PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ngày nay khi nền kinh tế của các nước trên thế giới ngày càng
phát triển thì sự giao lưu văn hoá chính trị, xã hội giữa các quốc gia
ngày càng được mở rộng. Để giao tiếp được với nhau thì đòi hỏi các
quốc gia khác nhau trên thế giới, phải biết sử dụng thành thạo một
ngôn ngữ chung ngoài tiếng mẹ đẻ của mình. Trong các ngôn ngữ
giao tiếp thông dụng trên thế giới, Tiếng Anh đang được coi là ngôn
ngữ chung phổ biến nhất.
Từ nhiều năm nay, việc học ngoại ngữ, nhất là đối với môn
Tiếng Anh ngày càng được phổ biến rộng rãi và môn học này đang trở
thành môn học bắt buộc trong các trường học. Bởi vậy yêu cầu đặt ra
là làm thế nào để giờ dạy đạt chất lượng và hiệu quả cao. Yêu cầu này
đòi hỏi người giáo viên phải luôn hoàn thiện mình không chỉ về trình
độ chuyên môn, mà cả về phương pháp dạy học và thủ thuật dạy học.
Là một giáo viên Tiếng Anh ở trường THCS, tôi luôn trăn trở là
dạy làm sao cho trò hiểu và phát huy được tính tích cực, sáng tạo ở
các em. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không
phải là của riêng ai mà là vấn đề chung cho mọi giáo viên. Cùng một
vấn đề song người thầy phải làm thế nào để nó đơn giản nhất, dễ hiểu
nhất khi truyền đạt cho các em, giúp các em hiểu và khắc sâu được
vấn đề. Nhất là làm sao để thu hút các em vào hoạt động học tập, từ đó
tạo ra ấn tượng tốt đối với các em để các em đi đến với bộ môn một
cách tự nguyện, hứng thú chứ không là một sự áp đặt, ép buộc học
sinh. Trên thực tế vấn đề đã được nhiều quý thầy cô đồng nghiệp đề
cập đến, song với bản thân tôi cũng có những quan điểm riêng của
mình trong vấn đề này. Vì vậy, với điều kiện thực tế của nhà trường,
thực trạng học sinh trong bộ môn Tiếng Anh ở trường THCS Vĩnh Mỹ
A tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề và đưa vào nghiên cứu thực tế.
1
B. NỘI DUNG:
1. Thực trạng của vấn đề:
Như chúng ta đã biết, Tiếng Anh là một môn học mới và tương
đối khó đối với học sinh. Đặc biệt là đối với học sinh nông thôn, điều
kiện về mọi mặt đối với bộ môn là thua xa các trung tâm, đô thị.
Ngoài sự hạn chế về mặt địa lý, thì việc tiếp cận với nhiều nguồn tư
liệu, điều kiện học tập là hoàn toàn trái ngược với những nơi có điều
kiện học tập, trao đổi, rèn luyện kỹ năng trong thực tế của môn học.
Vì vậy vấn đề “Làm thế nào để gây được hứng thú cho học sinh trong
giờ học Tiếng Anh?” luôn là câu hỏi lớn mà tất cả giáo viên dạy bộ
môn đều muốn tìm ra câu trả lời.
Thực tế cho thấy ở một số tiết học, nếu như người thầy không
tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh, học sinh không suy nghĩ
và làm việc tích cực mà chỉ ghi bài và lắng nghe một cách thụ động,
máy móc thì không hiểu được nội dung của bài. Như vậy hiệu quả học
tập thấp, học sinh sẽ dần chán môn học, gây khó khăn cho việc học
tập. Để khắc phục được tình trạng đó thì phương pháp hiệu quả nhất là
mỗi giáo viên phải tự chọn ra cho mình phương pháp dạy phù hợp
thông qua một quá trình tìm tòi, thử nghiệm và kinh nghiệm giảng dạy
thực tế của bản thân trên cơ sở hiểu biết về lý luận dạy học.
