáo dục lý luận chính trị có ý nghĩa rất quan trọng vì nó
trang bị cho người học lập trường giai cấp vô sản vững chắc, tin tưởng vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, và định hướng cho hành động của
con người. Hồ Chí Minh nói: Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt
mà đi; “Không học lý luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy
rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”,
thậm chí hủ hóa, xa rời cách mạng” [19, tr13].
Tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc, sáng tạo và phê phán từ các tiền đề: Chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống văn hóa, giáo dục và tinh thần nhân ái Việt Nam; triết lý giáo dục
phương Đông, đặc biệt là triết lý nhân sinh của Nho, Phật Lão; những tư
tưởng tiến bộ thời kỳ cận đại. Nhưng tiền đề quan trọng nhất, cái tạo nên sự
phát triển về chất trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí minh là chủ nghĩa Mác-
Lênin. Trên cơ sở đó và cùng với quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng
sinh động, phong phú của mình, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm hết sức
sâu sắc và mới mẻ về vai trò, mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
19
Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả

cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới,
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa- một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội
phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt
giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính
Theo quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì giáo dục và đào tạo
luôn là khâu then chốt, quyết định cho việc phát triển nhân cách từng cá nhân
con người cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Ngày nay, trong công cuộc
đổi mới đất nước, những giá trị lý luận thực tiễn của Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục đã trở thành định hướng cho công tác quản lý, chỉ đạo, xây dựng
giáo dục ở nước ta.
1.3.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục và đào tạo
Kế tục và quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp to lớn và cao cả của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác giáo dục. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, nền giáo dục nước ta gặp không ít khó khăn: xây dựng nền
giáo dục mới được hình thành trên cơ sở tiếp quản và cải tổ nền giáo dục
Pháp thuộc; năm 1945, nền giáo dục dân chủ nhân dân được xây dựng trong
kháng chiến vừa thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH ở miền Bắc vừa đấu
tranh giải phóng miền Nam. Đến năm 1975, đất nước thống nhất, nhiệm vụ
cấp bách của ngành giáo dục là xây dựng một nền giáo dục thống nhất theo
định hướng XHCN.
Đến năm 1979, từ Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, Đảng ta đã ra quyết
định số 14/NQTW về cải cách giáo dục với tư tưởng xem giáo dục là bộ phận
quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo
dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục
học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với xã hội. Từ đó, tư tưởng chỉ đạo trên được phát triển bổ sung, hoàn
20
thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác
định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "Nhằm xây dựng

những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gìn giữ và phát huy các
giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại
phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng
và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật, có sức khoẻ, là những người kế thừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên" như lời căn dặn của Bác Hồ.
Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa Đảng ta khẳng đinh: "Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người,
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững"
"Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương
pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và
sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học
vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những
hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực hiện "giáo dục cho
mọi người", "cả nước trở thành một xã hội học tập”, thực hiện phương châm
"học đi đôi với hành", giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
với xã hội.
Để cụ thể nội dung đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển giáo
dục một cách tổng thể và toàn diện, bắt đầu từ chủ trương phát triển giáo dục
21
mầm non, thực hiện xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở trên phạm vi cả nước, tạo môi trường thuận lợi để cho mọi người học tập
và học tập suốt đời. Điều hành hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo, quan tâm đào tạo đội ngũ công
nhân kỹ thuật lành nghề, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế, thực hiện tốt

