Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội- Viện khoa học bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.79 KB, 132 trang )

VIỆN KHOA HỌC BẢO HIỂM XÃ HỘI







BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI

ĐÁNH GIÁ 3 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI


CNĐT : ĐỖ THỊ XUÂN PHƯƠNG













9452



HÀ NỘI – 2010






1
LỜI NÓI ĐẦU
Ở nước ta, chính sách BHXH đã được ban hành và tổ chức thực hiện ngay
từ khi thành lập nước. Trải qua hơn 65 năm với nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau,
chính sách BHXH luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình trong hệ thống chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới đất nước,
chính sách BHXH đã từng bước phát huy đầy đủ vai trò trụ cột của nó trong hệ
thống an sinh xã h
ội, góp phần ổn định và phát triển bền vững xã hội.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, chính sách BHXH đều có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bao
gồm những nội dung về: phạm vi đối tượng tham gia; loại hình BHXH; nội dung
các chế độ; điều kiện hưởng và khung quyền lợi củ
a từng chế độ; việc tổ chức,
quản lý quá trình thực hiện cũng như khung pháp lý cho việc ban hành và thực
hiện chính sách BHXH.
Sau quá trình triển khai thực hiện chính sách BHXH cải cách được quy định
tại Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều lệ
BHXH tạm thời và Nghị định 45/ CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ về việc ban
hành điều lệ BHXH tạm thời đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, h
ạ sĩ
quan, binh sỹ quân đội nhân dân và công an nhân dân đạt nhiều kết quả đáng kể,
ngày 29/06/2006, Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 9

thông qua Luật BHXH (Luật số 71/2006/QH11) và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2007; riêng đối với BHXH tự nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2008, đối với BHTN từ ngày 01/01/2009.
Đến nay, Luật BHXH đã được triển khai thực hiện hơn 3 năm đối với
BHXH bắt buộc, hơn 2 nă
m đối với BHXH tự nguyện và hơn 1 năm đối với
BHTN. Luật BHXH đã từng bước đi vào đời sống xã hội và trở thành một công cụ
pháp luật có hiệu quả, góp phần điều tiết xã hội, phục vụ cho công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Số đối tượng tham gia các

2
loại hình BHXH đều tăng nhanh qua các năm. Nếu như năm 2006 cả nước có hơn
6,7 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì đến cuối năm 2009 đã là trên
8,9 triệu người, chiếm khoảng 70% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt
buộc. Về BHXH tự nguyện, năm 2008 có khoảng 6.110 người tham gia và năm
2009 có 41.193 người tham gia, trong đó số người thuộc BHXH tự nguyện nông
dân Nghệ An chuyển sang là 14.135 ng
ười, còn lại đa số là người trước đó đã có
thời gian tham gia BHXH bắt buộc. Năm 2009 có 86.328 đơn vị tham gia BHTN
với số người tham gia là 5,993 triệu người.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện, Luật
BHXH đã bộc lộ những hạn chế nhất định cần phải bổ sung, sửa đổi cả về mặt
chính sách và việc tổ chức th
ực hiện. Hơn nữa, trong giai đoạn phát triển mới của
đất nước, nhất là giai đoạn 2011-2020, chúng ta sẽ có những sự phát triển vượt bậc
về kinh tế – xã hội mà đích đến là năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước
công nghiệp. Vì vậy, với khoảng thời gian hơn 3 năm thực hiện vừa qua, chúng ta
cần nghiên cứu đánh giá về Luật BHXH cả về chính sách và công tác t
ổ chức thực
hiện nhằm thấy rõ những nội dung tiên tiến cũng như những tồn tại và đưa ra

những đề xuất cho phù hợp với giai đoạn mới của đất nước. Với mục đích đó,
chúng tôi đề xuất nghiên cứu đề án:
“ Đánh giá 3 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội”.
II. Mục tiêu nghiên cứu củ
a đề án:
- Phân tích, đánh giá toàn diện những tiến bộ và hạn chế trong các quy định
của Luật BHXH, cũng như trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHXH.
- Đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện Luật BHXH.
- Đưa ra những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Luật BHXH
cả về nội dung chế độ chính sách và tổ chức thực hiện.
III.
Đối tượng, Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:

3
- Luật bảo hiểm xã hội, các Nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành Luật
Bảo hiểm xã hội.
- Quá trình tổ chức thực hiện Luật BHXH từ năm 2007 đến năm 2009 trong
hệ thống ngành Bảo hiểm xã hội (bao gồm cả các văn bản hướng dẫn thực hiện
của BHXH Việt Nam).
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Đề án nghiên cứu trong phạm vi thời gian thực hiện Lu
ật BHXH từ
01/01/2007 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng, kết hợp các phương pháp thống kê, phân tích thông tin, số liệu và so sánh,
khái quát và tổng hợp.
IV. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề án được thực hiện theo 4 phần:
Phần 1: Tổng quan về Luật BHXH ở nước ta.

Phần 2: Thực trạng chính sách BHXH và những kiến nghị nhằm hoàn thiệ
n Luật
BHXH.
Phần 3: Công tác tổ chức thực hiện và những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
tổ chức thực hiện Luật BHXH.
Phần 4: Kế hoạch triển khai công tác sửa đổi, bổ sung chính sách và tổ chức thực
hiện Luật BHXH








4



PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
1.1. Các chế độ BHXH theo quy định của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO)
Do tính đa dạng và phức tạp của BHXH và để thống nhất các hoạt động
BHXH của các nước, Liên hợp quốc mà cụ thể là Tổ chức Lao động quốc tế đã có
những khuyến cáo, những quy định về các nộ
i dung của BHXH. Khuyến nghị đầu
tiên mà Hội nghị ILO thông qua vào năm 1944 đã nêu ra một số nguyên tắc của
An sinh xã hội mà chủ yếu là khuyến khích mở rộng các chế độ BHXH bắt buộc
để đảm bảo các phương tiện sinh sống tối thiểu trong những trường hợp gặp phải
rủi ro của những người tham gia BHXH.

