Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.08 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU LỜI
Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như:
công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay,
chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và
phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa
chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một
vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối
cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền
tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính
sách tiền tệ ,em quyết định chọn đề tài:
“CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2005-2010”.
Đề tài gồm 2 phần chính:
Chương I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ
Chương II: Thực trạng thực thi chính sách tiền tệ giai đoạn 2005-2010 và giải pháp
hoàn thiện chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Đề tài sẽ hệ thống hoá những vấn đề có tính lý luận về chính sách tiền tệ trong nền
kinh tế thị trường đồng thời qua việc khảo sát quá trình sử dụng các công cụ của chính sách
tiền tệ ở Việt Nam (từ năm 2005 - 2010) nhằm đánh giá thực trạng thực thi chính sách tiền
tệ Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi chính sách tiền ở Việt Nam trong thời gian tới.
Bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự hướng
dẫn thêm của cô giáo. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Cao Thị Ý Nhi đã
giúp em hoàn thành đề tài.
1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó
1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ.


Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống Chính sách Kinh tế
của Nhà nước, do Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thưc hiện để thực hiện việc quản lý vĩ mô
đối với nền kinh tế, nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định trong từng thời kỳ nhất
định.
Theo luật NHNNVN: “ CSTT quốc gia là một bộ phận của Chính sách Kinh tế - tài
chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân….”
1.2 Vai trò chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng tiền
lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW có thể kiểm soát
được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền
và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát
toàn bộ hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng.
2. Mục tiêu chính sách tiền tệ
2.1 Công ăn việc làm cao
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng
hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng
cưòng mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào sự taưng trưởng liên
tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên.
2.2 Tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trong nhất của chính sách tiền tệ.
Sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: lãi suất và số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng
hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự gia
tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác động
2
lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp.
2.3 Ổn định giá cả

Ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Ổn định giá cả
giúp cho Nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiệu quả hơn vì loại
trừ được sự biến động của giá cả. Ổn định giá cả giúp cho môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút
vốn đầu tư, khai thác mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân sản xuất
đem lại nguồn lợi cho mình cũng như xã hội.
2.4 Ổn định lãi suất
Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biết động của lãi suất làm cho nền
kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực
hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông qua
nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi
của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động
của cơ chế thị trường.
2.5 Ổn định thị trường tài chính
Một lý do rõ ràng của việc thành lập hệ thống dự trữ liên bang là hệ thống đó có thể
thúc đẩy một hệ thống tài chính ổn định. Việc ổn định thị trường tài chính cũng được thúc
đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất gay nên sự lưỡng lự lớn cho các
tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất là một vấn
đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn về tài
chính như chúng ta đã biết.
2.6 Ổn định thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối là thị trường mà ở đó tiền tệ của các nước khác nhau được đem
ra trao đổi với nhau, chính tại thị trường này tỷ giá hối đoái được xác định. Việc tỷ giá ổn định
không chỉ có tác động tích cực do một phần vốn đầu tư USD trước đây có thể chuyển vào TTCK để
“đánh sóng” mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với việc củng cố niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách tỷ giá luôn là một yếu tố vĩ mô quan trọng để nhà nhà đầu tư nước ngoài xem xét khi họ có
3
ý định đầu tư vào Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của đông tiền, từ đó
tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó.
3. Nội dung cơ bản của chính sách tiền tệ
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho nền kinh

tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể thông qua hoạt
động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối đoái (mua bán ngoại tệ) và
để điều tiết mức tiền cung ứng, NHTW các nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi
suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một
điều hiển nhiên, bởi nó được sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế
lại như máu lưu thông trong cơ thể con người.
4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
4.1 Công cụ tái cấp vốn
Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương
mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng
lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai
thông khả năng thanh toán của họ.
4.2 Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều
chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
4.3 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ,
điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương
mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng
hay giảm khối lượng tiền tệ.
4.4 Công cụ lãi suất tín dụng
Là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực
tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản
xuất.Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể
4
của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ
nhất định.
4.5 Công cụ hạn mức tín dụng
Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống
chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà

Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh
tế.
4.6 Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu
và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy
bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân
thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ
của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho
chính sách tiền tệ.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010 VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG THỜI GIAN TỚI.
I.THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2005-2010
1.Thành tựu đạt được.
1.1 Năm 2005: Thực hiện chính sách thắt chặt
a. Bối cảnh kinh tế:
Tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2005 ước tính giảm 5-7 điểm phần trăm so với
năm 2004, trong đó tốc độ cho vay bằng ngoại tệ chậm hơn và tốc độ cho vay bằng VNĐ
nhanh hơn năm 2004. Việc giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng chủ yếu diễn ra ở các NHTM
5
nhà nước, trong khi các NHTM cổ phần lại đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng so
với năm 2004. Tăng trưởng tín dụng của khu vực NHTM nhà nước giảm chủ yếu là do khu
vực này tiếp tục cơ cấu lại nợ và nỗ lực nâng cao chất lượng tín dụng (trong các năm trước
tốc độ tăng trưởng tín dụng là quá cao). Để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế, ngày 20/4/2005 NHNN đã ban hành Chỉ thị số 02/2005/CT-NHNN yêu cầu các tổ chức
tín dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn. NHNN chỉ tài trợ ngắn hạn để đáp ứng

nhu cầu thiều hụt tạm thời vốn khả dụng của các NHTM qua các nghiệp vụ của NHNN,
chủ yếu là thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ:
Trên cơ sở theo dõi sát diễn biến kinh tế và tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước đã điều
hành khá linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, điều tiết kịp thời cung- cầu vốn trên thị
trường tiền tệ và nhu cầu thiếu hụt vốn khả dụng của các NHTM.
- Về điều hành lãi suất: 02 lần tăng lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam từ 7,5% - 7,8% -
8,25%/năm vào tháng 02 và tháng 12/2005; 03 lần tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu: lãi
suất tái cấp vốn tăng từ 5% - 5,5% - 6% - 6,5%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 3% - 3,5% - 4% -
4,5%/năm vào tháng 1 và tháng 4 và tháng 12/2005; 02 lần tăng lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của
pháp nhân tại TCTD: loại không kỳ hạn tăng từ 0,2% - 0,3% - 0,5%; có kỳ hạn đến 6 tháng tăng từ
0,5%-0,7%-1,2%/năm; có kỳ hạn trên 6 tháng tăng từ 0,7%-1% -1,5% vào tháng 4 và tháng 9/2005.
Lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ trong 10 tháng đầu năm 2005 tăng khoảng
15,8% so với tháng 12/2004. Nguyên ngân của sự biến động này là do: (1) lạm phát còn
cao; (2) tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các quý đều tăng; (3) lãi suất trên thị trường quốc tế
có xu hướng tăng; (4) NHNN điều chỉnh tăng lãi suất; và (5) các NHTM cạnh tranh giữ thị
phần. Tuy chưa có nghiên cứu cụ thể, nhưng thực tế cho thấy sự cạnh tranh để giữ thị phần
giữa các NHTM có tác động không nhỏ đến sự biến động lãi suất trong năm 2005.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Giao dịch 3 phiên/tuần, chủ yếu là chào mua, là công cụ chủ yếu hỗ
trợ vốn khả dụng cho các NHTM, có 116 phiên giao dịch, thời hạn từ 15 - 45 ngày, lãi suất dao động
quanh mức 6%/năm. Doanh số giao dịch của nghiệp vụ thị trưởng mở đạt 102.511 tỷ VNĐ, tăng 65,5%
so với năm 2004
- Nghịêp vụ chiết khấu và tái cấp vốn: Để hỗ trợ vốn cho các NHTM, bên cạnh nghiệp vụ thị
trường mở, NHNN đã thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn cho các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần và
6
các ngân hàng liên doanh theo hạn mức chiết khấu. Nhiều NHTM đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu
được thông báo để đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng.
- Dự trữ bắt buộc: Từ đầu năm 2005 đến nay, tỷ lệ DTBB không thay đổi so với cuối năm 2004
nhằm tránh tác động làm tăng lãi suất thị trường, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng có hiệu
quả.