chính sách giáo dục gắn với phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta càng phải quan tâm hơn đến sự nghiệp
giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, nhân dân lao
động để họ tham gia hội nhập mà vẫn giữ vững truyền thống văn hóa dân tộc,
đồng thời tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại, làm chủ khoa học tiên tiến.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ, giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt
Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục đào tạo theo nhu cầu phát
triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều
kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
Đảng lãnh đạo giáo dục và đào tạo là một tất yếu khách quan để đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Xuất phát từ nhu cầu phát triển nhân cách
của con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân cách con người là do nhiều yếu tố
tạo nên nhưng giáo dục đào tạo là yếu tố quan trọng giữ vai trò quyết định
trong sự phát triển trí tuệ và nhân cách con người. Mà công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất cần thiết có những con người mới xã hội chủ
nghĩa do đó phải chăm lo đến việc phát triển giáo dục đào tạo. Chính vì vậy
cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo yêu cầu về xây dựng con người xã hội chủ
22
nghĩa. Để kinh tế phát triển, xã hội ổn định thì quyền con người phải được
đảm bảo như: quyền học hành, quyền lao động, quyền làm chủ xã hội Trong
rất nhiều quyền con người ấy thì quyền cao nhất là quyền làm chủ. Muốn làm
chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân thì điểm đầu tiên là phải có tri
thức. Muốn có tri thức thì phải học, nhưng không phải ai cũng có điều kiện để
học, vì vậy, cần có Đảng lãnh đạo để đảm bảo thực hiện quyền đó.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là " Đổi mới
những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến
mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm
thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến
hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục- đào tạo và việc tham gia của
gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các
bậc học, ngành học” [13, tr 3].
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới;
kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo
đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp
học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình,
bước đi phù hợp.
1.3.4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục THCS trong
giai đoạn hiện nay
Xây dựng một nền giáo dục có tính thực tiễn và hiệu quả cao, tạo bước
phát triển mạnh mẽ về chất lượng, đưa nền giáo dục nước ta sớm tiến kịp các
nước phát triển trong khu vực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của địa phương và đất nước.
23
Muốn đánh giá chất lượng một sản phẩm nào đó, người ra phải biết
được mục đích của sản phẩm, sản phẩm đó được đặc trưng bởi bao nhiêu tiêu
chuẩn, tiêu chí, chỉ số. Sau đó, người ta xem xét, đối chiếu với từng tiêu
chuẩn, tiêu chí thì sản phẩm đó đạt ở mức độ bao nhiêu; từ đó mới có thể đưa
ra kết luận về chất lượng của sản phẩm. Cũng giống như việc đánh giá các sản
phẩm, việc đánh giá sản phẩm chất lượng giáo dục cũng phải dựa vào các tiêu
chuẩn, tiêu chí. Nếu không có chuẩn mực thì không thể đánh giá được chất
lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục phản ánh mức độ thực hiện mục tiêu
giáo dục, nội dung phương pháp giáo dục, quá trình tổ chức và thực hiện hoạt

động giáo dục. Chất lượng giáo dục trường THCS là sự đáp ứng các yêu cầu
về mục tiêu giáo dục phổ thông và giáo dục THCS quy định tại Luật Giáo
dục. Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục THCS là yêu cầu và điều kiện mà nhà
trường phải đảm ứng để công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Mỗi
tiêu chuẩn bao gồm các tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục. Để thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tinh thần độc lập trong suy nghĩ sáng
tạo, nâng cao năng lực tự học của học sinh và thực hiện tốt 03 cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; cuộc vận động "Hai
không"; "Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo" và
phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" và
định hướng, phân luồng học sinh vào các trường THPT, THCS, các trường
dạy nghề đảm bảo nguồn nhân lực cho xã hội, đồng thời thực hiện tốt tiêu chí
chuẩn PCGD THCS thì từ cấp học THCS phải được xây dựng chuẩn về chất
lượng, đảm bảo về quy mô. Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục THCS trong
giai đoạn hiện nay là một yêu cầu tất yếu, cấp bách của các cơ sở giáo dục.
24
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC
CƠ SỞ THÀNH PHỐ MÓNG CÁI GIAI ĐOẠN 2009- 2013
2.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Móng Cái- Thành phố cửa khẩu nằm ở phía Đông bắc của Tổ quốc,
trong vùng duyên hải Bắc Bộ, với diện tích tự nhiên 518,278 km
2
, toạ độ địa lý
từ 21
0
10' đến 21
0
39' vĩ độ Bắc, từ 107

0
43' đến 108
0
40' kinh độ Đông, địa giới
trải rộng, ngoài phần đất liền chiếm 85%, hải đảo 15% còn có 71% diện tích
đất đồi núi, 50 km đường bờ biển. Phía Đông và Đông Nam của Móng Cái
giáp với huyện Cô Tô và vịnh Bắc Bộ, ở phía Tây và Tây Bắc giáp huyện Hải
Hà, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, đồng thời giáp thành phố Đông Hưng,
thuộc tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc ở phía Bắc và Đông Bắc với 70km
đường biên giới. Móng Cái có nhiều danh lam, thắng cảnh nổi tiếng trong nước
và thế giới, nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú.
2.1.2. Tình hình kinh tế- xã hội
Móng Cái có 17 đơn vị hành chính (gồm 8 phường, 9 xã) với trên 10
vạn dân, trong đó hơn 3 vạn dân tạm trú (điều tra dân số năm 2012).
Trong những năm qua, thành phố tiếp tục được Trung ương Đảng,
Chính phủ, Tỉnh quan tâm ban hành nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi và ưu
tiên vốn ngân sách tập trung đầu tư xây dựng Móng Cái trở thành khu kinh tế
trọng điểm của Tỉnh trước năm 2015. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị
với đường lối mở cửa, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ
hợp tác đối ngoại, Móng Cái đã đón nhận thời cơ, vận hội vững buớc phát
triển đi lên, từng bước phát huy các tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế
xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh phát triển các
25

×