Cũng trong năm 1944, Tổ chức Lao động quốc tế đã thông qua Khuyến
nghị số 69 về chăm sóc y tế trong đó có mở rộng đối tượng chăm sóc y tế không
chỉ là người lao động mà đến toàn thể công dân trong cộng đồng.
Năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước 102 về
An sinh xã hội (về những tiêu chuẩn tối thiểu). Đây là Công ước quốc tế có nội
dung đầy đủ nhất, phát triển những tiêu chuẩn quốc tế, mở ra m
ột cơ cấu thống
nhất và có sự phối hợp trong lĩnh vực này giữa các thành viên của ILO.
Những nội dung chính trong Công ước 102 gồm:
- Công ước quy định 9 nhánh chế độ chính của hệ thống An sinh xã hội bao
gồm: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ
cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Tr
ợ cấp thai sản; Trợ
cấp tàn tật; Trợ cấp chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Công ước cũng quy định rằng: một quốc gia được gọi là có hệ thống BHXH
phải thiết lập ít nhất 3 chế độ, trong đó ít nhất phải có một trong các chế độ là: trợ

5
cấp tuổi già, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp tàn tật; trợ cấp
chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Quyền lợi của các loại hình trợ cấp này
chủ yếu được thực hiện bằng tiền. Riêng trợ cấp TNLĐ và BNN và trợ cấp thai
sản có thể vừa trợ cấp bằng tiền vừa bằng hi
ện vật. Các loại trợ cấp phải đảm bảo
sự bình đẳng cho mọi thành viên trong xã hội, bình đẳng giữa người nước ngoài
và người trong nước. Tài chính của BHXH chủ yếu do sự đóng góp của các bên
tham gia, Nhà nước có trách nhiệm quản lý chung về BHXH, bảo đảm sự cân đối
giữa các bộ phận trong BHXH. Việc quản lý BHXH phải có đại diện của người
lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
- Về phạm vi áp dụng: Các đối tượng tham gia, nếu là người làm công ăn
lương thì phải có ít nhất là 50% tổng số người tham gia trên tổng số người làm

công ăn lương hoặc những loại lao động được quy định trong dân số hoạt động với
tổng số ít nhất chiếm 20% toàn bộ những người thường trú đối với các chế độ ốm
đau, tuổi già và tàn tật. Đối với chế
độ TNLĐ và BNN cũng phải được sự tham gia
của tối thiểu 50% tổng số những người làm công ăn lương hoặc ít nhất chiếm 50%
toàn bộ những người làm công ăn lương làm việc trong các cơ sở công nghiệp
đang sử dụng 20 người trở lên. Đối tượng hưởng Trợ cấp tử tuất bao gồm vợ, con
của người làm công ăn lương và của những người đang h
ưởng trợ cấp ốm đau,
tuổi già đã chết. Những người phụ nữ khi sinh đẻ đều có quyền hưởng trợ cấp.
- Về điều kiện nhận trợ cấp:
+ Đối với trợ cấp tàn tật: Người nhận trợ cấp phải có thời gian làm việc
hoặc đóng góp bằng 15 năm hoặc có 10 năm liên tục. Nếu tất cả mọi ngườ
i đang
làm việc đều được bảo vệ thì phải đảm bảo trợ cấp cho một người đã có 3 năm
đóng góp mà người đó đạt mức đóng góp trung bình hàng năm theo quy định.
+ Đối với trợ cấp tuất: Người nhận trợ cấp phải là vợ, con của người làm
công ăn lương. Trợ cấp định kỳ được thực hiện đối với những ngườ
i đã có 15 năm
đóng góp hoặc làm việc hoặc có 10 năm liên tục; nếu mọi người vợ và con đều

6
được trợ cấp thì phải đảm bảo trợ cấp cho người có 3 năm đóng góp và những
người đã đạt số đóng góp trung bình hàng năm đã quy định. Thực hiện mức trợ
cấp giảm đối với những người đã có 5 năm làm việc hoặc đóng góp.
+ Đối với trợ cấp TNLĐ - BNN: Người nhận trợ cấp là những người bị đau

m; bị mất khả năng lao động do tình trạng đau ốm gây nên và bị gián đoạn thu
nhập; những người bị mất hoàn toàn hoặc một phần khả năng thu nhập hoặc có sự
giảm sút tương ứng về thể lực; những người là vợ goá hoặc con của người lao

động bị chết.
+ Đối với trợ cấp tuổi già: Công ước quy định những người nhậ
n trợ cấp
không quá tuổi 65, nhưng các nước có thể ấn định độ tuổi cao hơn tùy theo điều
kiện của từng nước. Những người đã có thời gian đóng góp hoặc làm việc 30 năm
hoặc 20 năm liên tục. Nếu mọi người lao động đều được bảo hiểm thì cần phải
đảm bảo cho những người đã có một thời gian làm việc hoặc đóng góp. Thự
c hiện
trợ cấp giảm đối với những người đã có 15 năm làm việc hoặc đóng góp.
+ Đối với trợ cấp thất nghiệp: Tất cả những người bị gián đoạn thu nhập
theo quy định và không thể có được một công việc thích hợp trong khi người đó
hoàn toàn có khả năng lao động và sẵn sàng làm việc.
+ Đối với trợ cấp ốm đau: Những ngườ
i bị mất khả năng lao động do đau
ốm gây ra và dẫn đến tình trạng mất thu nhập theo quy định của từng quốc gia.
+ Đối với chăm sóc y tế: Những người bị đau ốm vì bất kỳ nguyên nhân gì
và trong khi thai nghén, sinh đẻ
- Về mức trợ cấp định kỳ: Mức trợ cấp được tính theo tỷ lệ %. Trong Công
ước có quy định tỷ lệ mẫu như sau:
+ Trợ cấp
ốm đau: Đối với những người có 1 vợ và 2 con, tỷ lệ trợ cấp
trong khoảng từ 45 đến 60%.
+ Trợ cấp tuổi già: Đối với người có vợ được hưởng trợ cấp: 40%
+ Trợ cấp thất nghiệp đối với người có 1 vợ và 2 con: 45%.

