Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG CHUYÊN ĐỀ PHÂN TÍCH LỢI ÍCH – CHI PHÍ (TÀI LIỆU DÙNG CHO SINH VIÊN NGÀNH KINH TẾ ĐẦU TƯ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 89 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
Chuyên đề 1. Giới thiệu chung về CBA và các khái niệm cơ bản liên quan 2
1.1. Giới thiệu chung 2
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến CBA 3
1.3. Đối tượng sử dụng CBA chuẩn 6
Chuyên đề 2. Xác định chi phí, lợi ích và tỷ lệ chiết khấu xã hội 8
2.1. Xác định chi phí 8
2.2. Xác định lợi ích 8
2.3. Tỷ lệ chiết khấu xã hội 9
Chuyên đề 3. Phân tích tài chính CBA, kinh tế CBA và kinh tế mở rộng CBA 15
3.1 Phân tích tài chính CBA 15
3.2 Phân tích kinh tế CBA 15
3.3 Phân tích kinh tế mở rộng CBA 16
Chuyên đề 4. Phân tích CBA trong một số trường hợp cụ thể 19
Chuyên đề 1. Giới thiệu chung về CBA và các khái niệm cơ bản liên quan
Số tiết: 3 (Lý thuyết)
A) MỤC TIÊU
- Về kiến thức: Sinh viên nắm chắc khái niệm về CBA.
- Về kỹ năng: Sinh viên có khả năng vận dụng khái niệm CBA vào phân tích lợi ích
chi phí.
- Về thái độ: Sinh viên yêu thích bài học, ham thích tìm hiểu các vấn đề liên quan đến
CBA.
B) NỘI DUNG
1.1. Giới thiệu chung
Phân tích lợi ích chi phí là một kỹ thuật phân tích để đi đến quyết định xem đây có nên
tiến hành các dự án đã triển khai hay không hay hiện tại có nên cho triển khai các dự án được
đề xuất hay không. Phân tích lợi ích chi phí cũng được dùng để đưa ra quyết định lựa chọn
giữa hai hay nhiều các đề xuất dự án loại trừ lẫn nhau.
Người ta tiến hành CBA thông qua việc gắn giá trị tiền tệ cho mỗi một đầu vào cũng
như đầu ra của dự án. Sau đó so sánh các giá trị của các đầu vào và các đầu ra. Cơ bản mà nói,


nếu lợi ích dự án đem lại có giá trị lớn hơn chi phí mà nó tiêu tốn, dự án đó sẽ được coi là
đáng giá và nên được triển khai.
Những dự án mà phân tích CBA xếp vào loại đáng được triển khai là những dự án cho
đầu ra có giá trị lớn hơn đầu vào đã sử dụng. Trong trường hợp phải chọn một dự án trong số
nhiều dự án được đề xuất, CBA sẽ giúp chọn được dự án đem lại lợi ích ròng lớn nhất. Cũng
có thể dùng CBA để đánh giá mức độ nhạy cảm của các đầu ra trong dự án đối với rủi ro và
bất chắc.
Mặc dù ý tưởng thì đơn giản song trong thực tế sẽ có nhiều khó khăn để có thể tiến
hành được một CBA có chất lượng. Chỉ đơn giản là việc xác định đâu là chi phí, đâu là lợi ích
cũng đã đòi hỏi chúng ta phải cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng có thể có nhiều ý kiến khác nhau xoay
quanh vấn đề này. Trong khi một số đầu vào, đầu ra có thể có các mức giá phổ biến và ổn
định thì một số khác lại có mức giá biến đổi trong quá trình triển khai dự án. Và có thể có một
số đầu vào, đầu ra không được đưa ra buôn bán trên thị trường. Điều này khiến cho chúng ta
cần phải đưa ra những phương pháp định giá khác nhau.
CBA mặc định rằng tất cả các mặt hàng đều có một giá trị tiền tệ nhất định. Điều này
là cần thiết trong việc so sánh giữa đầu vào và đầu ra để quyết định xem liệu một dự án có khả
thi về mặt kinh tế hay không. Trong khi chúng ta có những kỹ năng thích hợp để quy ra tiền
với phần lớn các mặt hàng thì chúng ta khó có thể làm như vậy với một số mặt hàng nhất định.
Ví dụ như không khí trong lành và sức khỏe tốt đều rất đáng quý song sẽ là một thách thức
1
lớn để có thể xác định chính xác lợi ích ròng của một chương trình mang lại không khí trong
lành và sức khỏe tốt cho mọi người. Tuy nhiên, ta có thể xác định được một khoảng chi phí
nào đó mà nếu chi phí của chương trình nằm trong khoảng đó thì chương trình là có giá trị và
ngược lại.
Cần phải nhận thấy một điều rằng người ta đưa các quyết định liên quan đến các dự án
không chỉ đơn thuần dựa trên cơ sở CBA. Các tính toán chính trị và xã hội nằm ngoài CBA có
thể có tầm quan trọng ít nhất là ngang bằng với các lợi ích kinh tế trong việc quyết định có
nên triển khai dự án hay không. Điều này đúng nhất là trong trường hợp đưa ra các quyết định
công. Lúc đó, các tài nguyên thường được phân bổ dựa trên các lý do khác chứ không phải là
hiệu quả kinh tế.

Những vấn đề công bằng, bình đẳng trong các trường hợp này có thể sẽ thế chỗ cho
thậm chí là những nguồn lợi ròng lớn về kinh tế. Nhưng ít nhất cũng có thể hy vọng rằng một
CBA có thể tác động tới quyết định của một người còn đang do dự hay có thể đưa chúng ta
đến với lựa chọn tối ưu giữa các dự án có tác động chính trị, xã hội tương tự như nhau.
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến CBA
Phân tích lợi ích-chi phí là việc xác định và so sánh lợi ích và chi phí của một chương
trình, chính sách, dự án để đánh giá dự án, chương trình, chính sách làm tăng hay giảm phúc
lợi kinh tế của xã hội.
Một số cách định nghĩa khác
Frances Perkins đưa ra định nghĩa phân tích lợi ích – chi phí từ góc độ phân tích tài
chính: “Phân tích kinh tế, còn gọi là phân tích lợi ích – chi phí, là phân tích mơ rộng của phân
tích tài chính, được sử dụng chủ yếu bởi các chính phủ và các cơ quan quốc tế để xem xét
một dự án hay chính sách có làm tăng phúc lợi cộng đồng hay không” (Frances Perkins, 1994).
Tevfik F.Nas định nghĩa “Phân tích lợi ích – chi phí là một phướng pháp được dùng để
nhận dạng, lượng hóa bằng tiền tất cả cái ‘được’ và ‘mất’ tiềm năng từ một dự án nhất định
nhằm xem xét dự án đó có đáng mong muốn hay không trên quan điểm xã hội nói chung”
(Tevfix F.Nas, 1996).
Boardman định nghĩa “Phân tích lợi ích – chi phí là một phương pháp đánh giá chính
sách mà phương pháp này lượng hóa bằng tiền giá trị của tất cả các kết quả của chính sách đối
với tất mọi thành viên trong xã hội nói chung. Lợi ích xã hội ròng (NSB = B – C) là thước đo
giá trị của chính sách” (Boardman, 2001).
J.A. Sinden định nghĩa “Phân tích lợi ích – chi phí là một phương pháp đánh giá sự
mong muốn tương đối của các phương án có tính cạnh tranh lẫn nhau, trong đó sự mong
muốn được đo lường bằng giá trị kinh tế đối với xã hội nói chung” (Giáo trình, 2003).
2
Harry Campbell định nghĩa “Phân tích lợi ích – chi phí là một quá trình nhận dạng, đo
lường và so sánh các lợi ích và chi phí xã hội của một dự án đầu tư hay một chương trình”
(Campbell, 2003).
Tóm lại, dù có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng tất cả đều đề cập đến bốn
vấn đề sau đây: (1) Phân tích lợi ích – chi phí là phương pháp đánh giá để thực hiện quyết

