Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Áp dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh vàng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.58 KB, 52 trang )

[1]


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM





CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ - NĂM 2008”


TÊN CÔNG TRÌNH:



ÁP DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH ĐỂ
PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG
KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NA








THUỘC NHÓM NGÀNH: Khoa học kinh tế







[2]

TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề tài:

Vàng hiện đang là một kênh đầu tư rất thu hút, được giao dịch khắp nơi trên
thế giới. Mấy năm gần đây, giá vàng đã liên tục gia tăng. Khi các nguồn đầu tư
trong nước như thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, sản xuất kinh
doanh dần trở nên yếu thế thì các nhà đầu tư đã tập trung vào vàng như một kênh rất
nhiều lợi thế. Nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang tiếp tục triển khai
hoạt động kinh doanh vàng và phát triển mạnh mẽ, ngay cả các ngân hàng nước
ngoài cũng chuyển hướng đầu tư mạnh mẽ về vàng.

Việt Nam phải nhập khẩu 90% nhu cầu vàng cho thị trường tiêu thụ trong
nước, nên mọi biến động về giá vàng, tỷ giá, lãi suất của các đồng tiền chủ đạo đều
gây ra những biến động tức thời đến thị trường. Trong điều kiện hoạt động đầu tư
vào vàng của người dân Việt Nam đang rầm rộ, giá vàng thì liên tục có những biến
động mạnh và rất khó dự báo thì những sản phẩm phái sinh chắc chắn sẽ đáp ứng
được nhu cầu của nhiều người và các thành phần kinh tế có giao dịch vàng trong
kinh doanh. Các công cụ phái sinh nhằm bảo hiểm rủi ro về giá cả hàng hoá như
hợp đồng kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai…đã có từ rất lâu và trở nên phổ
biến ở các nước tiên tiến nhưng lại khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam. Việc
nghiên cứu để ứng dụng các công cụ tài chính phái sinh cho vàng trong giai đoạn
giá vàng biến động mạnh mẽ hiện nay là một đề tài được rất nhiều người quan tâm.
2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Mục tiêu: Từ tình hình biến động mạnh mẽ của giá vàng, các sản phẩm
phái sinh đã thực sự trở nên cần thiết. Áp dụng công cụ phái sinh chính là một xu
hướng phù hợp để giúp nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro và phát triển thị trường vàng.
- Đối tượng: Những sản phẩm phái sinh như quyền chọn vàng, magrin vàng,
kỳ hạn… chính là những công cụ cần được nghiên cứu để có thể áp dụng và phát
triển thị trường như các thi trường vàng phát triển trên thế giới.
[3]

- Phạm vi nghiên cứu: Dựa vào tình hình biến động của giá vàng trên thực
tế, và việc sử dụng các công cụ phái sinh ở Việt Nam mà cụ thể là sản phẩm phái
sinh như option, future, margin từ đó đưa ra những khiếm khuyết cần được khắc
phục và thông qua đó xây dựng những phương pháp sao cho phù hợp với tình hình
thực tế để phát triển thị trường vàng Việt Nam.
3. Kết cấu đề tài:
Đề tài gồm 3 chương:
- Chương I: phân tích tình hình biến động của thị trường vàng trên thế giới
và ở Việt Nam trong thời gian qua, những nhân tố ảnh hưởng giá vàng, xu hướng
biến động cũng như những ảnh hưởng của giá vàng lên các cơ hội kinh doanh.
- Chương II: Thị trường các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam.
- Chương III: Áp dụng công cụ phái sinh trong kinh doanh vàng, thức trạng
hoạt động của sàn giao dịch vàng, và quyền chọn vàng… những giải pháp cơ bản để
phát triển thị trường vàng trong thời gian tới.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn: Đề tài nghiên cứu mang tính lý luận đóng
góp kiến thức về xu hướng sử dụng công cụ phòng ngừa đã được hình thành và phát
triển trên thế giới. Từ đó, nhận thức đúng đắn mà hướng đến những giải pháp xây
dựng và phát triển thị trường vàng Việt Nam.
5. Hướng phát triển của đề tài: Đề tài nghiên cứu còn bỏ ngỏ ở giải pháp xây
dựng và phát triển thị trường vàng với ứng dụng đầy đủ các công cụ phái sinh bằng
việc nghiên cứu định lượng thực tế, để ứng dụng các mô hình áp dụng từng loại
công cụ phái sinh phù hơn. Cũng như cách thức và qui trình xây dựng một sàn vàng

thống nhất có đầy đủ các công cụ phòng ngừa cho nhà đâu tư Việt Nam.








[4]

CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG VÀNG TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.

1. Tình hình biến động giá vàng :
1.1 Tình hình biến động giá vàng trên thế giới:


Trong lịch sử, giá vàng thế giới lên đến đỉnh điểm vào ngày 21 tháng 1 năm
1982 với mức giá 875 USD/ounce. Nguyên nhân của việc giá vàng leo thang bắt
đầu từ việc kinh tế Mỹ bị suy giảm, lạm phát gia tăng, nhất là sau khi bị sa lầy trong
cuộc chiến tranh Việt Nam (1960 – 1975), Mỹ buộc phải bán vàng với khối lượng
lớn trị giá khoảng 3,5 tỷ USD. Động thái đó không những khiến cho kho vàng của
Mỹ bị giảm mạnh mà còn làm cho đồng USD buộc phải thả nổi sau quyết định ngày
15 tháng 8 năm 1971, Mỹ đã đơn phương vô hiệu hoá thoả thuận Bretton Woods .
Và ngày 18 tháng 12 năm 1973, Mỹ lại phải tuyên bố phá giá đồng USD ở mức
10% - đánh dấu thời kỳ lạm phát tràn lan khắp toàn cầu và mở đầu một giai đoạn
giá vàng bắt đầu tăng ngày một cao, từ 233,2 USD/ounce năm 1972 lên đến 875
USD/ounce vào thời điểm ngày 21 tháng 1 năm 1981. (1).


Biểu đồ 1: Giá vàng thế giới giai đoạn 1971 – 2008
[5]

Giá vàng giảm mạnh nhất vào giai đoạn 1989 – 1999, khi chuẩn bị thành lập
khối đồng tiền chung Châu Âu. Tổng lượng vàng dự trữ bán ra trong thời kỳ này
khoảng 3,5 ngàn tấn. Điều đó đã khiến giá vàng giảm mạnh, và đến ngày 1 tháng 7
năm 1999 giá vàng tụt xuống còn 252,8 USD/ounce, rồi giảm xuống mức thấp nhất
mọi thời đại là 251,7 USD/ounce. Đây là mức giá vàng thấp nhất trong vòng hơn 20
năm qua, do nổi lo của Ngân Hàng Trung Ương giảm dự trữ vàng và các công ty
khai khoáng bán vàng trong các thị trường kỳ hạn để ngăn cản việc giá vàng giảm.
Trước tình hình đó, ngày 26 tháng 9 năm 1999, thoả thuận Châu Âu về vàng đã ra
đời. Theo thoả thuận này, các nước cam kết trong vòng năm năm sẽ không bán vàng
dự trữ quốc gia nhằm ngăn chặn giá vàng tụt dốc, tổng lượng vàng bán ra cũng
không được vượt quá 400 tấn. Tình hình thị trường xoay chuyển theo hướng tích
cực hơn, vàng có xu hướng hồi phục trở lại. Từ đầu tháng 10 năm 1999 đã vượt qua
mức 300 USD/ounce và tăng lên mức 338 USD/ounce trong vòng 2 năm sau khi
Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu nhất trí hạn chế bán vàng.
Tháng 2 năm 2003, giá vàng chạm mức cao nhất trong vòng bốn năm rưỡi do việc
mua vàng tích trữ gia tăng do Mỹ xung đột với Iraq.
Và lần đầu tiên vào tháng 12 năm 2003 giá vàng đã phá vỡ mức 400USD/ounce và
đạt những mức giá đã có vào năm 1988.
Từ đầu năm 2004, theo nhận định của phần lớn các nhà phân tích và các
chuyên gia kinh tế hàng đầu thế giới, xu hướng USD sụt giảm giá trị so với các
ngoại tệ khác, đồng thời giá vàng tiếp tục tăng cao trong thời gian tới. Điều này thể
hiện rõ vào những phiên giao dịch đầu tiên của năm 2004, trong lúc USD tiếp tục
sụt giảm giá trị so với EUR và Yen Nhật thì giá vàng đã tăng đến 424 USD/ounce
vào hôm 5/1 - mức cao nhất trong vòng 13 năm qua Vào ngày 08/03, 15 Ngân hàng
Trung ương của các nước Châu này ngay lập tức đã làm giá vàng thế giới tăng
403USD/ounce.Theo thoả ước mới, trong vòng 5 năm từ 27/09/2004, lượng vàng
bán ra của các Ngân hàng Trung Ương Âu đã đạt được thoả ước tiếp tục kiềm chế