7
+ Trợ cấp mất khả năng lao động đối với người có 1 vợ và 2 con: 50%
+ Trợ cấp tàn tật do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với người có
1 vợ và 2 con: 50%.
+ Trợ cấp chết do TNLĐ và BNN cho người vợ goá có 2 con: 40%.

+ Trợ cấp thai sản trong khoảng từ 45 - 75%.
+ Trợ cấp tàn tật cho người có 1 vợ và 2 con: 40%
+ Trợ cấp tử tuất cho người vợ goá có 2 con: 40%
Thời gian hưởng tr
ợ cấp là tối đa 26 tuần đối với trợ cấp ốm đau, 13 tuần
đối với trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp thai sản giới hạn trong 12 tuần (trừ khi có
những quy định riêng của từng quốc gia).
1.2. Quá trình phát triển của chính sách BHXH ở nước ta.
1.2.1. Chính sách BHXH giai đoạn từ năm 1961 trở về trước:

Ngay sau khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã tiếp thu chính sách BHXH nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống
của công chức, viên chức Nhà nước lúc đó. Đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này
là các cơ quan quản lý sử dụng lao động đồng thời là cơ quan thực hiện các chế độ
BHXH. Chính sách BHXH được thể hiện thông qua việc ban hành một loạt các
Sắ
c lệnh với một số các quy định cơ bản như sau:
- Sắc lệnh số 54/SL ngày 3/11/1945 của Chính phủ lâm thời quy định điều
kiện nghỉ hưu là: " Hoặc đã làm việc được 30 năm, Hoặc đã đến 55 tuổi".
- Sắc lệnh số 105/SL của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà
ngày 14 tháng 6 năm 1946 quy định cách tính lương hưu: Nếu đã làm đủ 20 n
ăm
có đồng hưu liễm; sẽ được cấp hưu bổng tính theo phần số hạng thâm niên, cứ mỗi
năm được tính 1/60 lương bình quân về ba năm làm việc sau cùng (không kể các
phụ cấp); Nếu đã làm từ 20 năm đến 25 năm có đồng hưu liễm, sẽ được cấp hưu
bổng tính theo phần số hạng tỷ lệ 1/75 lương quân bình về ba năm làm việc sau
cùng ( không kể các phụ c
ấp),

8

- Sắc lệnh số 20/SL được Hồ Chủ Tịch ký ban hành ngày 16 tháng 2 năm
1947 quy định "hưu bổng thương tật" và "tiền tuất cho thân nhân tử sĩ" đối với:
"những quân nhân thuộc các ngành quân đội quốc gia Việt Nam". Điều kiện để
được nhận hưu bổng thương tật là "hưu bổng thương tật không tính theo hạng
thâm niên của binh sĩ, chỉ căn cứ vào bệnh tật nặng hay nhẹ
do Hội đồng quân y
Bộ quốc phòng xét định". Tiền hưu bổng thương tật được thực hiện 3 tháng một
lần theo mức độ bệnh tật "bệnh tật xét thành các độ, độ trên cách độ dưới 5% (bắt
đầu từ 5% cho đến 100%)"; Việc xác định mức độ bệnh tật do Hội đồng quân y
xét nếu thương tật ổn định thì được cấp hưu bổng thương tật vĩ
nh viễn còn nếu
bệnh tật có thay đổi thì cấp hưu bổng tạm thời; sau 3 năm thì cấp hưu bổng vĩnh
viễn theo mức độ thương tật hiện tại. Trong Sắc lệnh cũng quy định rõ việc "gia
cấp" cho con của những quân nhân bị thương từ 50 "độ" trở lên, việc "gia cấp" này
được thực hiện 3 tháng một lần.
- Sắc lệnh số 29/SL do Chủ tịch H
ồ Chí Minh ký ban hành ngày 12 tháng 3
năm 1947, trong đó có phần quy định chế độ phụ cấp gia đình, phụ cấp thâm niên,
"lệ nghỉ của đàn bà đẻ và đàn bà cho con bú", chế độ ốm đau, tai nạn lao động đối
với công nhân Việt Nam (thợ, gia nhân, người làm công và phu, nhà tiểu công
nghệ, thợ học nghề).
Con ruột hay con nuôi hợp pháp chưa tự kiếm sống của mọi công nhân
được nhận trợ cấp đến hết n
ăm 16 tuổi (18 tuổi đối với những trẻ đang học nghề,
học chữ hoặc bị tàn tật). Để trả khoản phụ cấp này, chủ phải đóng vào quỹ do
Chính phủ quy định.
Những công nhân Việt Nam khi bị thải hồi (trừ những người tự ý xin thôi
việc hoặc bị trọng tội), những người đã làm việc được 15 năm trở lên mà xin thôi
việc
để nghỉ dưỡng lão hoặc không đủ sức khỏe để làm việc đều được nhận phụ

cấp thâm niên. Đối với những công nhân quá cố thì tiền phụ cấp thâm niên được

9
trả cho các con và nếu không có con thì người vợ hay người chồng còn sống được
nhận phụ cấp này. Mỗi năm làm việc (đủ 12 tháng) được phụ cấp ít nhất 50 đồng.
Phụ nữ khi nghỉ thai sản được nhận trợ cấp trong 8 tuần, trường hợp bị ốm
đau do thai sản gây ra thì được nhận trợ cấp hơn thời hạn 8 tuần nhưng tối đa
không quá 12 tuần.
Công nhân bị
ốm đau nhưng không phải do tai nạn lao động thì được nghỉ
hưởng nguyên lương nhiều nhất 20 ngày/ năm và nếu người chủ chi trả toàn bộ
phí tổn (thuốc men, ăn uống) cho người bệnh thì không phải trả lương trong những
ngày công nhân nằm điều trị.
Khi công nhân bị tai nạn lao động mà phải nghỉ việc quá 4 ngày thì người
chủ phải bồi thường.
- Sắc lệnh số 76/SL ngày 20 tháng 5 n
ăm 1950 ban hành "Quy chế công
chức". Trong Sắc lệnh có quy định một số chế độ trợ cấp BHXH đối với công
chức Nhà nước:
Những công chức phải nghỉ việc vì thiếu sức khoẻ, nếu chưa đủ thời gian để
nghỉ hưu thì được hoàn lại toàn bộ số tiền đã đóng góp vào quỹ hưu bổng và được
hưởng một khoản trợ cấp tính theo số n
ăm làm việc, mỗi năm làm việc được một
tháng lương và phụ cấp gia đình, số ngày tháng lẻ được tính bằng một năm. Số
tiền trợ cấp không quá 6 tháng lương kể cả phụ cấp gia đình.
Nếu công chức chết thì chồng, vợ, các con hoặc cha mẹ có thể được hưởng
một khoản trợ cấp như cách tính đối với những công chức phải nghỉ việ
c vì lý do
sức khỏe.
Những công chức bị tai nạn trong khi thừa hành nhiệm vụ mà phải nghỉ việc

