Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn trong Chương trình 135 giai đoạn II tại huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.93 KB, 82 trang )

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Biểu đồ 1: Tỷ trọng các loại đất theo mục đích sử dụng đến năm 2008………………33
Biểu đồ 2: Tỷ trọng giá trị các ngành kinh tế trong tổng giá trị sản xuất……………...35
Biểu đồ 3: Tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2005-2008 của huyện Minh Hóa……………….40
Biểu đồ 4: Dự kiến tốc độ tăng trưởng tổng giá trị sản xuất…………………………..61
Biểu đồ 5: Dự kiến cơ cấu kinh tế tới năm 2020…...………………………………….62
Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư theo loại công trình đầu tư từ năm 2006 – 2010 ở huyện
Minh Hóa……………………………………………………………………………...43
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CN – TTCN : Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
CSHT: cơ sở hạ tầng
CT: Chương trình
CTMTQG: Chương trình mục tiêu quốc gia
HĐND: Hội đồng nhân dân
KBNN: Kho bạc nhà nước
KTKT: kinh tế kỹ thuật
KTXH : kinh tế xã hội
NSĐP: Ngân sách địa phương
NSNN: Ngân sách Nhà nước
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TM – DV : Thương mại – Dịch vụ
TTCX: Trung tâm cụm xã
UBDT: Ủy ban Dân tộc
UBMTTQ: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND: Ủy ban nhân dân
2
MỤC LỤC
1.3 Nguồn nhân lực........................................................................................32
2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của huyện.......................................33


2.1 Thực trạng các ngành và lĩnh vực kinh tế.............................................33
2.2 Thực trạng phát triển các lĩnh vực xã hội..............................................36
2.3 Thực trạng nghèo đói...............................................................................38
1. Kết quả đầu tư .............................................................................................42
2. Hiệu quả đầu tư...........................................................................................44
3. Những tồn tại vướng mắc ..........................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................80
PHỤ LỤC...........................................................................................................................81
3
LỜI NÓI ĐẦU
Minh Hóa là một huyện biên giới miền núi, vùng sâu, vùng xa của tỉnh Quảng
Bình với gần 1/5 số dân là dân tộc thiểu số. Kể từ 01/07/1990, sau hơn 18 năm tái thành
lập và thực hiện công cuộc đổi mới, tình hình KTXH nói chung và bộ mặt nông thôn
miền núi của huyện Minh Hóa đã có nhiều đổi thay, đời sống đồng bào từng bước được
nâng lên. Song hơn một nửa số hộ vẫn nằm trong tình trạng nghèo đói với tỷ lệ hộ nghèo
là 69,05% vào năm 2005. Cuộc sống đồng bào còn nhiều khó khăn, trình độ sản xuất
thấp kém, lạc hậu, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất. Nhiều nơi thiếu nước sinh hoạt trầm
trọng, CSHT sơ sài, giao thông đi lại khó khăn, nhiều vùng chưa có đường ô tô đến xã,
chưa có trạm phủ sóng truyền hình, thông tin báo chí đến chậm. Nhìn chung, đồng bào
dân tộc ĐBKK vẫn chưa thoát khỏi tình trạng đói nghèo, chưa hoà nhập được với các
dân tộc trong cộng đồng.
Từ những điều trên càng khẳng định các chính sách CT phát triển KTXH các xã
ĐBKK ra đời là đúng và đáp ứng được nguyện vọng của đồng bào các xã ĐBKK hiện
nay. CT 135 ra đời cũng nhằm mục đích như thế. CT 135 ra đời với những mục tiêu và
nhiệm vụ sau 7 năm đầu giai đoạn I (1999 - 2005) và hơn 4 năm giai đoạn II (2006 - 2010)
thực hiện đã đạt được một số kết quả ban đầu làm giảm bớt số hộ nghèo, đã nâng cao được
mức thu nhập bình quân đầu người ở một số dân tộc, nâng cao một bước trách nhiệm
của các cấp các ngành đối với đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đang gặp
nhiều khó khăn.
Trong CT 135, đầu tư phát triển CSHT là một trong những nhiệm vụ quan trọng