định lựa chọn; (2) Phân tích lợi ích – chi phí xem xét tất cả các lợi ích và chi phí (có giá thị
trường và không có giá thị trường); (3) Phân tích lợi ích – chi phí quan tâm chủ yếu đến hiệu
quả kinh tế; và (4) Phân tích lợi ích – chi phí xem xét vấn đề trên quan điểm xã hội nói chung.
Các bước tiến hành CBA
Phân tích lợi ích chi phí có thể được nghĩ đến như một quá trình vận hành trong đó có
một số bước nổi bật. Không phải phân tích nào cũng yêu cầu phải thực hiện đầy đủ tất cả các
bước đi này. Một dự án ngắn hạn sẽ không đòi hỏi phải chiết khấu lợi ích trong tương lai. Một
dự án đã triển khai nhiều lần có thể sẽ không gặp phải rủi ro hay bất chắc. Tuy nhiên, trong
phần lớn các trường hợp, để cân nhắc có nên triển khai một dự án hay không hay nên chọn
triển khai dự án nào giữa các dự án được đề xuất, chúng ta cần bám theo các bước sau:
1. Làm rõ vấn đề chỗ đứng/vị thế
Khi bắt đầu một phân tích, cần phải chỉ rõ nghiên cứu này là do ai làm, chi phí ai phải
chi, lợi ích ai được hưởng. Chúng ta luôn phải rõ ràng và nhất quán trong việc giải quyết
những vấn đề này cũng như trong việc tính toán lợi ích và chi phí cho những người/nhóm
người khác nhau.
2. Xác định những phương án thay thế
Một phân tích cần phải nêu rõ được dự án hay các dự án là đối tượng xem xét. Chúng
có loại trừ lẫn nhau hay không. Cần phải đưa được các lựa chọn thay thế tương ứng vào phân
tích. Mốc chuẩn để so sánh là lựa chọn không tiến hành dự án. Song đó có thể chỉ là một cơ
sở để so sánh. Ví dụ như trong thảo luận về Đập Tellico, chính quyền Thung lũng Tennesee
đã không so sánh được việc xây đập với một lựa chọn thay thế khác là tận dụng dòng chảy
của con sông để vận hành một chiếc tuốc-bin phát điện. Những thiếu sót kiểu này không phải
là hiện tượng hiếm khi xảy ra. Khi chúng ta thay đổi quy mô, thời hạn thực hiện của một dự
án, chúng ta có thể có được những thay thế thích ứng. Ví dụ như, một chương trình tiêm
chủng có thể không qua được kiểm nghiệm CBA ở quy mô toàn quốc song lại có thể vượt qua
kiểm nghiệm CBA đối với một vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao liên quan đến loại vắcxin sẽ được
tiêm chủng.
3. Đưa ra các giả định
Giả định là một phần thiết yếu của một phân tích. Có thể giả định này tốt hơn giả định
kia. Cũng có thể dùng giả định cho hàng loạt các yếu tố số lượng hàng, chi phí, điều kiện thị

3
trường, thời hạn hay các mức lãi sất. Trong một phân tích được tiến hành một cách có trách
nhiệm, những giả định này được nêu một cách rõ ràng. Nếu có thể chúng được phân bổ cho
những nguồn lực đáng tin cậy. Nếu đưa ra một diện giá trị giả định thì phải có quy định rõ
ràng về diện giá trị được đưa ra.
4. Lập danh sách các tác động của mỗi dự án thay thế
Nên liệt kê các tác động tiềm tàng của mỗi dự án một cách đầy đủ nhất có thể. Có thể
liệt kê tác động của một hay nhiều dự án cụ thể được xem xét cũng như tác động của các lựa
chọn thay thế: giữ nguyên hiện trạng hay không triển khai bất kỳ dự án nào.
Điều quan trọng là tiến hành số lượng hóa các tác động nếu có thể. Để đánh giá chuẩn
xác một dự án đòi hỏi phải biết được lượng đầu vào và đầu ra cần có. Khi không thể số lượng
hóa được một tác động thì ít nhất ta cũng phải đề cập đến tác động đó. Một dự án hạn chế
quyền tự do cá nhân nên đề cập đến tác động này ngay cả khi không có nỗ lực nào được đưa
ra để định giá quyền tự do cá nhân.
5. Quy các giá trị cụ thể cho những tác động này
Có thể quy mỗi tác động này ra một giá trị tiền tệ nhất định nếu có thể.
6. Xử lý các tác động không được số lượng hóa
Cần phải kiệt kê rõ ràng bất kỳ tác động nào chưa được quy ra giá trị vật chất cụ thể .
Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể cân nhắc giữa chúng với những chi phí và lợi ích đã
được định giá cụ thể.
Một cách tiếp cận với các lợi ích phi số lượng hóa là tính toán xem các lợi ích này lớn
đến mức độ nào thì đủ để đảo ngược các kết quả của CBA. Thông thường người ta có thể đưa
ra một đánh giá chung chung về việc những lợi ích này có khả năng đảo ngược quyết định hay
không. Bằng cách xem xét rõ ràng những tác động như vậy theo cách này, chúng ta sẽ tránh
được tình trạng lâm vào phân tích bị chi phối bởi các dữ liệu cứng.
Ví dụ như, khi cân nhắc một dự án hạn chế quyền tự do cá nhân, có thể dùng các lợi
ích và chi phí khác để tính mức lợi ích ròng của dự án đó, bỏ qua bất kỳ một cân nhắc về
quyền tự do cá nhân nào. Sau đó, có thể dành cho độc giả quyền tự quyết định xem những lợi
ích ròng khác có đủ để bù đắp hạn chế về quyền tự do cá nhân hay không, việc tiến hành dự
án có phải là một quyết định đúng đắn hay không.

7. Chiết khấu giá trị tương lai để có được giá trị hiện tại
Đối với phần lớn các dự án, cần phải tính chi phí và lợi ích được chiết khấu tại những
thời điểm khác nhau. Người ta thường thực hiện điều này bằng cách sử dụng biện pháp chiết
khấu lũy thừa (exponential discounting) để tính giá trị hiện tại của chi phí lợi ích. Rất khó để
có thể lựa chọn được một mức lãi suất chiết khấu đúng. Tuy nhiên, nhiều tổ chức nghiên cứu
đưa ra những mức lãi suất chuẩn dùng cho các phân tích.
4
8. Xác định và lý giải độ bất chắc
Có lẽ khiếm khuyết hay gặp nhất trong phân tích CBA là thất bại trong việc xử lý rủi
ro và bất chắc. Bất chắc có thể tiềm ẩn trong nhiều khía cạnh của dự án. Phải xác định được
đầy đủ nguyên nhân gây ra các bất chắc này một cách đầy đủ nhất có thể. Chẳng hạn như kinh
phí dự toán cho một công trình xây dựng, điều kiện thời tiết bất ổn khiến cho các hoạt động
ngoài trời trở nên khó khăn hơn hay mức tăng trưởng dân số dẫn đến mật độ sử dụng các thiết
bị tiện dụng tăng lên.
Nên nỗ lực trong việc nhận thức được rủi ro hay bất chắc của dự án. Có thể dùng cách
đơn giản như đưa ra một phân tích độ nhạy cảm. Phân tích này sẽ tính toán giá trị của dự án
theo những kết quả dài hạn khác nhau. Cũng có thể dùng cách phức tạp hơn như phân tích các
lựa chọn thực. Phân tích này cố tìm cách tính được giá trị chính xác của dự án có tính đến yếu
tố rủi ro.
9. So sánh lợi ích và lhi phí
Sau khi đã tính toán được (hay ít nhất là đã liệt kê ra được) các chi phí và lợi ích,
chúng ta phải so sánh chúng với nhau để xác định xem giá trị hiện tại (Net Present Value ~
NPV) của dự án có thể mang giá trị dương không. Nếu đang xem xét lựa chọn giữa nhiều dự
án thì dự án có mức NPV cao nhất là dự án sẽ được chọn.
10. Tiến hành phân tích sau khi dự án kết thúc
Khi có thể, nên tiến hành phân tích sau khi hoàn thành dự án nhằm đưa ra định hướng
cho các giám đốc dự án, xác định giá trị của phân tích gốc nhằm cải thiện các phân tích và các
dự án được tiến hành sau này.
1.3. Đối tượng sử dụng CBA chuẩn
- Thẩm định các dự án tư nhân thuần túy theo quan điểm xã hội.