- Tỷ giá được điều chỉnh giảm giá nhẹ đồng VND so với đồng USD nhằm khuyến khích xuất
khẩu, góp phần kiểm soát nhập khẩu. tỷ giá tương đối ổn định, mà một nguyên nhân chủ yếu là do
NHNN vẫn chủ trương dùng “neo” tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Diễn biến tỷ giá xem ra vẫn phù hợp
với quan hệ cung cầu. Tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng chênh lệch
không đáng kể. NHNN mua được một lượng ngoại tệ nhiều hơn mức bán ra, qua đó tăng được dự trữ
ngoại tệ.
- Bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, NHNN tiếp tục
thực hiện các giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng và cơ cấu lại NHTM:
+ Ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD; sửa đổi cơ chế cho vay,
bảo đảm tiền vay của TCTD đối với khách hàng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng để xử lý rủi ro tín dụng, quy định về hạch toán kế toán theo hướng giao quyền chủ
động cho các TCTD và đánh giá chất lượng tín dụng, quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD, chỉ đạo các TCTD thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng
tín dụng, kiểm soát rủi ro và bảo đảm an toàn hệ thống.
+ Yêu cầu các NHTM tăng vốn tự có, nâng cao tỷ lệ an toàn tối thiểu; trình Chính
phủ ban hành quyết định cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2006 và xây
dựng Đề án cổ phần hoá Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long; chỉ đạo các
TCTD đẩy nhanh thực hiện các cấu phần về hiện đại hoá công nghệ, quản trị kinh doanh và
rủi ro, nâng cao chất lượng nhân sự và phát triển mạng lưới…
c. Kết quả:
Nhìn chung, chính sách tiền tệ năm 2005 đã có những đóng góp tích cực nhất định cho việc hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề chính sách cần
được lưu ý.
Trước hết, thị trường tín dụng của các khu vực NHTM nhà nước và cổ phần năm 2005 cho thấy
lãi suất cho vay tăng, song ít có tác động hạn chế cầu tín dụng trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế nhanh
và lãi suất thực thấp, mà chỉ chủ yếu làm dịch chuyển phần nào cầu tín dụng bằng ngoại tệ sang cầu tín
dụng bằng VNĐ (lưu ý là tốc độ tăng tín dụng bằng ngoại tệ năm 2004 cao hơn nhiều so với năm 2003
7
và cũng cao hơn tốc độ tăng tín dụng bằng VNĐ). Điều này phần nào phản ánh hiệu lực chính sách lãi
suất của NHNN còn hạn chế, do thị trường tiền tệ chưa hoàn thiện và thị trường vốn còn không ít méo

mó.
Thêm vào đó, việc điều tiết cung - cầu về vốn và lãi suất của NHNN bị hạn chế do nhiều luồng
vốn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN, đặc biệt là luồng chu chuyển vốn của khu vực chính
phủ. Một ví dụ là năm 2005 tiền gửi ngân sách tại NHNN tăng nhiều, qua đó đã rút một lượng tiền
không nhỏ khỏi lưu thông, gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ (đến tháng 9/2005 NHNN
bơm tiền qua các kênh tăng khoảng 9%, nhưng thực tế tiền cơ bản chỉ tăng 2,4%). Mặt khác, một lượng
tiền gửi của Kho bạc nhà nước được gửi tại các NHTM đang phát huy khả năng tạo tiền mà NHNN khó
có thể tính toán chính xác để có thể chủ động điều tiết tiền tệ theo mục tiêu đã định.
Một vấn đề nữa là NHNN cũng đã nhận thức rõ ràng hơn rằng việc sử dụng các biện pháp can
thiệp để duy trì tỷ giá ổn định về lâu dài sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường ngoại
hối và hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, NHNN dường như vẫn chưa có đủ sự tự chủ cần thiết để xây
dựng và thực thi một chính sách tiền tệ đủ hiệu lực và một chính sách tỷ giá linh hoạt hơn. Trên thực tế,
NHNN đã thiên về mục tiêu ngắn hạn hơn là cân nhắc đầy đủ hơn đến các mục tiêu dài hạn. Điều này
đang hạn chế khả năng điều chỉnh linh hoạt chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trước những biến
động kinh tế vĩ mô, nhất là trong bối cảnh lạm phát có khả năng còn đứng ở mức tương đối cao trong
thời gian tới.
Tăng trưởng huy động vốn, tín dụng và tổng phương tiện thanh toán xấp xỉ mức
tăng cùng kỳ năm 2004 và có khả năng vượt chỉ tiêu cả năm đề ra ( tăng trưởng tín dụng
khoảng 25%, tổng phương tiện thanh toán tăng 22%). Mặt bằng lãi suất thị trường tăng nhẹ
so với cuối năm 2004, nhưng không tăng đột biến (lãi suất huy động bằng VND tăng từ
0,03%-0,08%/tháng, lãi suất cho vay tăng ở mức thấp hơn, khoảng 0,05%/tháng so với cuối
năm 2004); tỷ giá VND so với USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 0,73%, dự
kiến cả năm 2005 tăng khoảng 1%.
1.2 Năm 2006: Chính sách tiền tệ thắt chặt.
VN vẫn tiếp tục phải đối phó với lạm phát ngày càng tăng cao. Do đó, Chính phủ tiếp tục duy
trì và thực hiện linh hoạt chính sách tiền tệ thắt chặt đã áp dụng từ cuối 2005 nhằm kiềm chế lạm phát,
góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo đó, trong năm
2006, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất chính thức nhằm tránh phát tín hiệu làm tăng lãi suất thị
trường, giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, tiếp tục
thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý. Kết quả là tổng phương tiện thanh toán năm 2006 đã được