lượng vàng bán ra mỗi năm.Thoả thuận Châu Âu không quá 500 tấn mỗi năm mà
các ngân hàng đã kí kết trong thoả ước Washington năm 1999(sẽ hết hiệu lực vào
[6]

tháng 09/2004). Tiếp theo sau đó bạo động ở Trung Đông, đồng đôla rớt nhẹ khiến
thị trường kim loại quí thế giới ngày một nóng bỏng.Sáng ngày 24/03, vàng tại New
York leo tới 421USD/ounce cao nhất trong vòng gần 3 tháng kể từ đầu năm 2004.
Vào thời điểm này giá vàng thế giới chỉ thấp hơn 5,5 USD/ounce so với mức đỉnh
đạt được vào ngày 13/01/2004 và đã cao hơn 15 USD/ounce so với tuần trước đó.
Vào những tháng cuối năm 2004, những số liệu không khả quan của nền kinh tế
Mỹ, sự sụt giảm lòng tin của các nhà đầu tư đối với đồng đôla khiến giá kim loại
quí vượt mức cao nhất trong vòng 16 năm trở lại đây-gần 450USD/ounce. Trong
phiên giao dịch đêm ngày 23/11, 1 ounce vàng tại thị trường New York đã ở mức
449,9 USD. Như vậy tính từ đầu tháng 10 đến cuối tháng 11, giá vàng thế giới đã
tăng tới 7% do đồng đôla liên tục mất giá so với các ngoại tệ mạnh khác. Tháng
12/2004 hãng Reuters cho biết, giá vàng giao tháng 12 trên thị trường New York đã
giảm tới gần 7USD/ounce còn 450,4 USD/ounce.
Năm 2005, theo thông tin được đưa ra của Bộ Lao Động Hoa Kì ngày 07/04
số việc làm mới được tạo ra trong tháng 4 của cao hơn dự đoán đã nâng giá trị đồng
USD lên so với các ngoại tệ mạnh khác trên thế giới,giá vàng vì thế giảm mạnh,chỉ
còn 424USD/ounce.Thế nhưng đến 23/09 giá vàng thế giới đã lên mức kỉ lục mới là
473,5 USD/ounce,buộc các nhà phân tích thị trường dự đoán ngưỡng tiếp theo của
giá vàng sẽ là 480 USD/ounce.Giá vàng tăng mạnh mặc so trước đó Quỹ Dự trữ
Liên Bang Hoa Kỳ (FED) trong cuộc họp ngày 21/09 đã quyết định tăng lãi suất
3,75%(tăng 0,25%).
Năm 2006, có rất nhiều biến động lớn trên thị trường vàng. Ngày 3 tháng 5,
giá vàng thế giới đã tăng lên mức mới 675 USD/ounce, do được sự hậu thuẫn mạnh
mẽ từ sự kiện hạt nhân của Iran, và đồng USD mất giá. Tuy nhiên, thị trường vàng
cho thấy giá tăng chủ yếu là do hoạt động đầu cơ. Ngày 12 tháng 5, sau khi đạt mức
kỉ lục 732 USD/ounce, giá vàng bắt đầu giai đoạn giảm giá có lúc đã giảm đến 540

USD/ounce. Đến ngày 04/10 giá vàng thế giới đã đột ngột “rớt giá” mạnh, trong
vòng ngày 03/10 ở mức giảm hơn 13 USD. Chỉ trong 2 ngày đầu của tháng 10, giá
vàng quốc tế giảm hơn 20 USD từ mức xấp xỉ 605 USD/ounce xuống gần mức 580
[7]

USD/ounce. Những ngày cuối năm 2006, giá vàng thế giới liên tục tăng mạnh lên
mức 650 USD/ounce, do nhu cầu tiêu thụ vàng trong mùa lễ hội cuối năm cao và
những thông tin kinh tế Mỹ được công bố không mấy khả quan, đồng USD giảm
giá mạnh mẽ khi thị trường bán tháo đồng USD.
Biểu đồ biến động giá vàng thế giới trong 5 năm, từ năm 2003 đến năm 2008,
đường biểu diễn giá vàng cho thấy một sự gia tăng liên tục và tăng mạnh mẽ kể từ
năm 2006 đến nay thể hiện qua độ dốc và những điểm đột biến của đồ thị đường
biểu diễn biến động giá vàng trên thế giới.


Biểu đồ giá vàng thế giới trong 5 năm từ 2003 đến 2008 từ nguồn
www.kitco.com.

Thị trường vàng thế giới trong những tháng đầu năm 2007 vẫn đang tiếp tục
thể hiện sự biến động mạnh như trong năm 2005 và năm 2006. Quí thứ nhất, giá
vàng thế giới gần như đã diễn biến đúng theo dự đoán của các ngân hàng cũng như
các quĩ đầu tư lớn trên thế giới, và đã kết thúc quí này ở mức 668 USD/ounce, tăng
5% so với thời điểm đầu năm. Sự suy giảm của thị trường chứng khoán thế giới vào
cuối tháng 2 đã gây ra một sự giảm giá nghiêm trọng (hơn 9 %) của giá vàng.
Nhưng ngày 7/9 giá vàng đã có những bước phục hồi mạnh mẽ vượt ngưỡng 700
USD/ounce mức cao nhất kể từ tháng 6 năm 2007, do thị trường chứng khoán được
[8]

phục hồi và sự suy yếu của đồng USD. Bên cạnh đó, tình hình tại Trung Đông (giữa
Syria và Israel) trở nên căng thẳng đã đẩy giá dầu tăng cao và nhu cầu tiêu thụ vàng

đang tăng mạnh cho mùa lễ hội và mùa cưới ở Châu Á và Trung Đông, điển hình là
Ấn Độ. Cuối tháng 9, giá vàng thế giới tiếp tục leo thang mạnh mẽ, mức cao nhất
trong vòng 28 năm qua và được giao dịch trên mức 735 USD/ounce vượt đỉnh cao
mà giá vàng đã thiết lập được vào giữa tháng 5 năm 2006. Đầu tháng 11/2007, ngay
sau khi quyết định cắt giảm lãi suất USD được Cục dự trữ Liên Bang Mỹ (FED)
được đưa ra vào ngày 31/10, đồng USD đã tiếp tục giảm mạnh khiến giá vàng vượt
ngưỡng 800 USD/ounce. Những ngày cuối năm, thị trường này lại leo dốc và có lúc
giá đã vượt 840 USD/ounce khi đồng đôla sụt giá mạnh. Kết thúc năm 2007, mức
giá đóng cửa London đạt 836 USD/ounce.
Chỉ trong vòng hai năm 2006 và 2007, giá vàng thế giới liên tục tăng cao,
khoảng 61%, với mức tăng bình quân năm là 27% và bình quân tháng hơn 2%. Đây
là mức tăng rất cao so với mức tăng khoảng 13%/năm của giai đoạn 2000-2006.