nhất đối với các xã ĐBKK ở huyện Minh Hóa.
Qua một thời gian thực hiện, CSHT ở các xã này đã có những bước phát triển
vượt bậc, nhưng cũng có những tồn tại hạn chế nhất định. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm
quan trọng của hoạt động đầu tư xây dựng CSHT đối với quá trình phát triển KTXH các
xã ĐBKK, mặt khác lại là người con sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình, em luôn suy nghĩ
phải tìm ra những giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng CSHT cho
quê hương. Do đó em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển
cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn trong Chương trình 135 giai đoạn II tại
huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình”.
4
Nội dung cụ thể được trình bày và phân tích qua 3 nội dung chính sau:
Chương I: Hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng của Chương trình 135.
Chương II: Thực trạng đầu tư cơ sở hạ tầng trong Chương trình 135 giai đoạn II
của huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng trong Chương
trình 135 giai đoạn II tại huyện Minh Hóa tỉnh Quảng Bình.
Mặc dù đã tham khảo rất nhiều tài liệu có giá trị cũng như sự giúp đỡ tận tình của
các thầy cô hướng dẫn nhưng cũng không tránh được những sai sót trong các vấn đề đưa
ra. Em mong có sự đóng góp của các thầy cô để chuyên đề được chính xác và có tính
khoa học hơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Bùi Đức Tuân đã giúp đỡ em hoàn thành
Chuyên đề này!
5
CHƯƠNG I: HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA CHƯƠNG TRÌNH
135
I.HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG
1. Đầu tư cơ sở hạ tầng
1.1 Khái niệm
1.1.1 Quan niệm về cơ sở hạ tầng
Theo nghĩa hẹp, CSHT được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất thuộc lĩnh

vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ
chức dịch vụ có chức năng đảm bảo những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những
nhu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội. Theo cách hiểu này, CSHT chỉ bao
gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên
lạc... và các đơn vị đảm bảo duy trì các công trình này.
Theo nghĩa rộng, CSHT được hiểu là tổng thể các công trình và nội dung hoạt
động có chức năng đảm bảo những điều kiện “bên ngoài” cho khu vực sản xuất và sinh
hoạt của dân cư. CSHT là một phạm trù rộng gần nghĩa với “môi trường kinh tế ”, gồm
các phân hệ: phân hệ kỹ thuật (đường giao thông, cầu cảng, sân bay, năng lượng, bưu
chính viễn thông...), phân hệ tài chính (hệ thống tài chính - tín dụng), phân hệ thiết chế
(hệ thống quản lý nhà nước và luật pháp), phân hệ xã hội (giáo dục, y tế, khoa học kỹ
thuật...), cách hiểu này rõ ràng là rất rộng, bao hàm hầu như toàn bộ khu vực dịch vụ.
1.1.2 Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Đầu tư phát triển CSHT trong nền kinh tế quốc dân là một bộ phận của đầu tư
phát triển. Đây chính là quá trình bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng CSHT
nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng ra các tài sản cố định trong nền kinh
tế. Do vậy đầu tư phát triển CSHT là tiền đề quan trọng trong quá trình phát triển KTXH
của nền kinh tế. Đầu tư phát triển CSHT trong nền kinh tế quốc dân được thông qua
nhiều hình thức xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá hay khôi phục CSHT cho
nền kinh tế.
6
1.2 Nội dung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Đầu tư phát triển CSHT bao gồm:
• Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật (gọi tắt là hạ tầng kỹ thuật)
Đầu tư cơ cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị bao gồm những bộ phận chủ yếu sau đây:
- Hệ thống giao thông.
- Hệ thống cấp nước sạch và thoát nước thải.
- Hệ thống thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải.
- Hệ thống lưới điện.
- Hệ thống bưu chính viễn thông.