- Thẩm định các dự án công: các dự án cung cấp vốn vật chất như cơ sở hạ tầng (cầu,
đường, thủy điện, truyền thông), phát triển nông nghiệp; các dự án làm tăng trữ lượng vốn
môi trường (cải tạo đất, kiểm soát ô nhiễm, quản lý và khai thác thủy sản, xây dựng các công
viên quốc gia); các dự án đầu tư phát triển vốn nhân lực như sức khỏe, giáo dục, kỹ năng; và
phát triền vốn xã hội như ngăn chặn tội phạm, cai nghiện ma túy, và giảm thất nghiệp.
- Ảnh hưởng của những thay đổi chính sách, chương trình của chính phủ như bãi bỏ
quy định của ngành, chính sách phi tập trung hóa, kế hoạch đào tạo, tái định cư, kiểm soát
môi trường, thuế, trợ cấp, …
C. TÀI LIỆU HỌC TẬP
[1] Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe (2006), A Primer for Benefit-cost Analysis (Giới
thiệu Phân tích Chi phí và Lợi ích).
5
[2] Phùng Thanh Bình và Trương Đăng Thụy (2006), Phân tích lợi ích – chi phí, trường Đại
học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
6
Chuyên đề 2. Xác định chi phí, lợi ích và tỷ lệ chiết khấu xã hội
Số tiết: 4 (Lý thuyết)
A) MỤC TIÊU
- Về kiến thức: Sinh viên nắm chắc kiến thức về chi phí, lợi ích và tỷ lệ chiết khấu xã
hội.
- Về kỹ năng: Sinh viên có khả năng vận dụng tỷ lệ chiết khấu xã hội vào phân tích lợi
ích chi phí.
- Về thái độ: Sinh viên yêu thích bài học, ham thích tìm hiểu các vấn đề liên quan đến
CBA.
B) NỘI DUNG
2.1. Xác định chi phí
Khi dự án ra đời gây ra tác động: Làm tăng cầu yếu tố đầu vào; Giá thị trường của yếu
tố này tăng lên; Lượng cung tăng; Lượng cầu của những người tiêu dùng cũ giảm.
Tổng chi phí kinh tế của dự án (dt Q
D

1
AE
0
E
1
Q
S
1
) = Chi phí nguồn lực xã hội tăng thêm (sx
nhiều) (dt Q
0
E
0
E
1
Q
S
1
) + Lợi ích những người tiêu dùng cũ bị giảm (dt Q
D
1
AE
0
Q
0
)
Tổng chi phí kinh tế của dự án (dt Q
D
1
AE

0
E
1
Q
S
1
) = Tổng chi phí tài chính của dự án
(dtQ
D
1
AE
1
Q
S
1
)-Thay đổi phúc lợi ròng của xã hội (dt AE
0
E
1
)
2.2. Xác định lợi ích
Khi dự án ra đời gây ra tác động: Làm tăng cung sản phẩm; Giá thị trường của sản
phẩm này giảm xuống; Lượng cầu tăng; Lượng cung của những nhà sản xuất cũ giảm.
7
Tổng lợi ích kinh tế của dự án (dt Q
S
1
AE
0
E

1
Q
D
1
) = Tổng lợi ích tăng thêm của người tiêu
dùng (dt Q
0
E
0
E
1
Q
D
1
) + Tổng chi phí nguồn lực xã hội tiết kiệm được (dt Q
S
1
AE
0
Q
0
)
Tổng lợi ích kinh tế của dự án (dt Q
S
1
AE
0
E
1
Q

D
1
) = Tổng lợi ích tàichính của dự án (dt
Q
S
1
AE
1
Q
D
1
) +Thay đổi phúc lợi ròng của xã hội (dt AE
0
E
1
)
2.3. Tỷ lệ chiết khấu xã hội
Bản chất của các dự án đầu tư là lợi ích và chi phí của chúng thường xảy ra vào các
giai đoạn khác nhau. Bởi vì một số tiền có được hiện tại được coi là có giá trị cao hơn cùng
một số tiền như vậy nhận được trong tương lai, các chi phí và lợi ích đến sớm hơn về mặt thời
gian cần phải được được coi như có trọng lượng lớn hơn và các chi phí và lợi ích đến muộn
hơn có trọng lượng thấp hơn. Sở dĩ giá trị lớn hơn được đặt vào có lợi ích và chi phí hiện tại
hơn là tương lai là bởi vì tiền có được bây giờ cho phép sử dụng để đầu tư có lãi hay tiêu dùng
trong khoảng thời gian giữa hiện tại và tương lai. Do đó, người đi vay sẵn sàng trả lãi suất
dương để có thể sử dụng được vốn, còn người cho vay đòi phải trả được lãi.
Bởi vì $1, nếu đem đầu tư, sẽ tăng lên thành $(1+r) sau một năm, tức là một khoản tiền
B trong năm tới sẽ có giá trị hiện tại (hiện giá) là B/(1+r). Tương tư như vậy, một khoản đầu
tư trị giá $1 hiện nay sẽ tăng lên thành $(1+r)
n
trong n năm, và một khoản tiền B sẽ nhận được

vào n năm trong tương lai sẽ có hiện giá $B(1+r)
n
. Suất chiết khấu r càng cao và thời gian có
được số tiền càng lùi xa vào tương lai, thì hiện giá của nó càng nhỏ.
Hiện giá lợi ích ròng (Net Present Value, NPV) của một dòng các lợi ích ròng trong
tương lai, (B0 - C0), (B1 - C1), (B2 - C2), , (Bn- Cn) có thể được diễn tả bằng đại số như
sau:
8
trong đó n là thời gian hoạt động của dự án. Biểu thức 1/(1+r)
t
thường được gọi là hệ
số chiết khấu cho năm thời gian.
Thay vì đem chiết khấu tất cả các dòng lợi ích ròng về năm đầu của dự án, chúng ta có
thể tính toán giá trị của dòng lợi ích ròng của một dự án vào năm k, mà năm này có thể nằm
trong hay ngoài thời gian hoạt động của dự án. Trong trường hợp này, tất cả các lợi ích ròng
phát sinh từ năm 0 đến năm k phải được chiết khấu ở mức r cho tới giai đoạn k. Tương tự như
vậy, tất cả các lợi ích ròng phát sinh từ k+1 đến năm n được chiết khấu về năm k cũng ở mức
r. Công thức để tính hiện giá lợi ích ròng theo giai đoạn k là:
Phương trình 3 là một bội số bất biến của công thức hiện giá lợi ích ròng ở phương
trình 2. Đem nhân phương trình 2 với hằng số (1+r)
k
ta được biểu thức:
mà đó chính là phương trình 3. Giá trị của hằng số (1+r)
k
là một hàm số của suất chiết
khấu r, và giai đoạn k giữa hai thời điểm để tính hiện giá lợi ích ròng. Bởi vì việc xếp hạng
một tập hợp các trị số sẽ không thay đổi nếu ta đem nhân tất cả các trị số đó với một hằng số,
nên thời điểm dùng để chiết khấu lợi ích ròng của các dự án sẽ không ảnh hưởng đến thứ hạng
của hiện giá lợi ích ròng tương ứng của các dự án đó, với điều kiện là các dự án ta đem ra so
sánh được tính chiết khấu hiện giá lợi ích ròng về cùng một thời điểm.

Tỷ lệ chiết khấu xã hội
Chi phí và lợi nhuận liên quan đến một dự án điển hình thường phát sinh tại những
thời điểm khác nhau. Quan trọng là việc có thể so sánh các chi phí và lợi nhuận phát sinh tại
những thời điểm khác nhau.
Thực hiện điều này trong một nền kinh tế đơn giản, có một người và có hai giai đoạn
là tương đối dễ. Một người sẽ có vài cơ hội tiêu dùng giữa hai giai đoạn và sẽ tối đa hoá độ
thoả dụng tiêu dùng giữa hai giai đoạn. Tỷ lệ thay thế biên (Marginal Rate of Substituion ~
MRS) sẽ bằng với Tỷ lệ chuyển đổi biên (Marginal Rate of Transformation ~ MRT) và đây sẽ
là tỷ lệ lãi suất phù hợp để áp dụng tính chiết khấu chi phí và lợi nhuận tương lai.
9
Nhìn từ góc độ quan điểm xã hội, tồn tại một đường biên các xác suất tiêu dùng liên
quan đến mức tiêu dùng giai đoạn này với mức tiêu dùng giai đoạn tiếp theo. Độ dốc của
đường cong này là Tỷ lệ chi phí cơ hội xã hội (Social Opportunity Cost Rate ~ SOCR).
Xã hội cũng sẵn sàng từ bỏ tiêu dùng hiện tại để đổi lấy đầu tư dẫn đến tiêu dùng lớn
hơn trong tương lai. Sự sẵn lòng này được thể hiện bởi độ dốc của đường cong đẳng dụng xã
hội, độ dốc của đường cong này là Tỷ lệ ưu tiên thời gian của xã hội (Societal Rate of Time
Prefence ~ SRTP).
Nếu tất cả các thị trường đều hoàn hảo, chúng ta có sự cân bằng liên thời gian xã hội
(societal intertemporal equilibrium):
Tại một điểm giống như X, tỷ lệ chi phí cơ hội xã hội SOCR bằng với tỷ lệ ưu tiên
thời gian của xã hội SRTP, do đó tỷ lệ mà tại đó xã hội có thể trao đổi cái này lấy cái kia giữa
X
Future Consumption
Current Consumption
Social Indifference Curve
Z
Consumption
Possibilities
Frontier
10

mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai chính xác bằng với tỷ lệ mà nó muốn để
trao đổi giữa hai thứ và đó là tỷ lệ mà tại đó mức tiêu dùng tương lai nên được chiết khấu
tương xứng với mức tiêu dùng hiện tại.
Nếu xã hội có một khoản tiền tại một điểm giống như Z, thì xã hội nên giảm mức tiêu
dùng hiện tại để nhằm tăng mức tiêu dùng tương lai bởi vì chi phí biên của mức tiêu dùng
hiện tại (xét về mức tiêu thụ tương lai dự tính trước) lớn hơn tỷ lệ biên mà tại đó xã hội sẵn
lòng để trao đổi giữa hai thứ.
Xét từ góc độ cá nhân, có một tỷ lệ ưu tiên thời gian của cá nhân (Private Rate of Time
Preference ~ PRTP) biểu hiện cho tỷ lệ mà tại đó mọi người sẵn sàng thực hiện trao đổi thoả
hiệp biên giữa mức tiêu dùng hiện tại và mức tiêu dùng tương lai.
Những cá nhân này có cơ hội đầu tư vào các thị trường tín dụng trong đó có một tỷ lệ
chi phí cơ hội cá nhân (Private Opportunity Cost Rate ~ POCR) mà tại đó những nguồn lực
hiện tại có thể được đầu tư để đổi lấy mức tiêu dùng tương lai. Tỷ lệ này chính là độ dốc của
đường thẳng ngân sách liên thời gian và cũng là tỷ lệ lãi suất.
Một người có một khoản tiền T trong khoảng thời gian 0 sẽ lựa chọn để tiết kiệm một
chút trong số đó (∆C
0
) để nhằm có mức tiêu dùng trong khoảng thời gian 1.
Do đó, một lần nữa, nếu thị trường hoàn hảo thì độ dốc của đường cong đẳng dụng cá
nhân (PRTP) sẽ bằng với độ dốc của đường cong đẳng dụng xã hội (SRTP) và chúng sẽ bằng
với độ dốc của đường hạn chế ngân sách liên thời gian của cá nhân (POCR) và độ dốc của
đường giới hạn khả năng tiêu dùng (SOCR). Tuy nhiên, điều này không phải như thế.
11
Nếu chúng ta có hiệu dụng năng động (dynamic efficiency), thì tỷ lệ thay thế biên liên
thời gian của các cá nhân sẽ bằng với tỷ lệ chuyển đổi biên liên thời gian của họ. Điều này
tương ứng với việc nói rằng tỷ lệ này sẽ bằng nhau giữa tất cả các cá nhân. Nói cách khác, tỷ
lệ mà mọi người mong muốn trao đổi mức tiêu dùng giữa hai khoảng thời gian bằng với tỷ lệ
mà tại đó họ có thể trao đổi thoả hiệp.
Chúng ta có thể phân biệt giữa tỷ lệ cá nhân và tỷ lệ xã hội
Trong những thị trường vốn hoàn hảo :

Tỷ lệ ưu tiên thời gian cá nhân (PRTP) = Tỷ lệ chi phí cơ hội cá nhân (POCR)
Đối với tổng thể xã hội
Tỷ lệ ưu tiên thời gian xã hội (SRTP) = Tỷ lệ chi phí cơ hội xã hội (SOCR)
Và chừng nào mà
SRTP=PRTP và
PRTP=POCR và
SOCR=POCR,
thì bạn có tính hiệu dụng năng động và tỷ lệ lãi suất thật sự và chính thức bằng với tất
cả những tỷ lệ này.
Có rất nhiều lý do giải thích tại sao điều này có thể không đúng như vậy.
a. Những thị trường vốn có hoàn hảo không? Nghĩa là, PRTP=i=POCR hay không?
Có thể ở những thành phố lớn có nhiều khoản tiền lớn, nhưng không phải ở những thị
trường có số lượng hạn chế những phương tiện tài chính hay ngân hàng.
Những người tiêu dùng tiết kiệm được thêm nhiều tiền cho đến khi tỷ lệ ưu tiên thời
gian của họ bằng với tỷ lệ lãi suất họ có thể kiếm được từ các khoản tiền tiết kiệm của mình
(PRTP=i
tiền tiết kiệm
) trong khi đó các thể chế tài chính tiến hành cho vay bổ sung cho đến khi
chi phí cơ hội của họ bằng với lợi nhuận họ thu lại được từ các khoản cho vay đó
(POCR=i
khoản cho vay
).
Nếu i
tiền tiết kiệm
= i
khoản cho vay
thì tính hiệu dụng năng động có giá trị. Điều này không
đúng, nhưng đối với hầu hết người dân ở Mỹ và ở một số nước phát triển khác, điều này có
thể gần sát. Đối với những người sống ở các thị trấn hay các nước nhỏ không có các thể chế
tài chính vững chắc, đó có thể không phải là một phép xấp xỉ hợp lý. Nghĩa là, tỷ lệ lãi suất áp

cho các khoản vay có thể cao hơn nhiều tỷ lệ lãi suất mọi người nhận được từ tiền tiết kiệm
của mình.
Trên thực tế, đối với các thể chế tài chính đang hoạt động, có thể đúng là POCR=i
khoản
cho vay
> PRTP=i
tiền tiết kiệm
.
(TQ hiệu đính: vì các thể chế tài chánh và ngân hàng kiếm lời,tỷ lệ lợi nhuận cho vay
lớn hơn tỷ lệ tiền tiết kiệm họ phải trả cho bà con. Trong những thành phố có nhiều thể chế tài
12
chánh cạnh tranh, thì hai tỷ lệ này sai biệt rất ít, như 6.5% và 5.7%. Còn ở những thị trấn nhỏ,
tỷ lệ mượn nợ thì cao, trong khi tỷ lệ tiền tiết kiệm thì quá thấy, hay không đáng kể).
b. SRTP=PRTP hay không?
Có thể không. Nhìn chung, người ta cho rằng SRTP < PRTP
Chúng ta không quan tâm đúng mức đến các thế hệ tương lai.
Mọi người đều cận thị, thiếu kiên nhẫn một cách vô lý.
Nếu các thế hệ tương lai là "một hàng hoá công cộng", thì những thị trường tư nhân sẽ
cung cấp hàng hoá đó không đủ. (TQ hiệu đính: thế hệ tương lai không chỉ con ruột của mình,
mà là tất cả mọi người đồng lứa tuổi con của mình. Bao nhiêu người trong chúng ta lo cho
con nhà hàng xóm).
c. POCR=SOCR hay không?
Không nếu có thuế đánh vào lợi nhuận biên thu từ được việc bán các khoản đầu tư hay
tài sản. POCR là tỷ lệ sau thuế trong khi SOCR là tỷ lệ trước thuế, hay
POCR = (1-t)SOCR
Do đó POCR < SOCR
Kết quả của tất cả những điều này là chúng ta có thể kết luận rằng:
SRTP < PRTP < POCR < SOCR
Do vậy, vì SRTP nhỏ hơn SOCR, chúng ta có thể đang đầu tư/tiết kiệm quá ít.
Nếu bạn, vì một lý do nào đó, có tất cả những con số này, thì SRTP là tỷ lệ nên được

áp dụng để chiết khấu lợi nhuận ròng từ một dự án.
(PRTP thường thì tỷ lệ này nhỏ hơn SOCR)
Nói chung, các tỷ lệ lãi suất thị trường (mà có thể bằng với các tỷ lệ chi phí cơ hội cá
nhân) sẽ quá cao. Điều này có nghĩa là các tỷ lệ đó sẽ chiết khấu tương lai quá nhiều, hoặc
gắn giá trị quá thấp cho các chi phí và lợi nhuận tương lai.
C. TÀI LIỆU HỌC TẬP
[1] Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe (2006), A Primer for Benefit-cost Analysis (Giới
thiệu Phân tích Chi phí và Lợi ích).
[2] Phùng Thanh Bình và Trương Đăng Thụy (2006), Phân tích lợi ích – chi phí, trường Đại
học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
13
Chuyên đề 3. Phân tích tài chính CBA, kinh tế CBA và kinh tế mở rộng CBA
Số tiết: 3 (Lý thuyết)
A) MỤC TIÊU
- Về kiến thức: Sinh viên nắm chắc kiến thức về phân tích tài chính, kinh tế và kinh tế
mở rộng CBA
- Về kỹ năng: Sinh viên có khả năng vận dụng kiến thức về phân tích tài chính, kinh tế
và kinh tế mở rộng CBA vào phân tích lợi ích chi phí.
- Về thái độ: Sinh viên yêu thích bài học, ham thích tìm hiểu các vấn đề liên quan đến
CBA.
B) NỘI DUNG
3.1 Phân tích tài chính CBA
Phân tích tài chính được sử dụng chủ yếu trong khu vực tư nhân để xác định xem kết
quả nào tốt nhất theo quan điểm tư nhân (quan điểm chủ sở hữu hoặc quan điểm tổng đầu tư).
Các dòng tiền và doanh thu kỳ vọng được coi là các dòng lợi ích, và các khoản tiền chi trả
trực tiếp để mua các yếu tố sản xuất được xem như chi phí bất kể ảnh của xuất lượng ở các
khu vực khác trong nền kinh tế. Chi phí gây ra cho nhóm cá nhân thứ ba, như thiệt hại môi
trường, … không được tính đến .
Phân tích tài chính chỉ đề cập đến lợi ích của cơ quan hay công ty thực hiện. Đối với
một doanh nghiệp trong khu vực tư nhân thì mục tiêu theo đuổi quan trọng nhất là tối đa lợi