thì sẽ được hưởng hưu bổng thương tật và tuỳ thuộc vào mức độ thương tật mà
được hưởng thêm một khoản trợ cấp từ 3 đến 12 tháng lương kể cả phụ cấp gia
đình. Nếu công chức bị chết do tai nạn lao động thì vợ, chồng hoặc các con củ
a họ

10
sẽ được lĩnh khoản tiền trợ cấp, trong trường hợp không có vợ, chồng, con thì trợ
cấp sẽ trả cho cha mẹ công chức.
Khi có đủ 30 năm làm việc hay đủ 55 tuổi thì công chức thuộc hạng thường
trú được nghỉ hưu, đối với công chức thuộc hạng lưu động thì điều kiện nghỉ hưu
là có đủ 25 năm làm việc hoặc đủ 50 tuổi.

- Sắc lệnh số 77/SL ban hành ngày 22 tháng 5 năm 1950 quy định chế độ
đối với công nhân giúp việc Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến. Trong Sắc lệnh
này có quy định một số chế độ phụ cấp đối với người công nhân giúp việc Chính
phủ trong thời kỳ kháng chiến gồm:
Phụ cấp gia đình cho người vợ chính thức, con dưới 16 tuổi (18 tuổi nếu
còn đi học hay bị tàn tật).
Những công nhân b
ị ốm đau sẽ được nằm điều trị tại bệnh viện, cho nghỉ
dưỡng bệnh. Phụ nữ trong thời kỳ thai sản được nghỉ 2 tháng hưởng cả lương và
phụ cấp, 1 tháng trước và một tháng sau khi sinh.
Công nhân phải nghỉ việc vì thiếu sức khỏe theo đề nghị của Hội đồng
Giám định y khoa thì trợ cấp sẽ được tính theo số năm làm việc, mỗ
i năm làm việc
tính bằng một tháng lương kẻ cả phụ cấp gia đình nhưng không quá 6 tháng lương
gồm cả phụ cấp gia đình.
Nếu công nhân chết vì tai nạn lao động thì vợ, chồng hoặc con của họ được
nhận trợ cấp bằng 1 năm lương có phụ cấp gia đình, mức lương để tính trợ cấp là
lương tháng cuối cùng của người công nhân đó. Những ngườ

i bị tai nạn lao động
mà Hội đồng y khoa chứng nhận là thương tật tạm thời thì được hưởng khoản trợ
cấp từ 3 tháng đến 12 tháng lương kể cả phụ cấp gia đình tuỳ theo mức độ thương
tật. Toàn bộ chi phí mai táng do cơ quan sử dụng lao động chịu trách nhiệm.
Những người có đủ 30 năm làm việc hoặc đủ 55 tuổi được về hưu.
Nhữ
ng quy định về chế độ BHXH trong các Sắc lệnh trên đây đã góp phần
làm ổn định đời sống của công nhân, công chức trong thời kỳ vừa thành lập nước

11
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài, nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu nên việc thực hiện các chính sách BHXH trong thời kỳ này còn
rất hạn chế.
1.2.2. Chính sách BHXH giai đoạn từ 1962 đến 1994.

Sau ngày hoà bình lập lại ở Miền Bắc, với mục đích cải tiến và thống nhất
các chế độ có tính chất BHXH hiện hành nhằm cải thiện đời sống của công nhân,
viên chức Nhà nước, ngày 27 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với
công nhân viên chức Nhà nước. Đây là Điều lệ
tương đối đầy đủ, nó đã cụ thể hoá
được nhiều nội dung chủ yếu về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và
phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta thời kỳ này, nó thay
thế toàn bộ những quy định trước đây về BHXH.
Những quy định cơ bản về BHXH của Điều lệ tạm thời ban hành kèm theo
Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961 c
ủa Hội đồng Chính phủ:
- Về phạm vi đối tượng tham gia: toàn thể công nhân, viên chức Nhà nước
ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường kể cả cán bộ, công
nhân hoạt động ở các cơ quan đoàn thể nhân dân; những công nhân, viên chức làm

việc ở những xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng chế độ tiền lương như chế
độ quốc doanh; những xí nghiệp công nghiệp địa ph
ương đã có kế hoạch lao động
tiền lương ghi trong kế hoạch nhà nước.
Những người làm việc tạm thời, theo thời vụ, theo hợp đồng ngắn hạn
không thuộc phạm vi tham gia BHXH. Những người là công nhân, viên chức nhà
nước đang bị án phạt giam cũng không được hưởng quyền lợi về BHXH quy định
trong Điều lệ này.
- Các chế độ trợ cấp BHXH: bao gồm 6 chế độ
: ốm đau; thai sản; tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp; mất sức lao động; hưu trí và tử tuất.

12
- Tổ chức quản lý thực hiện BHXH: Việc tổ chức thực hiện quản lý quỹ
BHXH thời kỳ này được giao Tổng Công đoàn Việt Nam (sau này là Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam).