- Các công viên cây xanh phục vụ vui chơi, giải trí và bảo vệ môi trường.
- Hệ thống đảm bảo ánh sáng văn hoá và an toàn giao thông đô thị: chiếu sáng,
đèn tín hiệu, biển báo giao thông.
- Vận tải hành khách công cộng.
Ngoài ra có quan điểm còn tính đến cả các lĩnh vực nhà ở, hệ thống kho tàng tập
trung, các công trình và tổ chức phục vụ công cộng như tang lễ, y tế, cơ sở xã hội, phòng
chữa cháy, phòng chống lụt bão, động đất...
Như vậy, trong cơ cấu khu vực hạ tầng kỹ thuật bao gồm hai mảng lớn: mảng thứ
nhất là các công trình cơ sở vật chất có chức năng tạo điều kiện cho toàn bộ hoạt động
KTXH như đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước, lưới điện,... Đây là những công
trình được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu về dịch vụ hàng hoá công cộng và có đặc
điểm là chúng gắn liền với chức năng đảm bảo điều kiện cho sự hoạt động bình thường
của vùng dân cư. Mảng thứ hai của hạ tầng kỹ thuật đô thị là các thiết chế tổ chức có
chức năng vận hành các công trình hạ tầng kỹ thuật hoặc cung ứng các sản phẩm hàng
hoá công cộng. Đó là các tổ chức con người được thành lập và hoạt động theo thể chế
hiện hành.
7
Việc phân biệt hai mảng hạ tầng kỹ thuật như trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Đối
với mảng thứ nhất là mảng các công trình hạ tầng kỹ thuật có tầm quan trọng đặc biệt,
đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hiệu suất vốn thấp, khó tổ chức thu hồi vốn... Nhà nước có trách
nhiệm đầu tư và có kế hoạch đầu tư thống nhất, còn đối với mảng thứ hai, tuỳ vào cơ
chế quản lý, trình độ quản lý mà có phương thức và hình thức tổ chức phù hợp.
• Đầu tư cơ sở hạ tầng xã hội
Là đầu tư phát triển hệ thống công trình vật chất, đảm bảo cho việc nâng cao trình
độ dân trí, văn hoá tinh thần của dân cư, đồng thời cũng là điều kiện chung cho quá trình
tái sản xuất sức lao động và nâng cao trình độ lao động của xã hội, hệ thống này bao
gồm:
- Các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ cho giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa
học, ứng dụng và triển khai công nghệ.
- Các cơ sở y tế, bảo vệ sức khoẻ, bảo hiểm xã hội, nghỉ ngơi, tham quan du lịch,

các công trình phục vụ cho các hoạt động văn hoá xã hội, văn nghệ, thể dục thể thao...
• Đầu tư cơ sở hạ tầng môi trường
Là đầu tư phát triển hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc bảo vệ, giữ gìn và
cải tạo môi trường sinh thái của đất nước và môi trường sống của con người:
- Các công trình phòng chống thiên tai.
- Các công trình bảo vệ đất đai, rừng, biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Hệ thống cung cấp, xử lý và tiêu thải nước sinh hoạt.
- Hệ thống xử lý chất thải công nghiệp.
1.3 Đặc điểm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
• Đầu tư CSHT đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài
Các công trình CSHT khi xây dựng thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng thời gian
thu hồi vốn lại rất lâu, thường việc thu hồi vốn phải thực hiện gián tiếp thông qua các
ngành kinh tế khác. Do vậy khi tiến hành đầu tư vào lĩnh vực này cần phải tính toán vấn
8
đề KTKT trong xây dựng và sử dụng các công trình đó. Trong quá trình đầu tư chúng ta
phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế
hoạch phân bổ nguồn lao động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn
thành trong thời gian ngắn chống lãng phí nguồn lực. Công tác thăm dò tài nguyên, xác
định nhu cầu sử dụng CSHT là công việc thiết thực trong quá trình đầu tư, góp phần
nâng cao hiệu quả kinh tế của công trình.
• Thời gian dài với nhiều biến động
Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy
tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
• Có giá trị sử dụng lâu dài
Các thành quả của thành quả đầu tư CSHT có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng
trăm, hàng nghìn năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới
như vườn Babylon ở Iraq, tượng nữ thần tự do ở Mỹ, kim tụ tháp cổ Ai cập, nhà thờ La
Mã ở Roma, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, tháp Angcovat ở Campuchia, …
• Cố định
Các thành quả của hoạt động đầu tư CSHT là các công trình xây dựng sẽ hoạt