Trong quá trình giảng dạy, cùng với việc học hỏi, tham khảo tài
liệu và những đóng góp của thầy cô đồng nghiệp, bản thân tôi đã rút ra
được một số kinh nghiệm nhằm thu hút được phần lớn học sinh tham
gia vào bài học một cách chủ động, sáng tạo. Kinh nghiệm nhỏ bé này
được tôi áp dụng trong quá trình giảng dạy của mình và thu được kết
quả rất khả quan. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày kinh nghiệm thực tế
của mình trước các đồng nghiệp để trao đổi học tập nhằm không
ngừng nâng cao tay nghề với mục đích cuối cùng là làm sao cho học
sinh say mê hơn nữa đối với môn học Tiếng Anh.
2. Nội dung và các biện pháp chính:
2
Trong quá trình học, học sinh sẽ đạt được kết quả cao nếu như
các em xác định được động cơ học tập của mình. Đối với học sinh
THCS, động cơ học tập sẽ có được khi các em cảm thấy có hứng thú
đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của mình qua các giờ học. Vì
vậy các biện pháp sau đây phần nào đáp ứng được yêu cầu đó.
2.1. Phương pháp gây hứng thú cho học sinh thông qua đồ
dùng trực quan:
Theo quan điểm của tôi tất cả các phương tiện dạy học như
băng, đài và các phương tiện trực quan như tranh, ảnh, đồ vật thật,…
đều có thể gây hứng thú cho học sinh trong học tập. Trong đó, việc sử
dụng đồ dùng trực quan là phương pháp gây hứng thú cho học sinh có
hiệu quả nhất trong giảng dạy Tiếng Anh. Vì phương tiện trực quan
đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và ý nghĩa, giúp học sinh liên tưởng được ý nghĩa của ngôn ngữ
một cách trực tiếp, dễ dàng, dễ khắc sâu mà không cần phiên dịch.
Với các chủ đề gần gũi, sát thực với cuộc sống thường ngày của
bộ sách giáo khoa Tiếng Anh từ khối 6 đến khối 9, giáo viên có thể
giới thiệu từ mới hay tình huống thông qua các phương tiện trực quan
như hình ảnh hay đồ vật thật.
Ví dụ: Khi dạy (Unit 2: At school – English 6). Để giới thiệu từ
mới:
a book → một quyển sách
a school bag → một cái cặp học sinh
a pencil → một cái bút chì
an eraser → một cục tẩy
Giáo viên có thể chỉ vào các đồ vật có thật ở trong lớp và giới
thiệu:
“This is a door” or “ That is a desk” ,…
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh nhìn vào đồ vật và đoán nghĩa
của từ. Phương pháp này cho các em hứng thú học tập và sự tập trung
3
cao vì các từ mà giáo viên giới thiệu là những đồ vật rất gần gũi và dễ
đoán nghĩa đối với các em.
Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có sẵn đồ vật thật ở trường
nên giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh để thay thế. Trong bộ sách giáo
khoa Tiếng Anh mới, hình ảnh được đưa ra để giới thiệu rất sẵn, sống
động và giống với hình ảnh thật trong cuộc sống. Vì vậy trong khi
giảng dạy, giáo viên không những phải biết khai thác và sử dụng
chúng một cách tối đa mà còn phải sử dụng một cách linh hoạt và sáng
tạo. Đây là cách dạy nhẹ nhàng nhất, dễ hiểu nhất nhưng kết quả đạt
được rất cao và rất phù hợp với đối tượng học sinh trung học cơ sở ở
vùng sâu, vùng xa.
Ví dụ: Khi dạy bài 3 ( Unit 3: At home – English 6 ), để dạy
các từ:
an armchair: một cái ghế bành
a couch: một cái ghế sa lông dài
a television: một cái ti vi
a stereo: một giàn/máy nghe nhạc
a telephone: một cái điện thoại.
Giáo viên có thể dùng tranh trong sách hoặc phóng to các bức
tranh nói về các đồ vật trên lên một tờ giấy to và treo lên bảng nhằm
tạo sự chú ý của học sinh vào bài học. Sau đó giáo viên đưa ra các câu
hỏi để gợi mở cho học sinh nói về chủ đề của bài.
Giáo viên hỏi: Em hãy nhìn vào tranh và cho cô biết các vật
dụng trong bức tranh thường được sử dụng ở đâu?
Học sinh trả lời: Các đồ vật thường được sử dụng ở nhà.
⇒
Giáo viên giới thiệu chủ đề “My house” (nhà của tôi).