giữ ở mức tăng 33,59% so với năm 2005, nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng 29,65% của năm 2005;
8
tín dụng tăng chậm lại nhưng chất lượng tín dụng được nâng cao; kim ngạch xuất nhập khẩu tăng tăng
22,2%; tốc độ tăng GDP đạt 8,17%, tốc độ tăng CPI giảm còn 6,6%.
1.3 Năm 2007 : Chính sách tiền tệ thắt chặt
a. Bối cảnh kinh tế
Tình hình kinh tế thế giới lại trải qua những xáo trộn mạnh, đặc biệt trên thị trường tài chính do
xuất phát từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ và giá dầu tăng lên mức kỷ lục 100 USD/thùng. Trong
khi đó, lạm phát ở nền kinh tế VN đang ngày càng gia tăng.
b. Thực hiện các công cụ chính sách tiền tệ
Các giải pháp điều hành CSTT
- Tăng cường hoạt động thị trường mở.
Trong phạm vi khối lượng tiền cung ứng tăng được Chính phủ phê duyệt năm 2007,
NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết có hiệu quả khối lượng tiền
cung ứng này, nhằm đạt mục tiêu mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, hạn chế
sức ép tăng giá đồng Việt Nam, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối, nhưng đồng thời
cũng hút mạnh lượng tiền đã cung ứng ra cho mục đích mua ngoại tệ để giảm mức độ dư
thừa vốn khả dụng của các NHTM, hạn chế sự giá tăng của tổng phương tiện thanh toán
(TPTTT), qua đó giảm áp lực lạm phát.
Điều chỉnh, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc gấp 1,5 – 2 lần, kiểm soát tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán, kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ để hạn chế mức độ dư thừa vốn khả
dụng của các TCTD, qua đó hạn chế tăng trưởng tín dụng vào những lĩnh vực kém hiệu quả, giảm sức
ép tăng lạm phát trong những tháng cuối năm.
- Giữ nguyên các mức lãi suất như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là
6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại NHNN nhằm ổn định
thị trường; bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với pháp nhân kể từ ngày 1/1/2007.
- NHNN đã thực hiện, ban hành Chỉ thị 03/2007/CT – NHNN yêu cầu các TCTD
thực hiện kiểm soát tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở
mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư
kinh doanh chứng khoán nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD.

Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng năm 2007 vẫn đạt rất cao, dư nợ cho vay của hệ thống
ngân hàng tăng 53,89% so với năm 2006.
9
- Cũng trong năm, bên cạnh việc đưa 144.000 tỷ VND ra thị trường để mua 9 tỷ USD tăng dự
trữ ngoại hối; NHNN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ +/- 0,25% lên +/-0,5% và đến 12/12/2007, tiếp tục
nới rộng biên độ lên +/-0,75% nhằm giảm áp lực lạm phát, tăng tính chủ động cho các TCTD trong
hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Đồng thời NHNN đã thực hiện việc mua ngoại tệ theo nhu cầu bán của
các NHTM, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức quốc tế với tỷ giá phù hợp để hạn chế sức ép tăng giá
đồng Việt Nam và tăng cường mức dự trữ ngoại hối Nhà nước. Chênh lệch giữa tỷ giá mua ngoại tệ
của NHNN và tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng đã được thu hẹp, phản ánh sát cung cầu
ngoại tệ trên thị trường.
- Hạn chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, thực hiện cho vay chiết
khấu trong hạn mức phân bổ.
- Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ,
NHNN đã duy trì hạn mức Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối
nhà nước, (xác định theo quý) với biên độ +/- 10% thay vì xác định hạn mức theo giá trị
tuyệt đối như trước đây. Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính
linh hoạt trong điều hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn
vốn, đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
- NHNN đã quản lý an toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước, đáp ứng mục tiêu thanh
khoản và sinh lời ở mức độ nhất định. Tổng dự trữ ngoại hối Nhà nước tính theo tuần nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ mức 13,6 tuần vào thời điểm cuối năm 2006 lên gần 18
tuần năm 2007.
- Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Ngoại hối; triển
khai thực hiện Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình
trạng đô la hóa trong nền kinh tế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tăng tổng phương
tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ CSTT để thu hút tiền dư thừa của các TCTD để hạn chế
việc mở rộng quá mức đầu tư tín dụng và tăng TPTTT, NHNN tiếp tục thực hiện hoàn thiện cơ sở pháp

lý và yêu cầu các TCTD thực hiện các quy định về kiểm soát rủi ro, quy mô, chất lượng tín dụng và cho
vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
c. Kết quả:
10

×