động ở ngay nơi mà nó đựơc tạo dựng cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh
hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, cũng như việc phát huy kết quả đầu tư. Vì vậy
cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng,
phải phù hợp với kế hoạch, qui hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác
lợi thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối
của vùng lãnh thổ .
• Liên quan đến nhiều ngành
Hoạt động đầu tư xây dựng CSHT rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực. Diễn ra không những ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với
nhau. Vì vậy khi tiến hành hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các
ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi
9
trách nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính tập
trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư.
1.4 Vai trò của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đối với sự phát triển KTXH
Vai trò của đầu tư phát triển CSHT được thể hiện qua các mặt sau:
• Quyết định sự tăng trưởng và phát triển nhanh của nền kinh tế nói chung cũng
như của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, bởi đầu tư
là yếu tố quyết định trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng. Khi quy mô kinh tế đã lớn lên, để
kinh tế tăng trưởng 1% đòi hỏi vốn đầu tư chẳng những nhiều hơn về lượng tuyệt đối,
mà còn phải lớn hơn về tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP .
CSHT cung cấp các dịch vụ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các yếu tố đầu
vào, đầu ra đảm bảo cho quy trình sản xuất và tái sản xuất của đất nước được tiến hành
một cách thường xuyên liên tục với quy mô ngày càng mở rộng. Vì thế đầu tư cho CSHT
sẽ là điều kiện hết sức căn bản để cho các ngành sản xuất kinh doanh dịch vụ của đất
nước nhanh chóng đi vào hiện đại hoá, trên cơ sở đó làm tăng nhanh và liên tục năng
suất lao động của từng ngành cũng như năng suất lao động của toàn xã hội, giúp cho nền
kinh tế nước ta sớm hoà nhập với nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế
giới.

• Tạo ra sự thay đổi căn bản trong cơ cấu kinh tế.
CSHT hiện đại là điều kiện cơ bản cho nhiều ngành nghề mới ra đời và phát
triển, đặc biệt trong hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Sự phát triển của nông
thôn nước ta trong những năm gần đây là một minh chứng rõ ràng. Trước đây ở nông
thôn, giao thông không phát triển, điện thiếu thốn, hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu...
nên mọi hoạt động sản xuất ở nông thôn chậm phát triển. Những năm gần đây, nhờ đầu
tư hiện đại hoá CSHT ở nông thôn sản xuất nông nghiệp được thay đổi một cách toàn
diện, làm cho cơ cấu nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm. Ngược lại tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
10
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư CSHT có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng
đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính
trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển.
Như vậy chính sách đầu tư CSHT ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy các ngành, các địa phương trong
nền kinh tế cần phải lập kế hoạch đầu tư dài hạn để phát triển ngành, vùng đảm bảo sự
phát triển cân đối tổng thể, đồng thời có kế hoạch ngắn và trung hạn nhằm phát triển
từng bước và điều chỉnh sự phù hợp với mục tiêu đặt ra.
• Tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước
Nước ta có 7 vùng kinh tế lớn: Vùng trung du miền núi phía Bắc, Vùng đồng
bằng sông Hồng, Khu Bốn cũ, Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Vùng đồng bằng
Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Những vùng có nhiều đô thị lớn, có CSHT tốt thì
phát triển nhanh, còn những vùng núi cao, vùng sâu, CSHT lạc hậu thì chậm phát triển
làm mất cân đối cơ cấu nền kinh tế của cả nước. Do đó muốn giảm sự phát triển không
đồng đều về KTXH giữa các vùng ở nước ta, đặc biệt ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng
xa thì chúng ta cần đầu tư cho CSHT. Một hệ thống CSHT đồng bộ, hiện đại sẽ tạo điều
kiện cho các vùng này khai thác được tối đa tiềm năng và thế mạnh của mình, từ đó tạo
ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng đó. Khi hệ thống CSHT phát triển cũng tạo điều

kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, cho việc giao lưu hàng hóa đi lại giữa các vùng.
Các công trình CSHT vừa mang ý nghĩa kinh tế là môi trường cho sản xuất phát triển,
vừa mang ý nghĩa chính trị làm cho bộ mặt đô thị văn minh hơn, hiện đại hơn. Là nhịp
cầu nối liền tình đoàn kết giữa các dân tộc, các vùng trong nước.
• Tạo điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài
Đất nước muốn đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề quan trọng trước
hết là cần phải có vốn. Kinh tế nước ta còn chậm phát triển, NSNN còn rất hạn hẹp do
đó việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài là rất cần thiết. Trong những năm trở lại đây có
rất nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Phần lớn các dự án đó được đầu tư vào
11
các thành phố lớn có CSHT tốt như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng... Muốn
thu hút thành công vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải tạo ra môi trường đầu tư
trong đó CSHT là một nhân tố quan trọng. Ở đây có mối quan hệ tác động qua lại, xây
dựng và tạo ra CSHT tốt để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính vốn đầu tư
nước ngoài để đầu tư xây dựng hệ thống CSHT, tạo động lực cho các ngành sản xuất vật
chất hoạt động có hiệu quả hơn.
• Tạo điều kiện để giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân từ đó
làm tăng nguồn tích luỹ cho nền kinh tế.
CSHT phát triển cho phép chúng ta tạo ra được nhiều cơ sở sản xuất vật chất
mới, tạo điều kiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các khu vực góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời phân bổ nguồn lao động hợp lý.
Hơn nữa, sự xuất hiện của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới với công nghệ kỹ
thuật cao nên sẽ hoạt động hiệu quả hơn mang lại nhiều lợi nhuận hơn, mang lại thu
nhập cao cho người lao động.
2. Hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng
Dù cho hoạt động đầu tư CSHT có được tiến hành dưới hình thức nào và nguồn
vốn đầu tư có được hình thành từ bất cứ đâu thì hiệu quả đầu tư là một vấn đề rất phức
tạp bao gồm những nội dung kinh tế, tài chính, xã hội và những nội dung mang tính tổng
hợp.
2.1 Khái niệm hiệu quả đầu tư