Sau phần mở bài giáo viên có thể sử dụng các bức tranh trên để giới
thiệu từ mới theo các bước sau:
Giáo viên treo tranh lên bảng.
4
Giáo viên yêu cầu học sinh nói về tên của các đồ vật ở trong
tranh bằng Tiếng Việt. Sau đó giáo viên hướng dẫn cách đọc và viết
bằng Tiếng Anh tương ứng.
Telephone / Television / Couch / Bookself /
Ngoài việc sử dụng các đồ dùng trực quan để giới thiệu từ mới,
chủ đề hay tình huống của bài, giáo viên có thể sử dụng chúng để
củng cố bài học nhằm giúp cho học sinh khắc sâu hơn nội dung của
bài và học sôi nổi hơn.
Ví dụ: Unit 5: ( Part B) It’s time for recess. (Giờ ra chơi) -
English 7.
Sau khi dạy xong bài học, giáo viên có thể sử dụng tranh để
củng cố lại từ mới cũng như củng cố lại kiến thức mà các em đã học
trong bài bằng cách:
Giáo viên treo tranh nói về các hoạt động tiêu biểu trong giờ ra
chơi lên trên bảng.
Sau đó giáo viên yêu cầu học sinh gấp sách vở lại, nhìn vào
tranh và nói về hoạt động của các bạn học sinh trong giờ ra chơi.
Ví dụ: Picture a - Student says: the girls are skipping.
Picture b - Student says: the boys are talking.
Qua thực tế giảng dạy trên lớp, tôi thấy các giáo cụ trực quan
luôn làm cho giờ học sôi nổi, đạt hiệu quả cao và gây được hứng thú
đối với học sinh trong giờ học.
2.2. Phương pháp khêu gợi trí tò mò và tính ham hiểu biết
của học sinh:
Đối với lứa tuổi học sinh THCS sự tò mò và tính ham hiểu biết
của các em rất lớn nên các em dễ bị lôi cuốn vào những vấn đề mà
chúng quan tâm.
Do vậy, khi biên soạn sách giáo khoa Tiếng Anh từ lớp 6 đến
lớp 9 các nhà biên soạn sách hiện hành đã tập trung vào những chủ đề
5
gần gũi, sát thực với học sinh, phù hợp với trình độ, tâm lí lứa tuổi,
nhu cầu, sở thích cũng như vốn sống của các em.
Ví dụ 1: Khi nói đến chủ đề về công việc hàng ngày (Unit 5 –
English 6) có các chủ điểm sau:
A. My day. (Một ngày của tôi)
B. My routine. (Công việc thường nhật của tôi)
Nói đến chủ đề về đồ ăn và đồ uống có các chủ điểm như:
- Food and Drink (Unit 10 – English 6)
- At the store (Unit 11 – English 6)
- Our food (Unit 12 – English 7)
Nói về chủ đề địa điểm (places):
- (A) Our house (Nhà của tôi)
- (C) Around the house (Xung quanh ngôi nhà). (Unit 6 –
English 6)
- Asking the way (Unit 8 – English 7)
Nói về chủ đề bạn bè: My friend. (English 8)
Nói về chủ đề nghỉ ngơi: Unit 14: Summer Vacation (English 6)
A. Vacation destinations. (Unit 14 – English 6)
B. A holiday in Nha Trang. (Unit 9 – English 7)
⇒ Tất cả các chủ đề này đều gây hứng thú cho học sinh và khêu
gợi được ở các em tính tò mò rất cao. Vì vậy giáo viên phải biết cách
đưa ra các tình huống để lôi cuốn các em vào chủ đề của bài cũng như
những hoạt động ở trên lớp.
Ví dụ 1: Khi muốn giới thiệu chủ đề:
“How do you feel?” Unit 10 (English 6)
Để lôi cuốn sự chú ý của học sinh vào bài học, giáo viên vừa
hành động (uống nước) vừa nói. “I’m thirsty” – cô khát. Sau đó, giáo
viên hỏi học sinh “How do you feel?” - Em cảm thấy thế nào? Học
sinh trả lời “Em nóng”, “Em mệt”,…
⇒ Giáo viên giới thiệu bài.
6
Như vậy học sinh sẽ nhanh chóng hiểu được yêu cầu của giáo
viên và dễ dàng thực hành.
Student 1: I’m hot.