Sau ngày hoà bình lập lại (tháng 4/1975), đất nước thống nhất, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều thay đổi, một số quy định về BHXH trong Điều
lệ tạm thời ban hành kèm theo Nghị định 218/CP không còn phù hợp nữa, cần
phải sửa đổi và ban hành bổ sung. Ngày 18/9/1985, cùng với cải tiến chế độ tiền
lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung,
sửa đổi về chế độ BHXH cho công nhân, viên chức Nhà nước. Nghị định này đã
bổ sung đầy đủ hơn, cụ thể hơn các quy định về chế độ BHXH dài hạn cho người
lao động làm việc trong khu vực Nhà nước. Đặc biệt, chính sách bảo hiểm xã hội
ban hành lần này đã ưu đãi, khuyến khích người lao động làm việc tại những vùng
xa xôi, nơi hải đảo. Những bổ sung, sửa
đổi cụ thể như sau:
- Về lương hưu: Mức lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm

công tác, đối với nữ có đủ 25 năm công tác được tính bằng 75% lương chính và
phụ cấp thâm niên (nếu có), ngoài ra cứ mỗi năm công tác được tính thêm 1%
nhưng tối đa không quá 95% lương chính và phụ cấp thâm niên. Thời gian công
tác được quy đổi tuỳ theo điều kiện lao động và chiến đấu. Ngoài ra, Nghị định
cũng quy định những điều kiện nghỉ hưu có ưu đãi cho một số trường hợp đặc biệt
cũng như chế độ trợ cấp bổ sung đối với những người có công với cách mạng.
- Về trợ cấp thương tật: mức thương tật được xếp thành 4 hạng và tuỳ
thuộc vào mức độ nặng nhẹ mà hưởng trợ
cấp thương tật hàng tháng từ 20% đến
100% lương chính cộng với phụ cấp thâm niên (nếu có).
- Về trợ cấp mất sức lao động: Những người có đủ 15 năm công tác trở lên
(thời gian công tác đã quy đổi) thì được tính trợ cấp bằng 40% lương và phụ cấp
thâm niên (nếu có) và cứ mỗi năm làm việc được tính thêm 1%. Những người
chưa có đủ 15 năm công tác thì hưởng trợ cấp mộ
t lần với mức trợ cấp là mỗi năm

13
làm việc tính bằng 1 tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có). Những người
nghỉ việc do mất sức lao động, hưởng trợ cấp hàng tháng còn đang trong độ tuổi
lao động thì phải giám định lại sức khoẻ 2 năm 1 lần.
- Về chi phí chôn cất và trợ cấp vì mất người nuôi dưỡng: Những thân
nhân của người chết được nhận từ 4 tháng đến 6 tháng nguyên lương của người
ch
ết tuỳ từng trường hợp cụ thể. Sau khi hết thời hạn hưởng nguyên lương mà
thân nhân chủ yếu của người chết đã hết tuổi lao động hoặc chưa đến tuổi lao
động thì được nhận trợ cấp hàng tháng với tổng mức trợ cấp của gia đình không
quá 60% tiền lương và các khoản phụ cấp đối với những trường hợp chết do tai
nạn lao
động - bệnh nghề nghiệp, nếu chết vì ốm đau thông thường và người chết
đã có đủ 15 năm công tác trở lên thì tổng mức trợ cấp của gia đình không quá 50%

tiền lương và khoản phụ cấp (nếu có) của người chết.
Những nội dung sửa đổi của Nghị định này đã phần nào đáp ứng được nhu
cầu cải cách BHXH lúc đó và làm tiền đề cho các cải cách BHXH trong những
năm tiếp theo.
Nhìn lại chặng đường 30 năm (từ 1962 - 1994), chính sách BHXH đã đạt
được những thành tựu to lớn và đã tạo điều kiện để cán bộ, công nhân viên chức
và quân nhân yên tâm, phấn khởi lao động sản xuất, chiến đấu, góp phần giải
phóng và xây dựng đất nước. BHXH còn góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh:
hàng vạn cán bộ, viên chức, quân nhân bị suy giảm sức khỏe đã được h
ưởng chế
độ, ổn định cuộc sống. BHXH đã khẳng định những quyền lợi thiết yếu đối với
cán bộ, viên chức, quân nhân trong suốt quá trình làm việc và nghỉ việc khi tuổi
cao, sức yếu.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chính sách BHXH cũng bộc
lộ những nhược điểm, đặc biệt từ khi Nhà nước thực hiện đổi mới nề
n kinh tế - xã
hội:

14
- Chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và lực lượng
vũ trang mà lực lượng này chỉ chiếm khoảng 10% lực lượng lao động trong cả
nước, nên chưa tạo ra sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi xã
hội giữa những người lao động trong các thành phần kinh tế khác nhau và chưa
phù hợp với việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ngườ
i lao
động làm việc trong các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước chưa được quan tâm
đúng mức. Mặt khác, việc thực hiện chính sách BHXH như vậy cũng tạo ra sự
ngăn cách trong việc di chuyển lao động từ khu vực kinh tế nhà nước ra khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh hoặc ngược lại.
- Không quy định mối quan hệ giữa đóng góp và thụ hưởng theo nguyên tắc

cơ bản của bảo hiểm " có đóng - có hưởng", do đó Ngân sách Nhà n
ước bao cấp
ngày càng nặng nề. Khi Ngân sách Nhà nước gặp khó khăn thì nguồn để chi trả
BHXH cho người lao động không đảm bảo, ảnh hưởng đến đời sống của người
hưởng thụ.
- Việc tổ chức quản lý thực hiện chính sách bị phân tán, phần chi về BHXH
có bộ phận dư thừa không thể điều tiết sang bộ phận thiếu được. Quá trình quản lý
đan xen với các lĩnh v
ực ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội nên việc
giải quyết chế độ BHXH nhiều khi bị chồng chéo, kém hiệu quả. Hoạt động của tổ
chức BHXH bị cứng nhắc, hành chính hóa, gây nhiều phiền hà cho đơn vị sử dụng
lao động và người lao động.
Để chính sách BHXH phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội và khắc
phục được nh
ững nhược điểm của chính sách BHXH trong nền kinh tế bao cấp
trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới chính sách BHXH. Chủ
trương được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là: "Nhà nước thực hiện BHXH
đối với công chức và người làm công ăn lương đồng thời khuyến khích các hình
thức BHXH khác đối với người lao động".