Đầu năm 2008,

giá vàng thực hiện một cú đại nhãy vọt lên ngưỡng 880
USD/ounce vào ngày 8/1, phá vỡ mức giá kỷ lục 873 USD/ounce đã đạt được vào
năm 1980. Sự tăng giá của dầu và các mặt hàng khác cũng là nguyên nhân đẩy giá
vàng lên, đồng USD trượt mạnh sau khi phó chủ tịch FED ông Donald Kohn ám chỉ
sẽ chú trọng vào việc giảm nguy cơ trong tăng trưởng, mặc cho tình hình lạm phát
gần đây có xu hướng tăng cao. Giữa tháng 3 giá vàng thế giới tiếp tục tăng và đạt
mốc kỉ lục mới 1007,1 USD/ounce. Nguyên nhân khiến giá vàng tiếp tục lên cao
được lí giải bằng việc các ngân hàng đầu tư của Mỹ đang rung động và lo lắng khi
một ngân hàng đại gia trên thị trường tài chính như Bear Streams.Co.Inc đang đứng
trước nguy cơ vỡ nợ và tình hình suy thoái đồng USD tiếp tục mất giá kỉ lục.

Chỉ trong hơn hai tháng đầu năm 2008 có mức tăng đột biến từ mức 833.3
USD/ounce lên đến 989,4 USD/ounce vào ngày 19/3/08 tương đương gần 19%.
Như vậy, bình quân tháng tăng gần 6% cao hơn nhiều so với mức 2% của giai đoạn
2006 - 2007. Đáng lưu ý là vào ngày 17 tháng 3 giá vàng đã có lúc đột biến lên đến

1032 USD/ounce.
[9]

2 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động giá vàng: (2)
2.1 Tình hình kinh tế và thị trường tài chính ngày càng xấu đi:
Năm 2007, với rất nhiều sự kiện kinh tế và những biến động không ngờ của thị
trường tài chính thế giới. Nền kinh tế toàn cầu đạt tốc độ tăng trưởng 5,2% giảm
0,2% so với năm 2006, với các nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều nước đang
phát triển vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nhìn chung nền kinh tế
thế giới gặp nhiều khó khăn và dự báo sẽ giảm còn 4,8% năm 2008. Nợ xấu tăng
mạnh, đặc biệt đối với hoạt động cho vay mua nhà trả chậm, một loạt ngân hàng lớn
ở Mỹ bị thua lỗ và gặp khó khăn về thanh khoản, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất
trong vòng 4 năm qua, lòng tin của người tiêu dùng tăng mạnh, ảnh hưởng xấu đến
doanh thu bán lẻ. Những diễn biến bên trong nền kinh tế Mỹ đã đẩy đồng USD
xuống thấp kỉ lục so với nhiều ngoại tệ khác, thậm chí so với một số đồng tiền của
các nước phát triển Châu Á, thổi phồng bong bóng tăng giá dầu, ảnh hưởng xấu tới
hầu hết các nền kinh tế thế giới do các mối liên hệ về thương mại tài chính rõ rệt
nhất là các nền kinh tế Châu Âu.

2.2 Đồng USD suy yếu:
Năm 2007 thực sự là năm mà các nhà đầu tư USD phải đối mặt với những cú
sốc dữ dội. Đồng USD tiếp tục giảm giá từ đầu năm 2007, thế nhưng ngày 7/11,
USD lao xuống vạch 1 Euro bằng 1,4967 USD mức thấp nhất kể từ khi đồng Euro
được đưa vào sử dụng năm 1999. Trong năm 2007, đồng USD đã bị mất giá 10% so
với EUR. Điều này không phải là mới vì trong 5 năm qua đồng USD đã giảm giá
25%. Một trong những nguyên nhân khiến cho đồng USD liên tục mất giá là do Mỹ
liên tục cắt giảm lãi suất. Lần thứ nhất, vào ngày 18/9, FED cắt giảm lãi suất đồng
“bạc xanh”từ mức 5,25% xuống còn 4,75%. Lần thứ hai, vào ngày 31/10, lãi suất
USD được FED hạ xuống còn 4,5%. Lần thứ ba, trước sức ép nền kinh tế Mỹ có
khả năng rơi vào suy thoái, trong phiên họp ngày 11 tháng 12 năm 2007 vừa rồi,

FED đã quyết định cắt giảm lãi suất chủ đạo từ mức 4,5% xuống 4,25% đây là lần
[10]

cắt giảm thứ 3 liên tiếp trong năm nay nhằm hỗ trợ cho nền kinh tế Mỹ trải qua thời
kỳ khủng hoảng bắt đầu từ tháng 08/2007.
Nếu đồng đôla tiếp tục mất giá thì giá vàng còn có cơ hội chực chờ bùng nổ kỷ
lục của giá vàng trong lịch sử là 850 USD/ounce được thiếp lập vào năm 1980 do
nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng năng lượng và áp lực lạm phát như đám
mây che phủ bầu trời kinh tế toàn cầu.

2.3 Các ngân hàng trung ương chuyển hoá kho dự trữ ngoại hối:
Trước sự giảm giá được dự báo trước của đồng USD thì việc nắm giữ nhiều
đồng tiền này trong kho dự trữ ngoại hối sẽ là một rủi ro lớn. Trong bối cảnh thị
truờng như hiện nay thì vàng đang là một trong những sự lựa chọn hàng đầu khi các
Ngân hàng Trung Ương tiến hành giảm tỷ trọng nắm giữ đồng USD và tài sản bằng
đồng USD. Kế hoạch chuyển hoá tài sản của Ngân hàng Trung Ương Trung Quốc
đang rất được thị trường đặc biệt quan tâm. Tổ chức này đang sở hữu kho dự trữ
ngoại hối lớn nhất thế giới hơn 1400 tỉ USD. Theo chủ tịch Ngân hàng Trung Ương
Trung Quốc thì tổ chức này đang xem xét khả năng sẽ gia tăng lượng vàng trong
kho dự trữ lên mức 3% - 5% từ 1% hiện tại, mức tăng này tương đương sản lượng
vàng thế giới một năm, khoảng 2600 tấn. Các Ngân Hàng Trung Ương tại khu vực
Trung Đông cũng đang xem xét đến khả năng chuyển hoá này và giá vàng thế giới
được nhận định là có nhiều nhân tố hỗ trợ.

2.4 Nhà đầu tư tổ chức vẫn đang đầu cơ vàng:
Nhu cầu vàng đầu tư còn tăng mạnh:quan điểm dùng vàng để đảm bảo giá trị
tài sản và sinh lợi đã trở nên nổi trội hiện nay là: “ Vàng còn hơn cả tiền”, “ Hãy
bán mọi thứ trừ vàng”.Các nhà đầu tư đang có khuynh hướng chuyển tiền đầu tư từ
các loại ngoại tệ mạnh sang đầu tư tập trung vào vàng để hưởng siêu lợi nhuận.Như
vậy,các quỹ đầu tư (hedge funds)và giao dịch vàng (exchange- trade gold funds-

EFTs) sẽ tiếp tục thao túng thị trường vàng.