nhuận, lợi tức cổ đông hoặc giá trị cổ phiếu. Vì thế doanh nghiệp đánh giá một dự án chỉ dựa
trên cơ sở tác động của dự án lên các tài khoản tài chính của doanh nghiệp mình. Nói cách
khác, doanh nghiệp thực hiện phân tích tài chính dự án.
Trong phân tích tài chính, giá thị trường của các nhập lượng và xuất lượng được
sử dụng để tính lợi ích ròng của dự án đối với chủ đầu tư. Không cần bất kỳ sự
điều chỉnh nào đối với các biến dạng trong các thị trường của các hàng hóa này vì
doanh nghiệp thực sự trả theo giá thị trường và doanh nghiệp chỉ đề cập đến việc lựa chọn dự
án có hiệu số doanh thu (thực thu) trừ các khoản chi (thực chi), kể cả thuế thu nhập doanh
nghiệp, trả lãi và gốc (quan điểm chủ sở hữu) lớn nhất. Tương tự, không cần quan tâm đến chi
phí và lợi ích của dự án ảnh hưởng đến cộng đồng nếu như những lợi ích và chi phí này không
thể hiện trong bảng cân đối của doanh nghiệp. Một số cơ quan chính phủ có thể cũng theo
đuổi mục tiêu tài chính trong một số trường hợp giới hạn như cơ quan quản lý sản xuất điện.
3.2 Phân tích kinh tế CBA
Phân tích kinh tế của một dự án có nhiều điểm chung với phân tích tài chính. Cả hai
đều liên quan đến việc ước tính các lợi ích và chi phí của dự án phát sinh trong suốt vòng đời
dự án để thiết lập dòng ngân lưu dự án. Trong cả phân tích tài chính và phân tích kinh tế,
14
dòng ngân lưu này sẽ được chiết khấu để xác định giá trị hiện giá ròng hay các thước đo khác
của dự án. Cả hai đều sử dụng phân tích độ nhạy để đánh giá tác động của sự không chắc chắn
lên giá trị NPV của dự án.
Tuy nhiên, phân tích kinh tế còn đi xa hơn phân tích tài chính vì phân tích kinh tế đề
cập đến những nội dung sau đây:
- Quan tâm tới toàn xã hội (người sản xuất, chính phủ, người tiêu dùng)
- Quan tâm tới phúc lợi kinh tế (phúc lợi được đo bằng mức sẵn lòng trả không phải
bằng lợi ích của thị trường vì vậy phải điều chỉnh lợi ích của thị trường).
Mục tiêu tối đa hóa phúc lợi kinh tế rộng hơn nhiều so với mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận (mục tiêu tài chính), và việc theo đuổi mục tiêu này khó khăn và phức tạp hơn nhiều.
Xét về bản chất, phân tích lợi ích – chi phí liên quan đến việc đo lường các lợi ích và chi phí
theo cách sao cho phản ánh đầy đủ lợi ích và chi phí thực (true benefits and costs). Có như
vậy mới có thể đánh giá xem dự án có thực sự đóng góp tích cực vào phúc lợi của một quốc

gia hay không.
- Chi phí được đo bằng chi phí cơ hội hoặc giá ẩn (giá bóng).
Đối với nhiều loại lợi ích và chi phí không có giá cả thị trường như ngoại tác, hàng
hóa công.
Giá cả thị trường có thể bị biến dạng do thất bại thị trường hay các chính sách can
thiệp của chính phủ nên chúng không phản ánh đúng giá trị thực của nguồn lực khan hiếm.
Thậm chí nếu giá sẵn có và không có bất kỳ loại biến dạng nào, thì vẫn có thể có vấn
đề là liệu dự án có gây tác động không biên tế lên cung - cầu trong các thị trường liên quan
hay không (dự án lớn).
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo giá cả bằng chi phí xã hội biên (marginal social
cost) và bằng lợi ích xã hội biên (marginal social benefit) của một đơn vị hàng hóa và dịch vụ
tăng thêm. Khi có thất bại thị trường hay không tồn tại thị trường sẽ có sự khác biệt giữa giá
thị trường với chi phí và lợi ích xã hội biên.
Điều này có nghĩa khi giá cả thị trường không phản ánh đúng giá trị xã hội của hàng
hóa hoặc không tồn tại giá cả thị trường, thì phương pháp định giá ẩn (shadow pricing)
thường được sử dụng để đo lường các lợi ích và chi phí. Định giá ẩn là việc điều chỉnh lại bất
kỳ sự khác biệt nào giữa giá thị trường và giá kinh tế do thất bại thị trường, can thiệp chính
phủ, ngoại tác, hàng hóa công, thặng dư tiêu dùng, thặng dư sản xuất. Giá được ước tính từ
phương pháp này gọi là giá ẩn.
3.3 Phân tích kinh tế mở rộng CBA
Là phân tích kinh tế nhưng bao gồm cả các vấn đề ngoại ứng của tài nguyên và môi
trường
15
Bảng 3.1. So sánh phân tích tài chính và phân tích kinh tế mở rộng
Chỉ tiêu
Phân tích lợi ích chi phí (CBA)
Phân tích tài chính (FA)
Phạm vi
Toàn xã hội
Cá nhân , doanh nghiệp

Mục tiêu
Tăng phúc lợi
Tăng lợi nhuận/thu nhập
Lợi ích
Lợi ích bằng tiền của toàn xã hội
Doanh thu bằng tiền
Đo lường lợi ích
Nhiều bên
Một bên
Chi phí
Chi phí thực tiễn và mất mát của
xã hội
Chi phí thực tế bằng tiền
Đo lường chi phí
Chi phí bằng tiền hoặc quy ra tiền
Chi phí bằng tiền
Đánh giá
Thay đổi ròng trong phúc lợi
Thay đổi doanh thu/lợi nhuận
Ưu điểm của CBA
Cung cấp thông tin giúp xã hội ra quyết định về việc phân bổ nguồn lực hiệu quả giữa
các mục tiêu sử dụng cạnh tranh lẫn nhau (sự rõ ràng và tin cậy cho việc ra chính sách)
Cung cấp khung phân tích vững chắc cho việc thu thập dữ liệu cần thiết
Giúp tổng hợp và lượng hóa bằng tiền các tác động khác nhau để có thể so sánh được
Được ứng dụng cho việc đánh giá nhiều loại tác động của dự án (có giá và không có
giá thị trường
Nguyên tắc xác định và quy đổi lợi ích – chi phí
Nguyên tắc 1: Tính những kết quả (lợi ích hoặc chi phí) tăng thêm
Lưu ý : Phân biệt giữa tổng lợi ích (chi phí) với thay đổi trong lợi ích (chi phí); So
với hiện trạng