15
Thực hiện chủ trương đó, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 43/CP quy định tạm thời các chế độ BHXH đối với lao động ở các thành phần
kinh tế. Theo chính sách BHXH ban hành lần này thì Nhà nước đã mở rộng đối
tượng tham gia đóng góp và hưởng các chế độ BHXH cho người lao động làm
việc ở các thành phần kinh tế và quy định rõ 4 chế độ BHXH là: tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, hưu trí, t
ử tuất. Đồng thời quy định nguồn quỹ để chi trả
BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động
và Nhà nước hỗ trợ.

1.2.3. Chính sách BHXH giai đoạn từ 1995 đến 2006
.
Tại Kỳ họp thứ V quốc hội khoá IX, Bộ Luật Lao động đã được thông qua
và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong đó có chương XII quy định về
BHXH. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP kèm theo Điều
lệ Bảo hiểm xã hội ngày 26/01/1995, thay thế các văn bản quy định về BHXH đã
ban hành trước đây. Để thực hiện chính sách BHXH đã quy định tại Đi
ều lệ này,
ngày 16/02/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập
BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất tổ chức BHXH ở Trung ương và địa
phương thuộc Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam với những chức năng chính là tổ chức thu, chi, giải quyết các chế độ
BHXH, thực hiện quản lý quỹ, đầu tư, bảo toàn, tăng trưởng qu
ỹ BHXH.
Điều lệ BHXH mới ban hành đã xác định rõ mục tiêu cơ bản là thực hiện
đầy đủ các chế độ BHXH đã quy định trong Bộ Luật Lao động đối với người lao
động khi gặp những rủi ro trong quá trình lao động như ốm đau, tai nận lao độgn-
bệnh nghề nghiệp; quyền lợi của người phụ nữ khi sinh con và chăm sóc con;
quyền lợi của người lao động khi h
ết tuổi lao động.
Chính sách BHXH cải cách được ban hành phù hợp với quá trình chuyển
đổi nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá hành chính tập trung sang nền
kinh tế thị trường với nhiều thành phần khác nhau, tương tự như vậy người lao

16
động làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau. Mặc dù làm việc trong các
thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các thành phần kinh tế ngoài nhà nước - đây
là khu vực kinh tế có tiềm năng lớn trong việc tạo việc làm và thu hút được nhiều
lao động - thì mọi người lao động đều được bình đẳng trước các chính sách xã hội
trong đó có chính sách BHXH. Theo quy định đó, mọi người lao động có quan hệ

lao động đều có nghĩa vụ đóng góp và hưởng các quyền lợ
i BHXH, không phân
biệt người lao động đó thuộc khu vực kinh tế nào. Từ đó tạo tâm lý cho người lao
động yên tâm với công việc mình đang làm, tạo ra sự bình đẳng cần thiết trong xã
hội cho mọi người lao động. Đồng thời hoạt động BHXH ở nước ta đã tuân thủ
triệt để theo nguyên tắc đóng - hưởng, hình thành quỹ BHXH được quản lý tập
trung, thống nhất, độc lập, tách ra khỏi ngân sách nhà nước. Bên cạnh
đó cũng
hình thành hệ thống chuyên ngành BHXH tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương
đến tỉnh, thành phố và các quận huyện, tách chức năng tổ chức thực hiện BHXH
ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước về BHXH. Đây là một tiến bộ lớn về mặt
chính sách và tổ chức thực hiện trong lĩnh vực BHXH, đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc cải cách toàn diện kinh tế - xã h
ội ở nước ta cuối những năm 80 của thế
kỷ trước.
1.2.4. Chính sách BHXH từ 2006 đến nay
.
Ngày 29 tháng 6 năm 2006, Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã được Quốc
hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 9 thông qua và
có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007 đối với BHXH bắt buộc, từ ngày 01/01/2008
đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện và từ 01/01/2009 đối với bảo hiểm thất nghiệp.
Luật BHXH ra đời đánh dấu một bước phát triển lớn v
ề chính sách BHXH, là một
tất yếu khách quan phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời kỳ đầu hội nhập kinh tế thế giới, đáp ứng được nhu cầu của thị trường
lao động, tạo hành lang pháp lý cao nhất trong việc thực hiện chính sách BHXH,
hướng đến mục tiêu BHXH cho mọi người lao động.

17
Luật BHXH bao gồm 11 chương với 141 Điều khoản. Phạm vi điều chỉnh

của Luật BHXH bao gồm: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và Bảo hiểm thất
nghiệp.
BHXH bắt buộc là loại hình mà người lao động và người sử dụng lao động
phải tham gia. Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghi
ệp, hưu trí và tử tuất.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình BHXH mà người lao động tự
nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu
nhập của mình để hưởng BHXH. Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm 2 chế độ:
hưu trí, tử tuất.
Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm 4 chế độ: trợ cấp th
ất nghiệp, hỗ trợ học
nghề và hỗ trợ tìm việc làm và BHYT cho thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Phạm vi đối tượng điều chỉnh trong Luật BHXH từng bước thực hiện đầy
đủ các chế độ BHXH theo quy định tại Công ước số 102 của ILO, cụ thể là bổ
sung BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp cho phù hợp với từng đối tượng
tham gia và sự đa dạng của các thành phần kinh tế, hoà nhập với sự phát triển
trong lĩnh vực BHXH với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần đáp
ứng mục tiêu an sinh xã hội.
Để triển khai Luật BHXH, một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
BHXH đã được ban hành, đó là: Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006
của Chính phủ hướng dẫn một số điều củ
a Luật BHXH về BHXH bắt buộc; Nghị
định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc đối với quân nhân,
công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân
nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với
quân nhân, công an nhân dân; Nghị định số 135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 của
Chính phủ quy đị
nh về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH; Nghị