[11]

2.5 Vàng dầu “chạy” cùng chiều:
Mối tương quan cùng chiều giữa vàng và dầu vẫn đang tiếp diễn như nhiều
năm trước. Theo số liệu trong quá khứ, tỷ số dầu/vàng thường xoay quanh mức
15:1, nghĩa là 15 thùng dầu bằng giá của một ounce vàng. Hiện tại, tỷ số này chỉ là
10:1, do giá dầu tăng quá nhanh. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ ( OPEC) đã
quyết định cắt giảm sản lượng 1,2 triệu thùng/ngày vào đầu tháng 02/2007, đưa
tổng sản lượng cung ứng ra thị trường của tổ chức này giảm xuống mức 25,9 triệu
thùng/ngày, nhằm ngăn lại đà giảm mạnh của giá dầu. Ngoài ra, cuộc khủng hoảng
hạt nhân của Iran, xung đột vũ trang tại Nigeria và sự ngưng trệ của một số khu vực
sản xuất dầu lớn trên thế giới gây lo ngại cho khả năng leo thang gia dầu. Giá dầu
tăng sẽ làm gia tăng chi phí sản xuất đầu vào và qua đó là gia tăng giá cả hàng hoá
tiêu dùng, trong khi vàng lại được xem là tài sản đầu tư an toàn khi các nền kinh tế
đối mặt với rủi ro lạm phát.

2.6 Kinh tế bất ổn, lạm phát tăng cao:
Sự giảm tốc mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ (1,9% so với 2,9% năm 2006) là
nhân tố chính làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2007. Suy thoái
của thị trường nhà đất Mỹ và những rối loạn trên thị trường tài chính đã kìm hãm
tổng cầu nội địa. Theo OEDC, năm 2007, tổng cầu nội địa Mỹ chỉ tăng 1,6%, đầu tư
vốn cố định tại Mỹ giảm 2,1%. Tăng trưởng trong khu vực đồng Euro và Nhật Bản
cũng chậm lại, song mức giảm nhẹ hơn so với Mỹ. Nhiều người đang so sánh tình
hình kinh tế hiện nay với việc suy thoái toàn cầu năm 1987. Các chuyển gia kinh tế
nhận định rằng, những gì hiện tại đối với cuộc khủng hoảng tín dụng cũng không
khác gì giai đoạn sụp đổ chứng khoán năm 1987, thậm chí tình hình hiện nay của
Mỹ còn tệ hơn giai đoạn đó khi các số liệu bảng lương, việc làm và sản lượng công
nghiệp đầu giảm sút. Nhiều nhà phân tích cho rằng, FED còn cắt giảm thêm 2% lãi

suất nữa trong vòng 12 tháng năm 2008 để cứu nền kinh tế còn Ngân hàng Trung
Ương Châu Âu và Anh cũng khó tránh bài toán tương tự.

[12]

2.7 Yếu tố kĩ thuật ủng hộ:



Quan sát đồ thị giá vàng theo tuần, áp dụng phân tích về đường trung bình di
động lẫn sóng Elliott, chúng ta có thể nhận ra giá vàng vào cuối tháng 10-2007 đã
bắt đầu một giai đoạn tăng giá trung hạn mạnh khi đường bình quân di động ngắn
hạn đã cắt đường bình quân di động dài hạn theo chiều hướng lên, mở ra một chu kì
tăng giá trung hạn, tương tự với bước sóng 3 theo chiều tăng phân tích sóng Elliott.
Bỏ qua các vấn đề kĩ thuật phức tạp trong phân tích này, có thể kết luận rằng việc
giá vàng tăng cao trong 2 tháng đầu năm 2008 được hỗ trợ mạnh bởi những yếu tố
tâm lí và kĩ thuật của thị trường xuất hiện từ cuối năm 2007.

2.8 Dự báo:
Theo phân tích kĩ thuật, trong ngắn hạn, giá vàng sẽ bắt đầu giai đoạn điều
chỉnh giảm ngắn hạn theo sóng 4 của phân tích sóng Elliott trước khi tăng trở lại
(nhiều nhà đầu cơ quốc tế có thể bán kiếm lời ở mức xung quanh 950USD). Khả
năng giá vàng quốc tế quay lại dưới 890USD là không thấp, và chính những mức
càn quá khứ xung quanh 890 và 850 sẽ là mức giá hấp dẫn để nhà đầu cơ trên thị
[13]

trường mua vào. Đây cũng là mức giá gợi ý tốt cho nhà đầu tư trong nước thực hiện
chiến lược kinh doanh của mình.
Về dài hạn, theo dự đoán, tình hình kinh tế thế giới nhanh nhất chỉ có thể phục
hồi vào quí IV năm 2008. Chính vì vậy, khả năng vàng tiếp tục tăng giá trong trung

hạn là khá rõ ràng, tương ứng với phân tích là sau khi điều chỉnh giảm, giá vàng sẽ
quay lại phá vỡ đỉnh 950USD. Dự báo của một số nhà phần tích ở Anh là giá vàng
sẽ lên trên 1200 USD/ounce trong năm 2008 thì có lẽ hơi quá lạc quan.

3. Biến động giá vàng Việt Nam trong những tháng cuối năm 2007
đầu năm 2008 và so sánh với thế giới :
- Ngày 29/11/2007: giá vàng niêm yết trên thị trường thế giới liên tục biến
động, tuy nhiên mức dao động không nhiều so với một ngày trước đó đạt 806,7
USD/ounce. Ảnh hưởng từ thị trường thế giới, giá vàng niêm yết tại công ty vàng
bạc đá quí Sài Gòn (SJC) liên tục nhảy múa với hàng chục lần điều chỉnh. Đến cuối
ngày, vàng SJC niêm yết ở mức 1,557 - 1,567 triệu đồng/chỉ (mua-bán). So với một
ngày trước đó vàng tăng hơn 50.000 đồng/chỉ, nhưng lại giảm ở mức xấp xỉ 50.000
đồng/chỉ so với hai ngày hôm trước. Trong thời gian này, suy đoán cho rằng nhiều
khả năng Cục dự trữ Liên Bang Mỹ (FED) cắt giảm lãi suất cơ bản của đồng USD
sau 2 lần thực hiện mới đây, và 2 hiện giá dầu đang hạ nhiệt, khả năng OPEC tăng
sản lượng và nhu cầu suy giảm từ nền kinh tế Mỹ tiêu thụ nhiều năng lượng nhất,
đây chính là yếu tố tác động tiêu cực đến giá vàng.
- Ngày 29/12/2007: Giá vàng thế giới bất ngờ tăng lên 828,5 USD/ounce trong
mua nghỉ lễ, giá vàng trong nước theo niêm yết của công ty SJC là 1.593.000
đồng/chỉ, trong khi đó, giá tại các cửa hàng khu vực chợ Bến Thành lại lên đến
1.601.000 đồng/chỉ. Theo Hội đồng vàng thế giới, mức nhập khẩu vàng của Việt
Nam thấp nhất trong 3 năm qua. Những nguyên nhân chủ yếu khiến vàng tăng lên
trong thời điểm này là giá USD trong ngày giảm nhẹ so với EUR và các ngoại tệ
mạnh khác, khả năng phục hồi kinh tế Mỹ được đánh giá là chậm chạp, số khai báo
[14]

thất nghiệp tăng, giá dầu đang tăng do nhu cầu tiêu thụ năng lượng trong mùa đông
và do tình hình chính trị giữa Thổ Nhĩ Kì và Iran căng thẳng, thêm vào đó, những
biến động chính trị tại Pakistan khiến các nhà đầu tư lo ngại. Mặc dù thị trường
đang mùa nghỉ lễ, nhưng một số quỹ đầu tư Anh, Nhật, Mỹ đã mua vàng vào với kì