Nguyên tắc 2 : Loại trừ các kết quả chìm
- Các chi phí đã phát sinh hoặc các lợi ích đã nhận được trước khi dự án bắt đầu thì
không thể thay đổi được nữa nên không được tính trong chi phí, lợi ích của dự án
Nguyên tắc 4 : Tính tất cả các thay đổi lợi ích
- Bao gồm lợi ích trực tiếp, gián tiếp
Nguyên tắc 5: Tính tất cả thay đổi về chi phí
- Bao gồm : chi phí trực tiếp của dự án, chi phí gián tiếp do tác động của dự án
- Lưu ý : sử dụng khái niệm chi phí cơ hội khi tính toán chi phí
Nguyên tắc 6: Kiểm tra các khoản lệ phí của dịch vụ độc quyền : thu gom rác, điện Cần tính
chi phí thực của các dịch vụ này
Nguyên tắc 7: Tránh tính trùng
Nguyên tắc 8 : Loại trừ chi phí và kết quả phát sinh ngoài biên giới quốc gia
Nguyên tắc 9 : Xem xét đến các thay đổi về giá trị tài sản như chi phí bảo trì, thay thế
16
Nguyên tắc 10 : Tính đến các tác động ra ngoài ( ngoại ứng)
Nguyên tắc 11 : Xem xét các chi phí và lợi ích khi thị trường là độc quyền
Nguyên tắc 12 : Cân nhắc đến các chi phí – lợi ích không thể lượng hóa thành tiền
Nguyên tắc 13 : Lựa chọn tỷ lệ chiết khấu
Lựa chọn lãi suất trái phiếu dài hạn hoặc lãi suất tiết kiệm dài hạn làm tỷ suất tham
chiếu
Tỷ suất lợi nhuận trung bình của các dự án tương tự
Nguyên tắc 14: Cơ sở quyết định:
NPV> 0 hay IRR > r ( dự kiến)
Lợi ích – Chi phí> 0 hoặc tính hệ số Lợi ích/ Chi phí> 1
C. TÀI LIỆU HỌC TẬP
[1] Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe (2006), A Primer for Benefit-cost Analysis (Giới
thiệu Phân tích Chi phí và Lợi ích).
[2] Phùng Thanh Bình và Trương Đăng Thụy (2006), Phân tích lợi ích – chi phí, trường Đại
học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
17

Chuyên đề 4. Phân tích CBA trong một số trường hợp cụ thể
Nhận dạng lợi ích và chi phí của dự án phát triển An Bình với các nội dung sau đây:
1. Xây dựng mỏ khai thác và chế biến quặng ilmenite (là một loại khoáng sản đen nặng trộn
lẫn với đất bề mặt, thường được dùng để làm kem đánh răng, kẹo, sơn, kính râm…) trên một
khu vực rộng 700 ha với chi phí 55 triệu USD. Quặng ilmenite sau khi chế biến sẽ được xuất
khẩu, đem lại doanh thu 25 triệu USD/năm và chi phí vận hành (chưa kể lao động) là 10 triệu
USD/năm. Khu vực khai thác hiện tại là một khu rừng đang bị khai thác gỗ trái pháp luật rất
trầm trọng. Để xây dựng khu mỏ, khu rừng này sẽ bị chặt và sau đó được trồng lại bằng các
loại cây lâu năm. Chi phí khai thác gỗ không đáng kể và doanh thu từ gỗ và một số sản phẩm
khác của khu rừng là 10 triệu USD.
2. Một nhà máy nhiệt điện nhỏ cũng được xây dựng trong khu vực để tận dụng nguồn nguyên
liệu thừa từ quặng. Chi phí xây dựng là 30 triệu USD, trong đó một số chi phí để xây dựng
nhà máy nhiệt điện đã được trợ cấp dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng ước tính chung là
5% trên tổng chi phí này. Sản lượng điện hàng năm là 40 triệu KWh. Điện sản xuất ra được
bán cho cư dân trong vùng và các vùng lân cận với giá mỗi KWh là .05 USD. Biết rằng người
tiêu dùng phải trả 10% thuế cho mỗi KWh sử dụng. Nhờ có điện mà có nhiều cửa hàng bán đồ
điện, điện tử, hơn trước. Doanh thu từ các cửa hàng này tăng thêm ước tính là 0.2 triệu
USD/năm.
3. Hoạt động xuất khẩu ilmenite yêu cầu phải mở rộng cảng Hải Đăng (cách đó 40km). Việc
mở rộng cảng sẽ dẫn đến yêu cầu phải dời cảng cá và lấp đầy đầm lầy tại khu vực cảng. Chi
phí mở rộng cảng khoảng 74 triệu USD, chi phí xây dựng cảng 10 năm trước là 100 triệu
USD. Chi phí trước đây xây dựng con đường từ mỏ than đến cảng là 120 triệu USD. Chi phí
nâng cấp đường hiện nay là 80 triệu USD.
4. Cảng được mở rộng cùng với việc nâng cấp đường tới cảng sẽ làm tăng khả năng vận
chuyển và marketing các sản phẩm nông nghiệp trong vùng. Giá trị tăng thêm là 720.000
USD mỗi năm. Giá đất nông nghiệp trong vùng cũng tăng thêm 2000 USD/ha (diện tích đất
nông nghiệp là 3.000 ha).
5. Đường được nâng cấp và cảng được mở rộng giúp khách du lịch đến công viên quốc gia dễ
dàng hơn (con đường được nâng cấp đi qua trước cửa công viên) và đi tàu ra vùng đảo san hô
thuận tiện hơn. Số lượng khách du lịch trung bình hàng năm được ghi nhận trong 3 năm qua

là 4.000 người. Một cuộc khảo sát được tiến hành dự đoán khi dự án hoàn thành số lượng
khách du lịch đến vùng này là 22.000 người trung bình một năm. Mỗi người chi tiêu trung
bình khoảng 150 USD.
18
6. Khấu hao máy móc thiết bị và cơ sở vật chất của dự án là 8 phần trăm một năm.
7. Nhiều lao động được tuyển dụng làm ở mỏ, vận chuyển và du lịch hơn trước. Có hai loại
lao động: (1) 1.000 chuyên gia và nhân viên có trình độ chủ yếu đến từ các thành phố lân cận
với mức lương trung bình là 7.200 USD/người/năm; và (2) 6.000 lao đông phổ thông trong
vùng và ở các vùng lân cận với mức lương trung bình 1.800 USD/người/năm, biết rằng trong
số này có 30% trước đây thất nghiệp, 40% làm trong lĩnh vực nông nghiệp.
8. Chương trình phát triển làm thiệt hại rạn san hô vào khoảng 1000 USD/năm (rạn san hô
này là khu vực đa dạng sinh học biển được công nhận là di sản thế giới và thu hút lượng lớn
khách du lịch).
9. Khu vực đầm lầy xung quanh cảng Hải Đăng là nơi xuất phát của dịch bệnh sốt rét. Chi
phí phòng chống và chữa bệnh sốt rét cho dân cư địa phương hàng năm vào khoảng 1 triệu
USD. Hàng năm Chính phủ hỗ trợ dân cư địa phương 0.5 triệu USD để phòng/chữa bệnh sốt
rét. Khi có dự án, Chính phủ không còn tài trợ khoản tiền này nữa.
10. Chất thải của mỏ khai thác đổ thẳng xuống sông Cái có hạ lưu gây thiệt hại ước tính 0.8
triệu USD mỗi năm, trong đó 0.3 triệu USD là do dân cư xung quanh chịu (ô nhiễm một số
dòng kênh dẫn ra sông, giảm lượng cá đánh bắt do một số loài di chuyên đi nơi khác) và tại
dân cư nước láng giềng chịu thiệt hại ước tính là 0.5 triệu USD mỗi năm.
19
(1) ÁP DỤNG KỸ THUẬT PHÂN TÍCH CHI PHÍ - LỢI ÍCH CHO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1. Tác giả: Nguyễn Thế Chinh
2. Phương pháp nghiên cứu
PGS.TS. Nguyễn Thế Chinh - Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng: Phân tích chi phí-lợi ích-CBA (Cost-Benefit
Analysis) là công cụ kỹ thuật cho phép đưa ra một tính toán định lượng, quy đổi tất cả các chi
phí và lợi ích về một đơn vị đo lường thống nhất là giá trị tiền tệ giúp cho người ra quyết định
dễ dàng lựa chọn phương án của mình trong quyết định chính sách công và đối với những