18
định số 184/2007/NĐ-CP ngày 17/12/2007 của Chính phủ về điều chỉnh lương
hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc; Nghị
định số 143/2007/NĐ-CP ngày 10/9/2007 của Chính phủ quy định về thủ tục thực
hiện nghỉ hưu đối với cán bộ, công chức đủ điều kiện nghỉ hưu; Nghị định số
83/2008/NĐ
-CP ngày 31/7/2008 của Chính phủ về điều chỉnh tiền lương, tiền
công đã đóng BHXH đối với người lao động thực hiện chế độ tiền lương do người
sử dụng lao động quyết định; Nghị định số 190/2007/NĐ-CP ngày 28/12/2007 của
Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện; Nghị
định số 134/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 củ
a Chính phủ về điều chỉnh thu nhập
tháng đã đóng BHXH đối với người lao động tham gia BHXH tự nguyện; Nghị
định số 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ hướng dẫn một số điều
của Luật BHXH về bảo hiểm thất nghiệp và các Thông tư hướng dẫn. Hệ thống
các văn bản trên đã đi vào cuộc sống và đảm bảo quyền lợi cho ngườ
i lao động khi
tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH.
1.3. Quan điểm, nguyên tắc xây dựng Luật BHXH.
BHXH là chính sách xã hội rộng lớn, liên quan trực tiếp đến quyền lợi,
nghĩa vụ của phần lớn nguồn lao động xã hội. Chính sách BHXH trước năm 2007
được điều chỉnh chủ yếu trong các dạng văn bản dưới luật. Tuy nhiên do sự phát
triển của kinh tế – xã hội nên các mối quan hệ về BHXH, cụ
thể là quyền, nghĩa
vụ của người lao động, người sử dụng lao động, các cơ quan và tổ chức phải được
quy định trong các văn bản pháp lý do Quốc hội ban hành, vì vậy việc ban hành
Luật để điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực BHXH là hết sức cần thiết.
Xây dựng Luật BHXH là sự thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước người
lao động, trước nhữ

ng người đã, đang và sẽ tham gia cũng như thụ hưởng các chế
độ BHXH, đến an sinh xã hội và sự an toàn của quỹ BHXH cũng như sự phát triển
bền vững của BHXH trong tương lai. Vì vậy ngay từ năm 1998, Chính phủ đã chỉ
đạo nghiên cứu xây dựng dự án Luật BHXH, được Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 9

19
(tháng 7 năm 2001) cho ý kiến. Sau đó Luật BHXH lại được tiếp tục nghiên cứu,
soạn thảo để trình Quốc hội khoá XI thông qua. Dự thảo Luật BHXH đã được các
cơ quan của Quốc hội, của Chính phủ, các đoàn thể chính trị- xã hội tổ chức nhiều
hội thảo, hội nghị, toạ đàm lấy ý kiến. Đồng thời khi nghiên cứu Luật BHXH cũng
đã tham khảo ý kiến, kinh nghi
ệm của các chuyên gia nước ngoài, các tổ chức
quốc tế. Tháng 10/2005, taị kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI, Chính phủ trình
Quốc hội dự thảo Luật BHXH, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến. Ngay sau kỳ
họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Uỷ ban các vấn đề xã hội, Uỷ ban
pháp luật, Ban soạn thảo, Ban công tác lập pháp và các cơ quan hữu quan tiếp thu
ý kiến c
ủa các vị đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội chuyên trách, các Uỷ
ban của Quốc hội, Hội đồng dân tộc và ý kiến của 58 đoàn đại biểu Quốc hội để
giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật BHXH.
Với thực trạng về chính sách BHXH từ năm 1945 đến năm 2006, cũng như
đường lối, chủ trương phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
của nước ta, qua nhiều lần thảo luận và xin ý kiến của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng, Quốc hội chỉ đạo về quan điểm xây dựng Luật BHXH phải đảm bảo thể chế
hoá được đường lối, quan điểm của Đảng trong các văn kiện như: Mọi người lao
động trong xã hội đều có quyền tham gia, hưởng quyền lợ
i về BHXH, nhất là khi
về già; Đảm bảo bình đẳng, công bằng xã hội giữa các thành viên trong xã hội trên
cơ sở đóng - hưởng Mặt khác, các quy định trong pháp luật BHXH được xây

dựng trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện các quy định trong pháp luật BHXH trước
đó để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật BHXH và có tham khảo
kinh nghiệm của các nước để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc t
ế.
Từ quan điểm nêu trên, chính sách BHXH của nước ta được quy định trong
Luật BHXH được thực hiện theo 5 nguyên tắc sau:

20
- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có
sự chia sẻ giữa những người tham gia BHXH, với các mức độ khác nhau tuỳ theo
từng chế độ.
- Mức đóng BHXH bắt buộc, BHXH thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền
lương, tiền công của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên
cơ sở mức thu nhập do người lao động l
ựa chọn, cả mức đóng góp BHXH bắt
buộc và BHXH tự nguyện đều nằm trong khoảng thu nhập từ mức lương tối thiểu
đến 20 lần lương tối thiểu chung từng thời kỳ.
- Người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc, vừa có thời gian
đóng BHXH tự nguyện được hưởng chế độ hưu trí và chế độ tử tuất trên cơ sở thờ
i
gian đã đóng BHXH (có sự liên thông giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện).
- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch,
được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp
thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
1.4. Những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm xã hội.
1.4.1. Đối tượng áp dụng.

- Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm người lao động và người sử

dụng lao động:
+ Người lao động là công dân Việt nam, bao gồm: người làm việc theo hợp
đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba
tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân
công an; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thu
ật công an nhân dân; người làm
công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; hạ
sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục

21
vụ có thời hạn; người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng
BHXH bắt buộc.
+ Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị- xã hội, tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ
quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê
mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp bao gồm người lao động, người
sử dụng lao động và có hỗ trợ về tài chính của Nhà nước:
+ Người lao động tham gia bảo hiểm th
ất nghiệp là công dân Việt Nam làm
việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không
xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng với người sử
dụng lao động.
+ Người sử dụng lao động bao gồm các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp như
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nêu trên, nhưng chỉ áp dụng khi có sử dụng từ
10 lao

động trở lên.
- Người tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao
động, không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nêu trên.
1.4.2. Quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội.