Student 2: I’m tired.
Ví dụ 2: Khi dạy Unit 12: “Sports and Pastime” - Thể thao và
các trò giải trí (English 6) để thu hút được sự chú ý của học sinh vào
hoạt động trên lớp, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi.
T: Do you like sports? (Các em có thích thể thao không?)
Ss: Yes, we do. (Có)
T: Vậy hôm nay chúng ta sẽ nói về chủ đề: “Thể thao và các trò
giải trí”.
Sau đó giáo viên giới thiệu cho học sinh một số từ mới nói về
các môn thể thao và hướng dẫn cách đọc cho các em.
Tiếp theo, để lôi cuốn học sinh vào hoạt động thực hành, giáo
viên có thể làm mẫu.
T: I play volleyball và hỏi: Which sport do you play?
(Tôi chơi bóng chuyền) (Em chơi môn thể thao nào?)
Học sinh sẽ dễ dàng hiểu được yêu cầu của giáo viên và thực
hành.
Student 1: I play soccer.
Student 2: I play badminton,
hay khi dạy Unit 6: Part B. It’s time for recess. (English 7)
Sau khi học xong phần B
1
về những hoạt động mà học sinh Việt
Nam thường làm sau giờ học. Ở phần B
2
học sinh sẽ được học một bài
đọc nói về những hoạt động của học sinh Mỹ trong thời gian rãnh rỗi.
Để khêu gợi trí tò mò của học sinh vào bài học giáo viên có thể hỏi
như sau:
T: Do you know what students in the USA like to do in their free
time?
(Các em có biết học sinh ở Mỹ thích làm gì vào lúc rỗi không?)
7
Ss: guess the activities. (đoán hành động)
T: Now look at the pictures given and compare with your
guessing.
(Bây giờ các em hãy nhìn vào tranh cho sẵn và so sánh với
những dự đoán của em.)
Chắc chắn học sinh sẽ rất thích thú và tò mò muốn biết các bạn
học sinh Mỹ thường tham gia hoạt động gì lúc rảnh rỗi.
2.3. Phương pháp thúc đẩy động cơ học tập của học sinh:
Như đã nói ở trên, học sinh chỉ có được động cơ học tập khi các
em cảm thấy hứng thú đối với môn học và thấy được sự tiến bộ của
mình. Do vậy, ngoài việc sử dụng các tình huống thách đố nhằm hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh vào những hoạt động trên lớp, giáo viên còn
phải biết khích lệ, động viên các em trong học tập.
Để giúp các em nhận thấy được sự tiến bộ trong học tập, giáo
viên cần phải chú ý đến tính vừa sức trong dạy học, tránh không nên
đưa ra những yêu cầu quá cao đối với học sinh. Ngoài ra giáo viên cần
khuyến khích học sinh học theo phương châm thử nghiệm và chấp
nhận mắc lỗi trong quá trình thực hành.
Thực tế cho thấy, có những học sinh biết nhưng không dám nói
vì sợ bị mắc lỗi. Một số em khác không dám giơ tay phát biểu vì sợ
nói sai bị các bạn cười, cô giáo chê. Theo tôi, đây chính là yếu tố tâm
lí mà giáo viên dạy Tiếng Anh cần phải xem xét để giúp các em có
được hứng thú học tập hay ít ra là tích cực hơn trong các giờ học.
Trong quá trình dạy, giáo viên không nên quá khắt khe với những lỗi
mà học sinh mắc phải (Ví dụ: lỗi phát âm, lỗi chính tả, thậm chí là lỗi
ngữ pháp) để tránh cho các em tâm lí sợ mắc lỗi khi thực hành.
* Ví dụ: Trong khi thực hành, học sinh nói: She play badminton
hoặc We has a dog,
Thay vì ngắt lời khi các em để sửa lỗi, giáo viên có thể để cho
học sinh trả lời xong, giáo viên khích lệ hay cổ vũ các em bằng những
8
câu như: “Very good”, “Thank you” or “Not bad”,… Sau đó giáo viên
gọi học sinh khác nhận xét và sửa lỗi cho bạn hoặc giáo viên sửa lỗi
để tránh làm cho các em nhụt chí hay mất hứng thú luyện tập.