vọng sau Tết dương lịch giá vàng sẽ biến động cao hơn.
- Ngày 03/01/2008: Giá vàng thế giới có lúc lên đến 861 USD/ounce trong
đêm 02/01 và dao động xung quanh mức 856 USD/ounce trong ngày 03/01. Giá
vàng trong nước thấp hơn giá thế giới khoảng 15000 đồng/chỉ. Tiêu thụ vàng miếng
trong nước rất chậm, lượng khách đi mua vàng miếng tại khu vực chợ Bến Thành
và tại trung tâm kim hoàn Sài Gòn giảm mạnh và mức tiêu thụ cũng rất thấp. Theo
phòng kinh doanh công ty vàng bạc đá quí Sài Gòn (SJC), cả cung lẫn cầu vàng
miếng trong ngày 03/01 đều giảm khoảng 20-30% so với bình thường. Mặc dù giá
vàng trong nước đã tăng lên đến 1.645.000 đồng/chỉ, cao hơn gần 30.000 đồng/chỉ
so với hôm trước và là mức cao nhất từ trước đến nay nhưng vẫn thấp hơn 15000
đồng/chỉ so với giá thế giới. Giá vàng cao nhất trong năm ngoái, vào tháng 11, cũng
chỉ chạm mức 1.640.000 đồng/chỉ. Vào thời điểm này, vàng được giới đầu tư nước
ngoài xem là tài sản an toàn nhất để phòng ngừa rủi ro. Ngay trong đêm 02/01, giá
vàng thế giới có lúc đã lên đến 861,8 USD/ounce, qua ngày 03/01 dao động xung
quanh mức 856 USD/ounce. Đây cũng là mức giá cao nhất kể từ 1980 trở lại đây.
Theo đánh giá của các nhà chuyên môn, trong tình hình kinh tế thế giới đầy bất ổn,
vị thế của vàng sẽ còn tiếp tục được củng cố.
- Ngày 10/01/2008: Giá vàng thế giới đã phá kỹ lục năm 1980 và đạt mức cao
nhất trong lịch sử. Giao dịch mua bán vàng và nữ trang thị trường trong nước cũng
cực kì sôi động trong ngày 9 tháng 1. Giá vàng thế giới biến động đến mức chóng
mặt. Theo bảng giá trực tuyến của trang kitco.com, đêm 08/01, giá vàng có lúc đã
tăng lên 887 USD/ounce đến chiều tiếp tục vượt lên 892 USD/ounce. Những biểu
hiện xấu trong nền kinh tế Mĩ gợi lên một nỗi lo sợ về sự suy thoái, các lĩnh vực
tiêu dùng cá nhân, thị trường nhà đất, thị trường chứng khoán, cho vay thứ cấp, đều
có những biểu hiện trì trệ. Chỉ số chứng khoán quan trọng đồng loạt giảm giá mạnh,
[15]

USD vẫn suy yếu so với các đồng tiền khác. Trong khi đó, giá dầu vẫn đang đứng
vững ở mức cao, các nhà đầu tư đang cơ cấu lại danh mục đầu tư, trong khi vàng và
dầu đang là ưu tiên hàng đầu được mua vào. Ở thị trường trong nước, giá vàng đã

tăng lên 1.720.000 đồng/chỉ trong sáng ngày 09/01, sau đó giảm xuống còn
1.710.000 đồng/chỉ. Trong những đợt biến động giá trước đây, thị trường trở nên
buồn tẻ do các giao dịch giảm sút. Nhưng trong ngày 09/01 thị trường vàng trở nên
sôi động hẳn do khối lượng mua và bán tại các cửa hàng đều tăng mạnh. Theo
phòng kinh doanh vàng công ty SJC, khối lượng giao dịch trong những ngày cũng
tăng rất cao, trên 20.000 lượng của những ngày trước, điều này cho thấy có nhiều
nhà đầu tư tranh thủ bán ra kiếm lãi, nhưng mặt khác vẫn có nhiều người tin rằng
giá vàng sẽ còn vượt cao hơn nên mới dám mua vào. Trên sàn giao dịch vàng Sài
Gòn, khối lượng giao dịch trong ngày 08/01 lên đến 58.000 lượng, gần gấp đôi so
với ngày hôm trước và cũng là kỉ lục cao nhất từ trước đến nay. Thế nhưng, trong
ngày 09/01 khối lượng giao dịch lại tiếp tục tăng vọt lên đến một con số khó thể
tưởng tượng 89.250 lượng, tổng giá trị giao dịch 1.523 tỉ đồng.
- Ngày 23/01/2008: Theo bảng trực tuyến của trang kitco.com thì đến chiều
22/01, giá vàng thị trường thế giới giảm còn 852,6 USD/ounce, thấp hơn đến 29,3
USD/ounce so với ngày hôm trước, đây cũng là mức giá thấp nhất trong 2 tuần qua.
Trên thị trường, các nhà đầu tư đã bán vàng ra để chốt lãi trước những dấu hiệu cho
thấy USD đang tăng giá so với các đồng tiền khác, thêm vào đó, giá dầu cũng giảm
mạnh, còn theo phân tích của nhóm tư vấn tiền tệ Eximbank, hành động bán vàng
của các nhà đầu tư còn vì mục đích trang trải các khoản kí quĩ đến hạn.USD phục
hồi do các quan chức Mỹ đã cam kết sẽ có những giải pháp giúp nền kinh tế tăng
trưởng, mặc dù vậy,nền kinh tế Mỹ trên thực tế vẫn đang kề cận với nguy cơ suy
thoái. Trong hoàn cảnh đó, vàng vẫn được xem là tài sản phòng phòng chống rủi ro
và lạm phát. Vì vậy, giá vàng sẽ không giảm sâu trong thời gian tới, giá vàng trong
nước do công ty SJC công bố đã giảm xuống còn 1.680.000 đồng/chỉ. Thị trường
vàng miếng sôi động, khối lượng giao dịch trên sàn giao dịch vàng Sài Gòn trong
ngày 22/01 lên đến 138.700 lượng.
[16]

- Ngày 13/02/2008: Được hỗ trợ từ yếu tố cắt giảm lãi suất cơ bản đồng đôla
của Cục dự trữ Liên Bang Mỹ (FED) lần 2 kể từ năm 2008 xuống còn 3%/năm,