Hiệu quả của hoạt động đầu tư là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ so
sánh giữa các kết quả đạt được các mục tiêu đặt ra của hoạt động đầu tư với các chi phí
bỏ ra để có kết quả đó.
- Để đánh giá hoạt động đầu tư phải sử dụng các chỉ tiêu đo lường hiệu quả.
- Hoạt động đầu tư được xem là có hiệu quả khi trị số của chỉ tiêu đo lường hiệu
quả thỏa mãn tiêu chuẩn hiệu quả trên cơ sở sử dụng các định mức hiệu quả do chủ thể
hiệu quả đặt ra. Định mức hiệu quả biểu hiện bằng số của giới hạn có thể chấp nhận
được của chủ thể hiệu quả.
12
2.2 Nguyên tắc xác định hiệu quả đầu tư
- Phải xuất phát từ mục tiêu của hoạt động đầu tư: vì mục tiêu là cơ sở để kiểm
tra xem các kết quả đó có đạt được đúng mục tiêu đề ra không và từ mục tiêu xác định
được các chỉ tiêu đo lường hiệu quả, các chỉ tiêu này sẽ được sử dụng để đánh giá hiệu
quả của hoạt động đầu tư.
- Phải xác định được tiêu chuẩn hiệu quả để đánh giá hiệu quả đầu tư: vì không
có tiêu chuẩn hiệu quả thì không thể đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư. Tiêu chuẩn
hiệu quả được xem là thước đo việc thực hiện mục tiêu của hoạt động đầu tư phát triển.
- Cần chú ý đến độ trễ của thời gian trong đầu tư khi đánh giá hiệu quả đầu tư:
thời gian từ khi thực hiện đầu tư đến khi vốn đầu tư phát huy tác dụng thường kéo dài.
Vốn chỉ phát huy tác dụng khi bước vào giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Trong thời
gian xây dựng, thi công vốn bỏ ra vẫn chưa phát huy tác dụng, các kết quả của hoạt động
đầu tư chưa được đưa vào vận hành, khai thác. Tính đến độ trễ của thời gian để biết
được kết quả do chính vốn đầu tư đó mang lại phát huy vào giai đoạn nào. Bởi vậy mà
khi xem xét hiệu quả đầu tư, thường tính sự gia tăng về sản lượng, doanh thu… cho
doanh nghiệp hay cho nền kinh tế. Có vậy mới biết được vốn đầu tư đã tác động làm
tăng thêm bao nhiêu sản lượng, doanh thu, và lấy phần tăng thêm đó so với vốn đầu tư.
- Cần sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả đầu tư: trong quá
trình đầu tư phát triển, các mục tiêu có thể thống nhất hoặc mâu thuẫn với nhau do đó
phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu để từ đó so sánh, lựa chọn phướng án đầu tư phối
hợp các chỉ tiêu hiệu quả để có được phương án đầu tư hiệu quả nhất.