2.4. Phương pháp sử dụng các trò chơi trong giảng dạy Tiếng
Anh:
Biết sử dụng các trò chơi trong giảng dạy Tiếng Anh sẽ tạo cho
học sinh có hứng thú trong học tập đối với môn học. Vì vậy, giáo viên
cần phải biết vận dụng các trò chơi trong các bài dạy để cho học sinh
“học mà chơi, chơi mà học”. Tuy nhiên, tùy vào từng bài cụ thể mà
giáo viên có thể chọn ra trò chơi phù hợp với mục đích của bài học.
2.4.1. Trò chơi “Bingo” được dùng để kiểm tra vốn từ vựng
của học sinh đồng thời kiểm tra độ nhanh nhạy và kĩ năng nghe
của các em:
* Ví dụ: Khi dạy phần: “Numbers” (Số đếm) trong sách giáo khoa
Tiếng Anh 6, giáo viên chuẩn bị sẵn một dãy số bất kì không theo thứ
tự từ 1 đến 20.
Giáo viên yêu cầu học sinh vẽ một bảng gồm 9 ô vuông và viết
vào mỗi ô vuông 1 số bất kì nào đó trong nhóm từ 1 đến 20.
Giáo viên đọc lần lượt các con số trong dãy số mà mình đã
chuẩn bị sẵn. Học sinh lắng nghe và đánh dấu vào ô con số mà giáo
viên vừa đọc. Học sinh nào có 3 ô liên tục được đánh dấu thì hô to
“Bingo”. Học sinh nào “Bingo” bảng số của mình trước là người chiến
thắng.
2.4.2. Trò chơi: “Jumble words” được dùng để kiểm tra từ
vựng:
* Ví dụ: Khi dạy xong chủ đề “Food and Drink” trong Tiếng Anh 6.
Để kiểm tra xem học sinh có thuộc từ vựng và nhanh mắt hay không
giáo viên có thể viết một số từ bị xáo trộn lên bảng.
Eronga / awtre / riutf / ppael / iol – kcoigno
và yêu cầu học sinh xếp lại thành từ có nghĩa
9
→ orange (quả cam)
→ water (nước)
→ fruit (hoa quả)
→ apple (quả táo)
→ cooking oil (dầu ăn)
2.4.3. Trò chơi “Slap the board”. Dùng để kiểm tra từ vựng
hoặc củng cố lại kiến thức:
* Ví dụ: Khi dạy bài 8 – “Places” trong sách Tiếng anh lớp 7, giáo
viên viết các danh từ nói về địa điểm vào các mảnh giấy nhỏ và gắn
lên bảng.
Giáo viên gọi từng cặp học sinh một lên bảng.
Giáo viên hô to từ Tiếng Việt, học sinh vỗ vào từ được gọi bằng
Tiếng Anh ở trên bảng. Em nào vỗ nhanh và đúng nhiều hơn sẽ là
người chiến thắng.
2.4.4. Guessing game:
* Ví dụ: Khi dạy bài 9 – “The body” trong sách Tiếng Anh lớp 6, giáo
viên có thể lồng ghép trò chơi hỏi đoán như sau:
Sau khi học sinh được học cách mô tả hình dáng bên ngoài của
các nhân vật, giáo viên cho một học sinh lên bảng và ghi tên của một
bạn trong lớp mà các em muốn miêu tả vào một mảnh giấy mà không
cho các bạn khác biết. Sau đó giáo viên cho học sinh tả bằng Tiếng
Anh và yêu cầu các học sinh khác đoán xem bạn đó là ai.
* Ví dụ: This girl is tall and thin. She has an oval face. She has long
black hair. Who’s she?
Nếu em nào đoán đúng thì được lên thay thế người trên bảng.
2.4.5. Trò chơi “ Nought and crosses”:
10
Hospital Movie theater Restaurant
Bank Market
School
* Ví dụ: Trong giờ luyện nói – Unit 3 (English 8) để thực hành cách
nói về vị trí của đò vật, giáo viên cho các em chơi trò chơi “ Nought
and crosses” (O and X) bằng cách.
Kẻ 9 ô vuông lên bảng, mỗi ô chứa 1 từ.
Clock Knives Calendar
Rice cooker Cup board Stove
Sink Disk rack Flowers
Rồi chia lớp thành 2 nhóm: Nhóm 1 là Nought (o) và nhóm 2 là
Crosses (x). Hai nhóm lần lượt chọn từ trong ô và đặt câu theo
mẫu.