vàng liên tục đội giá trong những ngày đầu năm Mậu Tý. Giá vàng giao dịch trên
thị trường thế giới những ngày Tết Nguyên Đán luôn duy trì trên ngưỡng 920
USD/ounce và có lúc gần chạm ngưỡng 927 USD/ounce. Đáng chú ý, trong ngày
12/02 giá vàng đã có bước nhảy tương đối ấn tượng từ 920 USD/ounce lên trên 922
USD/ounce kéo theo giá vàng ở thị trường nội địa cũng được điều chỉnh tăng thêm
5000 đồng/chỉ so với 2 ngày trước đó. Có thể nói, chưa bao giờ sức nóng của thị
trường vàng lại lan toả mạnh như năm nay. Thị trường vàng được dự báo sẽ còn
tăng trưởng mạnh mẽ và là công cụ đầu tư hấp dẫn trong năm 2008, bên cạnh chứng
khoán và bất động sản. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành, cơ sở để
đưa ra nhận định về triển vọng tăng trưởng của giá vàng là nền kinh tế Mỹ vẫn
trong tình trạng suy thoái và nhiều khả năng FED cần phải hạ thấp lãi suất xuống
nữa, cùng với số lao động mất việc làm gia tăng kết hợp với những nhân tố có thể
khiến FED sẽ cắt giảm lãi suất trong lần họp tới thì USD sẽ phải đi theo xu hướng
bán ra hàng loạt và vàng sẽ được xem là công cụ dự trữ tốt nhất trong bối cảnh này.
- Ngày 18/02/2008: Giá vàng tăng nhanh nhưng lại giảm nhanh trong những
ngày đầu năm. Hiện thị trường vẫn đang bị “giằng co” bởi tác động của những
thông tin trái chiều. Đến ngày 17/02, giá vàng thế giới, theo bảng giá của kitco.com,
đã giảm xuống còn 901,7 USD/ounce. Như vậy, chỉ sau vài ngày tăng vọt lên đỉnh
điểm 924-925 USD/ounce, giá vàng lại nhanh chóng “tụt dốc”, có 2 thông tin quan
trọng tác động đến thị trường vàng làm cho giá giảm là mức tiêu thụ trên thị trường
Ấn Độ sụt giảm và IMF có kế hoạch bán ra một khối lượng lớn vàng dự trữ. Ở thị
trường trong nước,giá vàng của công ty SJC đã giảm xuống còn 1.755.000
đồng/chỉ. Theo nhóm tư vấn tiền tệ Eximbank, giá vàng tuy tạm thời giảm nhưng
vẫn được hỗ trợ rất tốt bởi những diễn biến thị trường tài chính và thị trường dầu
thô và vì vậy vẫn là tài sản được giới đầu tư quan tâm hàng đầu.
- Ngày 22/02/2008: Giá vàng liên tục lập những kỉ lục mới và tiến gần ngưỡng
950USD/ounce. Thị trường vàng miếng trong nước rất sôi động, theo nhận xét của
[17]

các chuyên gia, mức giá 1000 USD/ounce có thể đạt được trong thời gian không xa.

Sau khi lập kỉ lúc 940 USD/ounce vào sáng 21, đến chiều giá vàng tiếp tục “đột
phá” và tăng lên 948 USD/ounce, đây cũng chính là mức giá cao nhất trong lịch sử,
giá dầu đã phá kỉ lục cũ và tiến đến 101 USD/ounce, nền kinh tế Mỹ đang đối phó
với lạm phát và tăng trưởng chậm, FED đã phải hạ thấp mức dự báo tăng trưởng
kinh tế năm nay xuống còn 1,3% - 2% thay vì 1,8% - 2,8% như đã đưa ra từ tháng
11.2007, ngoài ra là nỗi lo lạm phát gia tăng sau khi Mỹ công bố chỉ số CPI là 0,4%
cao hơn mức dự báo 0,3%, cùng với biến động giá vàng thế giới, giá vàng trong
nước đã tăng lên 1.785.000 đồng/chỉ, mặc dù giá tăng rất cao, nhiều người bán ra
chốt lãi nhưng cầu vẫn lớn và thị trường vẫn rất sôi động. Trong ngày 21/02, khối
lượng mua bán trên sàn giao dịch vàng TPHCM lên đến 145000 lượng, tổng giá trị
trên 2595 tỉ đồng – con số cao nhất kể từ sau Tết đến nay.

4. Ảnh hưởng của sự biến động giá vàng lên cơ hội kinh doanh và nền
kinh tế xã hội:

- Đôi lúc, giá vàng trong nước tăng cao nhưng vẫn thấp hơn giá thế giới, nên
rất ít doanh nghiệp đứng ra nhập vàng về. Tâm lý này không chỉ ảnh hưởng tới
người dân mà các nhà kinh doanh cũng thấy sợ trước sự biến động của vàng. Ngoài
ra, ảnh hưởng không nhỏ đến các giao dịch lớn ra nước ngoài (về vấn đề sử dụng
phương tiện thanh toán Vàng hay USD). Làm cho nền kinh tế trong nước bị đình trệ
(do nhiều doanh ngiệp sử dụng phần lớn vốn của họ để đầu tư vào vàng, không mặn
mà đối với việc đầu tư mở rộng kinh doanh.
- Với mỗi ngày giá vàng dao động, một người có nhu cầu 100 lượng vàng thì
mức độ có thể lời hoặc thiệt hại hơn 10 triệu đồng. Chính vì vậy người dân luôn ở
trạng thái phân vân không biết có nên thực hiện giao dịch hay tiếp tục chờ đợi. Giá
vàng tăng cũng là nguyên nhân gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khi vay vàng từ
ngân hàng và không ít nhà đầu tư đã lao đao…
[18]

Tình hình biến động giá vàng tại Việt Nam diễn ra khá phức tạp và khó đoán.

Giá vàng đã tăng cao, tăng gần như liên tục và trong thời gian dài hiếm thấy đã gây
ra nhiều tác động:
Thứ nhất, đối với những người vay vàng đến kỳ hạn trả nợ thì gánh năng nợ
đã rất cao. Chỉ nguyên nhân giá vàng tăng, chưa kể lãi, thì giá vàng hiện đã lên cao
gấp nhiều lần so với các thời gian trước. Những tốc độ vàng tăng cao hơn nhiều so
với giá tiêu dùng, giá USD, lãi suất tiết kiệm trong thời gian tương ứng; hiếm có
mặt hàng nào, kênh đầu tư nào lại tăng liên tục, tăng với tốc độ cao, tăng trong thời
gian dài như vậy.
Một yếu tố quan trọng khác là chứng khoán và bất động sản đang có vấn đề.
Ngày 5 tháng 3, chỉ số giá chứng khoán trên sàn thành phố Hồ Chí Minh đã giảm
chỉ còn 583,45 điểm, trên sàn Hà Nội đã giảm chỉ còn 191.38 điểm, chỉ bằng một
nữa điểm đã đạt được trước đây. Cơn sốt nóng bất động sản ở các thành phố lớn
đang lan rộng ra các tỉnh đã bị chặn lại, đã giảm độ sốt nóng, thậm chí giá đã giảm
do người bán nhiều hơn người mua.
Bên cạnh đó, lãi suất tiết kiệm ở các Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần vừa
mới vọt lên mà nhiều người gọi là “siêu lãi suất” đã bị chặn ở mức 12%/năm.
Nhưng lãi suất tiết kiệm ở một số Ngân Hàng Thương Mại Nhà Nước đang ở mức
khá thấp nay bắt đầu vọt lên cũng vào khoảng 12% để giữ chân khách hàng.
Giá vàng tăng mạnh do USD giảm, dầu tăng, cầu về vàng tăng trong khi cung
về vàng lại giảm, giá USD tiếp tục giảm mạnh (ngày 4/3, 1 USD chỉ còn ăn Euro,
0.5050 Bảng Anh, 103.64 Yên Nhật…). Giá USD giảm do tiếp tục xuất hiện những
dấu hiện xấu hơn trong nền kinh tế Mỹ. Tăng trưởng kinh tế quý 4 năm 2007 chỉ có
0,6%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng từ 1,9 % năm 2006 lên 3,4% năm 2007 và có khả
năng cao hơn trong năm 2008.
Thứ hai, giá vàng cao góp phần kéo giá bất động sản xuống. Bởi vì, người có
tiền đầu tư cũng cân nhắc khi lựa chọn giữa hai kênh đầu tư (bất động sản và vàng),
đầu tư vào vàng không cần vốn lớn, việc mua bán dể dàng, tính thanh khoản cao,
không bị rủi ro về giấy tờ, so với bất động sản. Bất động sản khi mua bán ở nhiều
[19]