chính sách liên quan đến biến đổi khí hậu. Như vậy thông qua phân tích chi phí-lợi ích, một
chính sách hay một hoạt động được thực hiện khi và chỉ khi lợi ích của chính sách hay hoạt
động đó thu về lớn hơn so với chi phí bỏ ra. Trong trường hợp có nhiều chính sách hay hoạt
động phải lựa chọn trong hoàn cảnh nguồn lực có hạn thì chính sách hay hoạt động nào có lợi
ích ròng lớn nhất sẽ được lựa chọn.
Theo ông, đối với biến đổi khí hậu, CBA có thể đóng góp cho những câu hỏi trọng
tâm mà các nhà hoạch định chính sách đang đòi hỏi cần phải giải quyết như (1) Nên giảm bao
nhiêu lượng khí thải (GHGs) gây hiệu ứng nhà kính hiện nay để tránh những thiệt hại trong
tương lai do biến đổi khí hậu? (2) Khi nào nên giảm bớt khí xả thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ
mang lại hiệu quả nhất?(3) Làm thế nào để giảm bớt xả thải khí gây hiệu ứng Nhà kính?
Trong trường hợp sử dụng CBA cho phân tích biến đổi khí hậu, về cơ bản các chỉ tiêu truyền
thống sau đây vẫn được sử dụng: Gia trị hiện tại ròng (NPV); Tỷ lệ lợi ích - chi phí (BCR);
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR)
Ông cũng lưu ý, khi áp dụng CBA đối với biến đổi khí hậu, đặc biệt trong đánh giá
chính sách thay thế để tối ưu hoá lợi ích ròng sẽ xuất hiện một số dạng không chắc chắn mà
người làm CBA cần phải tính tới. Điều này sẽ giúp hạn chế được những rủi ro và khả năng
phản hồi ngược của kết quả tính toán, giúp cho quyết định chính sách chính xác hơn.
3. Kết luận
Áp dụng kỹ thuật phân tích chi phí-lợi ích đối với biến đổi khí hậu là nội dung đã
được các nhà kinh tế học môi trường bàn đến từ lâu, tuy nhiên việc vận dụng nó chưa nhiều
để quyết định chính sách lựa chọn phù hợp với thực tiễn của mỗi nước. Sự hạn chế của vận
dụng CBA trong phân tích biến đổi khí hậu có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến
nguyên nhân do tính không chắc chắn mà những người làm CBA chưa thể lường hết được.
Hơn nữa CBA thường tiến hành ở 3 giai đoạn (trước, trong và sau quá trình diễn ra) để có sự
đánh giá và so sánh, tuy nhiên đối với biến đổi khí hậu việc xác định 3 giai đoạn không hề dễ
dàng như một chương trình hay dự án. Tuy nhiên CBA sử dụng cho phân tích biến đổi khí
hậu xét về mặt khoa học và thực tiễn hoàn toàn có cơ sở, chính vì vậy nội dung này cần được
tiếp tục nghiên cứu và mở rộng phạm vi cũng như phân nhánh trong những vấn đề liên quan
đến biến đổi khí hậu.
20

Áp dụng kỹ thuật phân tích chi phí - lợi ích cho biến đổi khí hậu
Thứ hai, 30 Tháng 11 2009 03:18
Biến đổi khí hậu (BĐKH) mang tính đặc trưng riêng, đó là những vấn đề liên quan đến sự
nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng, tính chất khắc nghiệt của thời tiết, làm đảo lộn
mùa gây nhiễu loạn…
Đặt vấn đề.
Trong việc đưa ra các chính sách công, người ra quyết định thường phải cân nhắc lựa
chọn giữa cái giá phải trả cho thực hiện chính sách và lợi ích thu về từ chính sách đó
mang lại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự lựa chọn quyết định của các nhà ra chính sách
gặp rất nhiều khó khăn vì những sự lựa chọn mang tính chất định tính hay trực quan,
thiếu một tính toán có tính định lượng, cũng tương tự như vậy đối với vấn đề biến đổi khí
hậu, để thích ứng với biến đổi khí hậu và đưa ra những chính sách nhằm giảm thiểu tác
động tiêu cực của biến đổi khí hậu đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa chi phí bỏ ra và
lợi ích thu về, thường những đề xuất định tính khó thuyết phục người ra quyết định,
nhưng nếu có một tính toán cho thấy được lợi ích ròng của việc ra quyết định, hay hiệu
quả của việc chi phí đó sẽ dễ thuyết phục nhà quản lý hay người làm chính sách. Phân
tích chi phí-lợi ích-CBA (Cost-Benefit Analysis) là công cụ kỹ thuật cho phép đưa ra một
tính toán định lượng, quy đổi tất cả các chi phí và lợi ích về một đơn vị đo lường thống
nhất là giá trị tiền tệ giúp cho người ra quyết định dễ dàng lựa chọn phương án của mình
trong quyết định chính sách công và đối với những chính sách liên quan đến biến đổi khí
hậu. Như vậy thông qua phân tích chi phí-lợi ích, một chính sách hay một hoạt động được
thực hiện khi và chỉ khi lợi ích của chính sách hay hoạt động đó thu về lớn hơn so với chi
phí bỏ ra. Trong trường hợp có nhiều chính sách hay hoạt động phải lựa chọn trong hoàn
cảnh nguồn lực có hạn thì chính sách hay hoạt động nào có lợi ích ròng lớn nhất sẽ được
lựa chọn.
I. Phân tích chi phí-lợi ích với những vấn đề liên quan đến biến đổi khí hâu.
Đối với biến đổi khí hậu, CBA có thể đóng góp cho những câu hỏi trọng tâm mà các nhà
hoạch định chính sách đang đòi hỏi cần phải giải quyết như (1) Nên giảm bao nhiêu
lượng khí thải (GHGs) gây hiệu ứng nhà kính hiện nay để tránh những thiệt hại trong
tương lai do biến đổi khí hậu? (2) Khi nào nên giảm bớt khí xả thải gây hiệu ứng nhà

kính sẽ mang lại hiệu quả nhất?(3) Làm thế nào để giảm bớt xả thải khí gây hiệu ứng Nhà
kính? (4) Những ai phải giảm bớt khí xả thải gây hiệu ứng nhà kính. Như vậy để trả lời 4
câu hỏi này, CBA có thể thực hiện 3 câu hỏi đầu và câu hỏi thứ tư CBA không có chức
năng vì nó mang tính công bằng và hiển nhiên ai xả thải nhiều thì người đó phải có trách
nhiệm giảm thải, nó mang tính nguyên tắc và không hề làm phức tạp hoá vấn đề CBA
liên quan đến biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) mang tính đặc trưng riêng, đó là những vấn đề liên quan đến sự
nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng, tính chất khắc nghiệt của thời tiết, làm đảo lộn
mùa gây nhiễu loạn…và không còn tuân thủ những quy luật truyền thống mà trước đây
con người đã xác định, như vậy những đặc trưng đó liên quan đến những quyết sách mới
đòi hỏi con người phải thích ứng và có những biện pháp thích hợp để hạn chế tác động
tiêu cực, tận dụng những tác động có tính tích cực. Nhìn nhận trên góc độ kinh tế, liên
quan đến CBA phân tích chi phí cơ hội cần được xem xét trong bối cảnh của biến đổi khí
hậu, ngoài ra những vấn đề liên quan khác như nguy cơ tiềm ẩn, tính không thể đảo
21
ngược, tính bình đẳng và các bội số chuẩn cũng cần được tính đến trong phân tích.
Phân tích chi phí - lợi ích (CBA) là một thuật ngữ rộng có tính kỹ thuật, trước đây nó chỉ
được giới hạn trong khuôn khổ phân tích kỹ thuật định lượng cho một dự án và được giới
hạn trong một phạm vi địa lý cũng như khoảng thời gian nào đó. Hiện nay nó được phát
triển rộng hơn gồm hai khái niệm liên quan là phân tích tài chính và phân tích kinh tế.
Phân tích tài chính chỉ liên quan đến dòng tiền vào và dòng tiền ra của nhà đầu tư, hay
người ta thường gọi dạng phân tích này là dựa trên quan điểm cá nhân. Còn phân tích
kinh tế không chỉ tính toán đến dòng tiền vào và dòng tiền ra của nhà đầu tư mà còn liên
quan đến những tác động tiêu cực và tích cực tới môi trường và xã hội, do vậy dạng phân
tích này thường được gọi dựa trên quan điểm xã hội. Như vậy đều là CBA nhưng kết quả
phân tích tài chính sẽ có sự khác biệt so với phân tích kinh tế, đây là điểm mấu chốt đòi
hỏi các nhà làm CBA cần hết sức lưu ý. Đối với những vấn đề liên quan đến biến đổi khí
hậu thường sử dụng phân tích kinh tế sẽ phù hợp hơn. Mở rộng CBA, trong nhiều trường
hợp, việc định lượng lợi ích do đầu tư mang lại đối với môi trường và xã hội gặp rất
nhiều khó khăn, thậm chí không thể, để khắc phục tồn tại này người ta đã sử dụng