EX. The fruit is in the bowl.
The plate is on the table.
Nhóm nào đặt câu đúng sẽ được 1 (o) hoặc 1(x). Nhóm nào có
3(o) hoặc 3(x) trên một hàng ngang hay chéo trước thì sẽ chiến thắng.
Trò chơi này có thể áp dụng trong các bài tập trả lời câu hỏi.
Ngoài các trò chơi trên, chúng ta có thể áp dụng các loại trò chơi
khác như: Lucky numbers, wordsquare, networds, pyramid,… để cho
giờ dạy thêm sinh động và thu hút được sự chú ý của học sinh.
* Kết quả:
Sau khi thử nghiệm những phương pháp trên đối với khối 6 tôi
thấy đề tài thực sự mang tính khả thi. Căn cứ vào kết quả năm học
2013–2014 tôi thấy chất lượng giảng dạy đã được cải thiện một cách
rõ rệt, (đặc biệt ở tỉ lệ học sinh yếu kém).
Kết quả học kỳ I, năm học: 2013 – 2014
Giỏi Khá TB Yếu Kém
Lớ
p
SS SL % SL % SL % SL % S
L
%
6C 40 2 5 8 20 17 42.5 13 32.
11
5
6D 38 1 2.6 07 18.4 13 34.2 15 39.5 2 5.3
Kết quả cuối năm học: 2013-2014
Giỏi Khá TB Yếu Kém
Lớ
p
SS SL % SL % SL % SL % SL %
6C 39 02 5.1 12 30.8 19 48.
7
06 15.4
6D 38 01 2.6 07 18.4 20 52.
6
09 23.7 01 2.6
(Sĩ số lớp 6C giảm 01 h/s)
Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa đề tài này ra để cùng thảo luận,
chia sẻ và rút kinh nghiệm để góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy.
C. KẾT LUẬN
Qua thực tế giảng dạy Tiếng Anh ở trường THCS, tôi có thể nói
rằng việc gây được hứng thú cho học sinh đối với môn học là vô cùng
quan trọng vì: Nếu như các em có được hứng thú đối với môn học các
em mới nỗ lực phấn đấu hết mình để đạt được kết quả cao trong học
tập. Do đó để gây được hứng thú học tập cho học sinh việc sử dụng đồ
dùng trực quan, các trò chơi cũng như việc khích lệ các em tham gia
thực hành trong quá trình giảng dạy của mình là luôn cần thiết. Tuy
nhiên để vận dụng thành công còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà
yếu tố tiên quyết nhất đó chính là cái tâm của người giáo viên trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
* Kiến nghị:
Cung cấp thêm tranh ảnh theo các chủ điểm bài học để mỗi bài
học có sự sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh.
12
Gia đình và các tổ chức xã hội luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi,
cho các em đến trường với tâm trạng phấn khởi trong học tập.
Vĩnh Mỹ A, ngày 10 tháng 01
năm 2015
Duyệt của BGH Người thực
hiện
Huỳnh Thụy Hạ Vân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sổ tay người dạy Tiếng Anh – Tú Anh, Phan Hà, May Vi
Phương, Hồ Tấn – NXB Giáo dục 2002.
2. Những mẫu câu Tiếng Anh – Hà Văn Bửu – NXB TP. Hồ Chí
Minh 1996.
3. Thiết kế bài giảng Tiếng Anh THCS – Chu Quang Bình – NXB
Hà Nội 2003.
13
MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
I. Đặt vấn đề 1
II. Nội dung 1
1. Thực trạng của vấn đề 1-2
2. Nội dung và các biện pháp chính 2
2.1. Phương pháp gây hứng thú cho học sinh thông qua đồ
dùng trực quan
3
2.2. Phương pháp khêu gợi trí tò mò và tính ham hiểu biết
của học sinh
5
2.3. Phương pháp thúc đẩy động cơ học tập của học sinh 7
2.4. Phương pháp sử dụng các trò chơi trong giảng dạy
Tiếng Anh
8
III. Kết luận 10
14
1. Kết quả 10
2. Kết luận 11
3. Kiến nghị 11
Danh mục tài liệu tham khảo 12
15