Luật BHXH quy định Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH.
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. Các
Bộ, Cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về BHXH. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước
về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung quản lý Nhà nước v
ề BHXH bao gồm:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách BHXH.

22
- Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về BHHX.
- Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH.
- Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực làm công tác BHXH.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm về BHXH.
- Hợp tác quốc tế về
BHXH.
1.4.3. Quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động
và tổ chức BHXH.
1.4.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người lao động:
Người lao động có quyền được cấp sổ BHXH; nhận lại sổ BHXH khi không
làm việc; nhận lương hưu và trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời; hưởng bảo hiểm y tế
khi đang hưởng lương hưu, trợ cấp thất nghiệp hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp
TNLĐ, BNN hàng tháng; yêu cầu người sử dụ

ng lao động và tổ chức BHXH cung
cấp thông tin theo quy định; khiếu nại, tố cáo về BHXH. Đồng thời người lao
động phải có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định; thực hiện quy định về việc
lập hồ sơ bảo hiểm xã hội; bảo quản sổ BHXH theo đúng quy định và trách nhiệm
khác theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, người lao động tham gia BHTN còn
có trách nhiệm đăng ký thất nghiệp với tổ chức BHXH; thông báo hàng tháng với
tổ
chức BHXH về việc tìm kiếm việc làm trong thời gian hưởng trợ cấp thất
nghiệp; nhận việc làm hoặc tham gia khóa học nghề phù hợp khi tổ chức BHXH
giới thiệu.
1.4.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động:
Người sử dụng lao động có quyền từ chối thực hiện những yêu cầu không
đúng quy định của pháp luật về BHXH; khiếu nại, tố cáo v
ề BHXH. Đồng thời có
trách nhiệm đóng BHXH theo quy định và hàng tháng trích từ tiền lương, tiền
công của người lao động theo quy định để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH; bảo

23
quản sổ BHXH của người lao động trong thời gian người lao động làm việc; trả sổ
BHXH cho người lao động khi người đó không còn làm việc; lập hồ sơ để người
lao động được cấp sổ, đóng và hưởng BHXH; trả trợ cấp BHXH cho người lao
động; giới thiệu người lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại
Hội đồng giám định y khoa theo quy định; cung c
ấp tài liệu, thông tin liên quan
theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp thông tin về việc
đóng BHXH của người lao động khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu
cầu. Ngoài việc thực hiện các quy định trên, hằng tháng người sử dụng lao động
tham gia BHTN đóng BHTN theo quy định và trích từ tiền lương, tiền công của
người lao động theo quy định để đóng cùng một lúc vào quỹ BHTN.
1.4.3.3. Quyền và nghĩa vụ c

ủa tổ chức bảo hiểm xã hội:
Tổ chức BHXH có quyền từ chối yêu cầu trả BHXH không đúng quy định;
khiếu naị, tố cáo về BHXH; kiểm tra việc đóng BHXH và trả các chế độ BHXH;
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ,
chính sách, pháp luật về BHXH và quản lý quỹ BHXH; kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quy
ền xử lý vi phạm pháp luật về BHXH. Đồng thời tổ chức BHXH
có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH;
hướng dẫn thủ tục thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động, người sử dụng
lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH; thực hiện việc thu BHXH theo quy
định của Luật; tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế
độ BHXH; thực hiện việc trả lương
hưu, trợ cấp BHXH đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn; cấp sổ BHXH đến từng
người lao động; quản lý, sử dụng quỹ BHXH theo quy định của pháp luật; thực
hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH; tổ chức thực hiện công tác
thống kê, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ về BHXH; giới thiệ
u người lao động đi
giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa theo
quy định; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH; lưu trữ hồ sơ của
người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật; định kỳ 6 tháng, báo cáo Hội

24
đồng quản lý BHXH về tình hình thực hiện BHXH. Hàng năm, báo cáo Chính phủ
và cơ quan quản lý nhà nước về tình hình quản lý và sử dụng quỹ BHXH; cung
cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền được hưởng chế độ, thủ tục
thực hiện BHXH khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu; cung cấp tài
liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của nhà nước có thẩm quyền; giải quyết k
ịp
thời khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện BHXH; thực hiện hợp tác quốc tế về
BHXH.

1.4.4. Quỹ Bảo hiểm xã hội

Theo quy định của Luật BHXH thì quỹ BHXH được quản lý thống nhất,
dân chủ, công khai, minh bạch, được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc
lập theo các quỹ sau: Quỹ BHXH bắt buộc, Quỹ BHXH tự nguyện và Quỹ bảo
hiểm thất nghiệp. Riêng Quỹ BHXH bắt buộc được chia ra các quỹ thành phần và
cũng được hạch toán độc lập gồm: Quỹ ốm đau, thai sả
n; Quỹ tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp và Quỹ hưu trí, tử tuất.
1.4.4.1. Quỹ BHXH bắt buộc:
Được hình thành chủ yếu từ nguồn đóng góp của người lao động và người
sử dụng lao động: Hằng tháng, người lao động đóng với tỷ lệ bằng 5% tiền lương
(gồm cả các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấ
p thâm
niên nghề), tiền công tháng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010
trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Người
sử dụng lao động đóng với tỷ lệ bằng 15% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH
của người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trong đơn vị, trong
đó: 11% vào quỹ hưu trí, tử tu
ất và 3% vào quỹ ốm đau, thai sản và 1% vào quỹ
TNLĐ-BNN; từ tháng 1/2010 trở đi, mức đóng cho chế độ ốm đau, thai sản,
TNLĐ-BNN không thay đối, mức đóng cho chế độ hưu trí, tử tuất thì cứ 2 năm
một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. Mức tiền lương, tiền
công tháng tối đa làm căn cứ đóng BHXH bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.

×