phương pháp phân tích đa mục tiêu và phân tích chi phí hiệu quả, trường hợp này vận
dụng rất tốt cho biến đổi khí hậu khi lựa chọn công nghệ cho giảm thiểu lượng khí thải
gây hiệu ứng nhá kinh như CO2 và CH4, bởi lẽ việc tính toán cho giảm một đơn vị phát
thải tiến hành dễ dàng nhưng lợi ích của việc giảm thải đó có tính xã hội không thể định
lượng được.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp sử dụng CBA là kỹ thuật rất hiệu quả để đưa ra quyết
định chính sách ngay, chẳng hạn thông qua các kịch bản của biến đổi khí hậu đã được
khẳng định đối với mực nước biển dâng buộc chúng ta phải xây dựng hệ thống đê biển
ngăn sự xâm nhập của nước biển trong dài hạn, chi phí và lợi ích cho mỗi kịch bản đều có
thể xác định được về giá trị tiền tệ, từ đó chúng ta có thể quyết định nên chọn phương án
nào là hiệu quả nhất cho nhà ra quyết định về mặt chính sách.
Trong trường hợp sử dụng CBA cho phân tích biến đổi khí hậu, về cơ bản các chỉ tiêu
truyền thống sau đây vẫn được sử dụng:
Gia trị hiện tại ròng (NPV)
Chỉ tiêu này hay sử dụng nhất trong phân tích kinh tế là giá trị hiện tại ròng (Net Present
Value). Đại lượng này xác định giá trị lợi nhuận ròng hiện thời khi chiết khấu dòng lợi
ích và chi phí trở về với năm cơ sở bắt đầu (năm thứ nhất). Hai công thức được sử dụng:
hoặc
Phương án được quyết định là phương án có NPV dương, trong trường hợp có nhiều
phương án lựa chọn thì phương án nào có NPV lớn nhất sẽ là phương án được ưu tiên để
quyết định.
Tỷ lệ lợi ích - chi phí (BCR)
Tỷ lệ lợi ích - chi phí là tỷ lệ của tổng giá trị hiện tại của lợi ích so với tổng giá trị hiện tại
của chi phí
22
Tỷ lệ này so sánh lợi ích và chi phí đã được chiết khấu. Trong trường hợp này, lợi ích
được xem là lợi ích thô bao gồm cả lợi ích môi trường và xã hội, còn chi phí bao gồm
vốn cộng với các chi phí vận hành, bảo dưỡng và thay thế cũng như những chi phí cho
môi trường và xã hội.
Phương án được quyết định là phương án có BCR lớn hơn 1, trong trường hợp có nhiều

phương án khác nhau phải lựa chọn thì phương án được quyết định là phương án có BSR
lớn hơn 1 lớn nhất.
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ k (Internal Rate of Return - IRR) được định nghĩa như là hệ số
mà qua đó giá trị hiện thời của lợi ích và chi phí là bằng nhau. Hệ số k tương đương với
tỷ lệ chiết khấu (r), có thể xác định bằng cách suy diễn khi thoả mãn biểu thức sau:
Hoặc
IRR được các tổ chức tài chính sử dụng rộng rãi.
Giá trị IRR sau khi tính toán sẽ được so sánh với lãi suất về tài chính hoặc tỷ lệ chiết
khấu để xem xét mức độ hấp dẫn về tài chính hoặc kinh tế của dự án.
Tỷ suất này rất nhạy cảm với biến thiên của lãi suất ngân hàng trong ngắn hạn cũng như
dài hạn, chính vì vậy nó thường được sử dụng cho phân tích đô nhạy trong CBA.
II. Tính rủi ro, không chắc chắn và không đảo ngược cần lưu ý khi thực hiện CBA
đối với biến đổi khí hậu.
Vấn đề cơ bản nhất can thiệp của con người đối với biến đổi khí hậu là giảm khí thải nhà
kính thông qua các biện pháp khác nhau như sử dụng năng lượng thay thế, năng lượng tái
tạo, duy trì và phát triển trồng rừng Người ta cho rằng với việc giảm khí thải nhà kính
sẽ hạn chế được sự nóng lên toàn cầu, tuy nhiên mức giảm như thế nào và hiệu quả mang
lại vẫn còn là bài toán khó. Những hệ quả kinh tế và xã hội trong tính toán giảm thiểu-
phần quyết định trong tính toán chi phí và lợi ích vẫn tồn tại nhiều rủi ro. Chính vì vậy
trong việc đánh giá, dự báo những biến đổi khí hậu cần phải xem xét tới tính không chắc
chắn, từ đó sẽ có những chiến lược và chính sách hợp lý hơn. Đối với những phân tích
kinh tế có tính tới cả tính không chắc chắn sẽ giúp cho thực hiện kế hoạch ứng phó với
biến đổi khí hậu trong tưong lai giảm bớt những rủi ro. Thông thường rủi ro trong đầu ra
của biến ngẫu nhiên thường được mô tả bởi một xác suất gắn với đầu ra đó. Trong một số
trường hợp, sự phân phối xác suất được biểu hiện khách quan, trong đó thường đề cập tới
rủi ro. Phân phối xác suất chủ quan được thừa nhận nhiều hơn, trong đó đề cập tới tính
23
không chắc chắn.
Khi áp dụng CBA đối với biến đổi khí hậu, đặc biệt trong đánh giá chính sách thay thế để

tối ưu hoá lợi ích ròng sẽ xuất hiện một số dạng không chắc chắn mà người làm CBA cần
phải tính tới như sau.
Thứ nhất, tính không chắc chắn trong việc xem xét tỷ lệ khí thải thực tế. Các nghiên cứu
về mặt kỹ thuật đều giả thiết về tỷ lệ khí thải hiện nay so sánh với tương lai và cho thấy
có sự tiến triển thông thường ngày càng tăng xét từ điểm khởi đầu. Những tính toán về
lượng khí CO2 hiện nay do sử dụng nhiên liệu hoá thạch, hay nạn phá rừng giảm khả
năng hấp thụ CO2 là nguồn gôc làm cho tăng lượng khí nhà kinh trong bầu khí quyển.
Vậy đối với CBA chọn phương án tỷ lệ nào cần phải xem xét kỹ lưỡng.
Thứ hai, tính không chắc chắn về giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Liên quan
tới vấn đề này là tồn tại sự khác biệt đáng kể giữa việc ước lượng chi phí trong hệ thống
sản xuất điện sử dụng phổ biến nhiên liệu hoá thạch và việc tái tạo rừng.
Thứ ba, tính không chắc chắn về sự liên kết khoa học. Vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay
trong giới khoa học còn có nhiều tranh cãi, tuy nhiên những biểu hiện thực tế của biến
đổi khí hậu đều được xã hội thừa nhận. Do vậy việc thực hiện CBA cũng cần phải lưu ý
tới tính khẳng định và tranh luận của các nhà khoa học liên quan đến biến đổi khí hậu để
có tính toán phù hợp.
Thứ tư, tính không chắc chắn trong đánh giá chi phí và lợi ích. Đây là vấn đề cần phải
xem xét kỹ lưỡng và có phương pháp xác định và tính toán phù hợp. Ví dụ như việc tính
toán tác động của mực nước biển dâng và sự cần thiết phải xây dựng hệ thống đê điều để
ngăn chặn dâng cao của nước biển dễ dàng hơn so với tính toán ảnh hưởng tới nông
nghiệp hay đa dạng sinh học. Mặt khác việc tính toán thiệt hại do thời tiêt khắc nghiệt và
bão lũ đảm bảo chính xác là không đơn giản.
Thứ năm, tính không chắc chắn trong những giả thiết và lựa chọn chính sách. Điều này
liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế như ước tính ảnh hưởng của việc thải khí nhà kinh liên
quan đến trợ cấp than đá hay điện năng. Đối với mô hình cân bằng chung, cần phải tính
tới độ co giãn của hàng hoá thay thế-giá trị của chúng cần sử dụng trong mô phỏng số
liệu hoặc dựa trên độ co giãn ước tính qua lịch sử hoặc phán đoán của người làm mô
hình. Tính không chắc chắn và sự phù hợp với thực tế.
Thứ sáu, tính không chắc chắn về hiệu quả của chính sách. Điều này cần xem xét tới
những tác động của chính sách đưa ra, ví dụ khi sử dụng một mức thuế các bon nhất định

sẽ tác động tới sự thay thế nhiên liệu phù hợp hơn, từ đó ảnh hưởng tới biến động của thị
trường nhiên liệu liên quan đến khí hiệu ứng nhà kính.
Thư bảy, tính Không chắc chắn trong chi phí và lợi ích tổng hợp. Đối với chi phí và lợi
ích tổng hợp có thể là một nhân tố quan trọng trong việc đánh giá những sự lựa chọn của
việc giảm thiểu khí nhà kính. Tuy nhiên những chi phí và lợi ích tổng hợp này cũng có
những sự lệ thuộc vào tính không chắc chắn đáng kể, do vậy ảnh hưởng tới sự tính toán
trong CBA.
Như vậy đối với việc thực hiện CBA liên quan đến biên đổi khí hậu, nếu chúng ta chú ý
tới những tính không chắc chắn có thể xảy ra sẽ giúp cho hạn chế được những rủi ro và
khả năng phản hồi ngược của kết quả tính toán, giúp cho quyết định chính sách chính xác
hơn.
24

×