nơi vẫn còn tính và thanh toán bằng vàng, hoặc nếu không thanh toán bằng vàng thì
cũng thường so với giá vàng. Thị trường bất động sản có thời điểm đóng băng khi
giá vàng đột ngột tăng mạnh và gây ảnh hưởng trong việc thanh toán. Thị trường
bất động sản rúng động trước việc Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện siết chặt tiền tệ,
làm cho các Ngân Hàng Thương Mại “giật mình” khi đã vay dưới chuẩn (tỷ lệ rủi ro
được xác định lên đến 250%), nay đã trở tay không kịp, phải cắn răng vay với lãi
suất cao hơn nhiều so với mức bình thường và cao hơn cả mức lãi suất đã phóng tay
cho vay. Đó là bài học cho các ngân hàng nếu chạy theo tốc độ tăng trưởng dư nợ
tín dụng để vay mua vàng, nếu như giá vàng thế giới dảo chiều.
Thứ ba, giá vàng tăng là một trong những nguyên làm cho chỉ số chứng khoán
bị sụt giảm mạnh. Thị trường chứng khoán, ngoài những tác động khác, thì sự nóng
lên của giá vàng lại “bồi thêm”. Vào một thời điểm nhất định nào đó, nếu giới đầu
tư nghĩ rằng đầu tư vào vàng có lời hơn và ít rủi ro hơn đầu tư vào chứng khoán thì
họ sẽ ồ ạt bán chứng khoán ra để lấy tiền mặt đầu tư vào vàng. Việc bán ồ ạt các
loại chứng khoán ra cùng một lúc của giới đầu tư sẽ làm cho giá chứng khoán nói
chung giảm đi. Tuy nhiên, thường chỉ có những tay đầu cơ cơ hội mới đầu tư theo
kiểu đó. Và cách làm đó hàm chứa rất nhiều rủi ro, do chỉ dựa vào sự suy đoán về
diễn biến giá cả của thị trường vàng một cách thuần túy. Ở thị trường Việt Nam, do
tính chuyên nghiệp trong đầu tư chưa cao, nên một số nhà đầu cơ thực hiện theo
chiến lược trên.
Thứ tư, vàng là kênh đầu tư, nhưng là xét theo người đầu tư, song không trực
tiếp đầu tư cho sản xuất kinh doanh, nên không tạo ra giá trị gia tăng thêm để tính
vào tăng trưởng kinh tế, thậm chí còn bị chôn dưới dạng vàng bỏ ống. Trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát cao, để tránh mất giá tiền tệ, nhiều người tích trữ vàng
thay vì tích trữ tiền mặt.
Cần lưu ý, mỗi năm nước ta nhập khẩu khoảng trên dưới 60 tấn vàng, tính theo
giá bán tại hiện tại lên gần 30, nghìn tỷ đồng, hay trên 1, 9 tỷ USD.Một lượng vốn
lớn như vậy đang bỏ ống trong dân đã không được đưa ra để đầu tư trực tiếp cho
tăng trưởng kinh tế. Đối với đất nước, lượng vốn đỏ vào và chôn thị trường vàng thì
[20]


đồng nghĩa với đầu tư xã hội dàng cho đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh
giảm nghèo. Đó là chưa nói tới, nếu giá thị trường chứng khoán tăng trở lại thì vàng
sẽ được bán ra để có tiền quay trở lại thị trường chứng khoán. Một bài học là “mua
ở đỉnh, bán ở đáy” thì lổ là cái chắc. Những người vay vay vốn để mua vàng khi đó
lỗ trở thành lỗ “kép”.

5 Xu hướng biến động giá vàng năm 2008:
Giá vàng thế giới vùn vụt tăng từ cuối năm 2007, vượt 900 USD/ounce ngay ở
đầu năm 2008, kỷ lục cao lịch sử. Tiếp tục biến động thất thường, tính đến cuối
tháng 2, vàng đã đạt tới 973 USD/ounce và nhiều nhà phân tích dự báo giá vàng có
thể sẽ tăng lên 1000 USD/ounce trước những khó khăn của nền kinh tế Mỹ, nhu cầu
chưa từng có đối với việc sản xuất kim loại quí ở Trung Quốc, Ấn Độ, đồng USD
yếu, lạm phát gia tăng do giá dầu cao và những lo ngại về địa chính trị…
Giới đầu tư cho rằng có quá nhiều lý do để mua vàng vào, chứ hầu như chẳng
có nhân tố nào khuyến khích bán kim loại quí này cả. Vì vậy họ chuyển hướng sang
đầu tư mạnh vào vàng, nguồn dự trữ giá trị có truyền thống an toàn nhất, trong bối
cảnh có nhiều lo ngại về sự suy thoái kinh trế Mỹ, nền kinh tế Mỹ nền kinh tế lớn
nhất thế giới. Ngoài ra, việc đồng USD liên tục mất giá cũng hậu thuẫn giá vàng
tăng. Năm 2007, các quỹ đầu cơ vàng đã mua vào với số lượng cao nhất từ trước
đến nay, tăng 39% đạt mức 630 tấn.
Cục dữ trữ Liên Bang Mỹ đang tiếp tục chính sách cắt giảm lãi suất nhằm
ngăn chặn lạm phát. Điều này tác động làm giảm giá USD xuống mức thấp kỉ lục so
với nhiều loại tiền tệ, khiến cho các loại hàng hoá tính bằng đồng USD như vàng và
dầu mỏ, trở nên rẻ hơn đối với các khách hàng sử dụng các ngoại tệ mạnh khác nên
có tác dụng khuyến khích nhu cầu. Ngoài ra, việc ngân hàng Trung Ương các nước
tính toán,cơ cấu lại dự trữ, âm thầm mua vàng vào và bán đôla Mỹ ra đã tạo ra nhu
cầu lớn đẩy giá vàng tăng lên còn đôla Mỹ thì càng mất giá. Nhiều nhà phân tích
cho rằng cái đích sắp tới của giá vàng sẽ là 1000 USD/ounce.
[21]


Tuy nhiên, không phải mọi ý kiến đều hướng tới giá vàng tăng. Nhà phân tích
Robin Rhar tại UBS lại dóng lên hồi chuông cảnh tỉnh theo hướng khác. Ông Bhar
nói: “ Chúng tôi lo ngại nhiều hơn về triển vọng giảm giá mạnh toàn bộ các kim loại
quí chứ không phải xu hướng tăng giá trong giai đoạn ngắn hạn”. Thực tế giá vàng
tăng quá cao đã làm giảm nhu cầu ở Ấn Độ và Hiệp Hội vàng bạc Ấn Độ cho biết,
nhập khẩu vàng của nước này trong tài khoá 2007 ước tính giảm 20% do giá kim
loại quí này tăng mạnh. Trong năm 2006, Ấn Độ đã nhập khẩu khoảng 7/5 tấn vàng
và là nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới.
Trước đây, những dấu mốc giá vàng biến động mạnh là vào những năm 1970
thập kỉ đánh dấu sự suy thoái với 2 cú sốc dầu mỏ năm 1973 và 1979, lạm phát phi
mã và những lo ngại về triển vọng nền kinh tế Mỹ. Trong những năm gần đây, vàng
được hỗ trợ nhờ nhu cầu gia tăng trên khắp các thị trường hàng hoá trước sự phát
triển bùng nổ của nền kinh tế Trung Quốc, Ấn Độ. Cú huých thật sự xảy ra vào cuối
năm 2007 trước triển vọng tăng trưởng toàn cầu chậm lại, tình trạng thắt chặt tín
dụng trước sự sụp đổ của thị trường cho vay nhà đất dưới chuẩn của Mỹ và lạm
phát gia tăng làm dấy lên khả năng lạm phát đình đốn (tình trạng lạm phát tiền tệ
mà không có tăng nhu cầu và công ăn việc làm một cách tương ứng trong kinh
doanh) từng là mối lo ngại lớn nhất trong thập kỉ 1970. Và ngay từ khi sang năm
2008, giá vàng- kim loại quí còn được sử dụng cả trong ngành điện tử và nha khoa –
đã phá vỡ ngưỡng kỉ lục trong 28 năm qua là 850 USD/ounce bởi bất ổn chính trị ở
Pakistans vụ ám sát bà Benazir Bhutto đã thúc đẩy mối quan tâm mới đối với vàng.
Hiệp Hội Kinh doanh vàng Việt Nam đang chuẩn bị trình Chính Phủ chiến
lược phát triển thị trường vàng trong 5 năm tới. Lâu nay Chính Phủ đã có nhiều
Nghị định về quản lí hoạt động kinh doanh vàng nhưng chưa có một chiến lược phát
triển thị trường này trong tầm nhìn dài hạn, chưa có dịnh hướng rõ ràng mà chỉ chạy
theo thị trường.Căn cứ vào tình hình thế giới, Hiệp Hội sẽ định hướng cho người
dân và nhà đầu tư, kể cả các tổ chức kinh doanh, huy động vàng làm sao để tránh và
hạn chế thấp nhất rủi ro khi biến động giá vàng, đồng thời sẽ đưa ra nhận định dài
hạn cho họ để có định hướng về mua sắm và kinh doan

[22]

CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG CÁC CÔNG CỤ TÀI
CHÍNH PHÁI SINH Ở VIỆT NAM

1. Lý Thuyết Về Các Công Cụ Phái Sinh:
Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán
rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt
nguồn từ một số công cụ tài sản cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu,
chỉ số chứng khoán, lãi suất…Công cụ tài chính phái thường được sử dụng bao gồm
các hợp đồng kỳ hạn (forward), hợp đồng tương lai (future), quyền chọn (options),
hợp đồng hoán đổi (swaps). Các loại hợp đồng này được phát triển và giao dịch dựa
trên cơ sở phát triển và giao dịch các công cụ tài chính trên thị trường trái phiếu, thị
trường cổ phiếu, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, và cả thị trường hàng hoá
Những công cụ trên còn có thể kết hợp với nhau, với những khoản vay hoặc những
chứng khoán truyền thống để tạo nên các công cụ lai tạo
Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ phái sinh, những công
cụ mang tính chất hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định dựa trên một
hoặc một số công cụ tài sản khác. Các công cụ phái sinh như là các hợp đồng,
chúng được thoả thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ
thực hiện nghĩa vụ cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố
gắng mua với giá rẻ và người bán sẽ cố gắng bán với giá cao nhất. Các nghiệp vụ tài
chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng
của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả háng hoá, lãi suất, tỷ giá
trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi
vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xảy ra, các nghiệp vụ
tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là hợp đồng tài chính mà giá trị
của nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm).
Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển

[23]

rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai
trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như
vậy, là do sử dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên trên thị trường.
Trên thị trường có thể phân thành ba loại thành viên: người đầu tư, người đầu cơ,
người cơ lợi. Sử dụng nghiệp vụ tài chính phái sinh này đều mang lại lợi ích cho ba
loại thành viên này: người đầu tư phải đối diện với những rủi ro do biến động giá cả
các sản phẩm chính, họ phải sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ
rủi ro; đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của
sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt; đối với người cơ
lợi (thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sử dụng chênh lệch giá giữa
các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái
sinh để hưởng chênh lệch giá.

1.1 Hợp đồng kỳ hạn (forward contracts):
Là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất. Hợp đồng
kỳ hạn là hợp đồng giữa 2 bên. Người mua và người bán, để mua hoặc bán tài sản
vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Nếu vào ngày
đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá trong hợp đồng thì người sở hữu hợp đồng sẽ kiếm
được lợi nhuận; nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu một khoản lỗ. Bản
thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro:
Thứ 1: nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi
ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ được
đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy, hợp đồng kỳ hạn cung cấp một
cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo.
Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi
ro này có hai chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người
chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở.
Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn

của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc
[24]

trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên, bản thân những hợp đồng kỳ hạn có chứa
nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh.
1.2 Hợp đồng giao sau (future contracts):
Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào
một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Hợp đồng giao sau
tiến triển từ hợp đồng kỳ hạn nên có những điểm giống với hợp đồng kỳ hạn. Về
bản chất, chúng giống tính thanh khoản của hợp đồng kỳ hạn, nhưng đã khắc phục
được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn nhờ vào tính linh hoạt của nó, nên
thường được xem là cách tốt hơn để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh.
Điểm khác nhau căn bản của hợp đồng giao sau và hợp đồng kỳ hạn là:
1. Niêm yết trên sở giao dịch. Một giao dịch hợp đồng giao sau nói chung
được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành hợp
lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.
2. Xoá bỏ rủi ro tín dụng. Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau
cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người
được nhận hoặc là người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn
là thị trường giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này. Trong hợp đồng giao
sau được niêm yết trên Sở giao dịch, cả hai bên mua và bán đều không biết gì về đối
tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ hoạt động như một trung gian
trong tất cả các giao dịch. Nếu một trong hai bên không thực hiện được hợp đồng
thì vẫn không ảnh hưởng đến bên kia. Thứ nhất, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng
vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị
hợp đồng giao sau được thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp
đồng giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời
hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thế mà rủi ro trong thanh toán được giảm đi.
Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị trường, người
bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi là ký quỹ.

3. Tiêu chuẩn hoá. Hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng hoá
bất kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận chung
[25]

của hai bên mua, bán. Tuy nhiên, các hợp đồng giao sau niêm yết rên sở giao dịch
đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp ứng các
tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định trước.
4. Điều chỉnh việc đánh giá theo mức giá thị trường. Trong các hợp đồng kỳ
hạn, các khoản lỗ và lãi chỉ được trả khi hợp đống đến hạn. Với một hợp đồng giao
sau, bất kỳ món lợi nào cũng được ghi nhận hàng ngày. Nếu giá của hàng hoá cơ sở
biến động khác với giá đã thảo thuận (giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do
sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Thực tế, vì
không biết về đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền
cho công ty thanh toán bù trừ, công ty này sẽ trả lại cho những người thắng.

1.3 Hợp đồng quyền chọn (option):
Là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua
quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày
trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho
người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán
hoặc tiếp tục nắm giữ tài sản theo điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn
thế. Một quyền chọn để mua tài sản gọi là quyền chọn mua (call), một quyền chọn
bán một tài sản gọi là quyền chọn bán (put).
Một cách khác để phân loại thành quyền chọn kiểu Châu Âu và quyền chọn
kiểu Mỹ.
 Quyền chọn kiểu Châu Âu là loại quyền chọn chỉ có thể được thực hiện
vào ngày đáo hạn chứ không được thực hiện trước ngày đó.
 Quyền chọn kiểu Mỹ là loại quyền chọn có thể được thực hiện vào bất cứ
thời điểm nào trước khi đáo hạn.
Quyền chọn có thể được dựa vào các tài sản cơ sở như cổ phiếu, chỉ số cổ

phiếu, trái phiếu, lãi suất, ngoại hối, kim loại quý hay nông sản… Các quyền chọn
có thể được mua bán trên thị trường tập trung (như thị trường quyền chọn Chicago -
CBOE, thị trường hợp đồng tương lai quốc tế London – LIFFE…) hay các thị

×