- Khi đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phải đảm bảo tính khoa học và tính
thực tiễn. Có nghĩa là khi đánh giá phải kết hợp phân tích định lượng với phân tích định
tính; kết hợp giữa các chỉ tiêu phân tích hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Bởi, có
những lợi ích chúng ta lượng hóa được và cũng có những lợi ích chúng ta không thể
lượng hóa được. Dự án đầu tư không chỉ phát huy tác dụng trong một ngành hay một địa
phương mà còn có tác động lan tỏa tới các ngành, các địa phương khác do đó phải tính
đến cả những hiệu quả gián tiếp mà dự án đầu tư mang lại. Ngoài ra phải đảm bảo tính
thực tiễn, dựa trên những số liệu thực tế, đáng tin cậy khi đánh giá hiệu quả đầu tư, có
13
như vậy việc đánh giá mới chính xác và đưa ra được những quyết định đúng trong đầu
tư.
2.3 Phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư
2.3.1 Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá kết quả hoạt động đầu tư
2.3.1.1 Khối lượng vốn đầu tư thực hiện
Đó là tổng số tiền đã chi để tiến hành hoạt động của các công cuộc đầu tư bao
gồm: chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa cấu trúc hạ tầng, mua sắm
thiết bị máy móc để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy
định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
2.3.1.2 Tài sản cố định huy động tăng thêm
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây
dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm hàng hoá, hoặc tiến hành
các hoạt động dịch vụ cho xã hội được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây
dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng có thể đưa vào hoạt động được
ngay.
Giá trị các tài sản được huy động được tính theo công thức sau:
F = Ivo – C
Trong đó:
Ivo là vốn đầu tư đã thực hiện của các đối tượng, hạng mục công trình đã được
huy động.
C là các chi phí không làm gia tăng tài sản cố định.

2.3.1.3 Năng lực sản xuất và sản lượng sản phẩm tăng thêm
Năng lực sản xuất tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu xã hội của các tài sản
cố định đã được huy động, sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt
động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư.
14
Sản lượng sản phẩm, dịch vụ là sản lượng các sản phẩm, dịch vụ chủ yếu của dự
án được làm ra trong kỳ. Chỉ tiêu này đánh giá khả năng chiếm lĩnh thị trường và mức
độ đáp ứng nhu cầu xã hội của sản phẩm, dịch vụ của dự án.
2.3.2 Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư
2.3.2.1 Đánh giá hiệu quả KTXH chương trình, dự án đầu tư
Đánh giá hiệu quả KTXH của CTMTQG và của từng dự án là một trong những
nội dung cần thiết của CT để đảm bảo tính thiết thực của các CT và dự án nhưng là một
vấn đề hết sức phức tạp, nhất là đánh giá hiệu quả về mặt xã hội. Hiện nay, việc đánh giá
hiệu quả vẫn dừng ở mức độ đánh giá định tính nhiều hơn là định lượng. Về đánh giá
định lượng chỉ tập trung vào kết quả số lượng so với chỉ tiêu đặt ra, chưa đánh giá cụ thể
về chất lượng bằng các chỉ số cụ thể.
Trước hết xuất phát từ thước đo KTXH là vấn đề trừu tượng, không thể lượng
hóa một cách chính xác. Hoạt động KTXH có đối tượng ảnh hưởng rất rộng, gồm các
mối quan hệ trực tiếp, gián tiếp hết sức đa dạng, phong phú, tác động qua lại nhiều
chiều. Các CT hoạt động cùng hướng đến một đối tượng là một tổ chức, cá thể hoặc cả
cộng đồng, nhưng tác động trên các phương diện khác nhau nên ảnh hưởng lên đối
tượng cũng mang tính tổng hợp, khó phân tách được ảnh hưởng của từng mặt hoạt động.
Chưa có cơ chế phản hồi và thu thập thông tin phản hồi đầy đủ từ các bên liên quan. Mặt
khác, việc thu thập các thông tin này đòi hỏi quá trình nghiên cứu tỉ mỉ, kỹ lưỡng với kỹ
năng, phương pháp phân tích khoa học và chi phí tốn kém. Trong khi chưa có cơ chế nào
bắt buộc phải thu thập thông tin để phân tích đánh giá các mặt hoạt động KTXH trước
khi thực hiện các CT. Nhìn cụ thể vào CT 135, CT có đối tượng là dân cư khu vực miền
núi, vùng sâu, vùng xa, cùng là đối tượng của các CT mục tiêu khác như xóa đói giảm
nghèo, nước sạch và vệ sinh môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, CT kiên cố hóa
trường lớp học,… Mỗi kết quả của sự phát triển trên một mặt nào đó đều có phần đóng

góp nhất định của các CT hoạt động ở các lĩnh vực khác. Từ thực tế này, việc đánh giá
hiệu quả riêng rẽ của từng CT là không chính xác. Tuy nhiên, vẫn có những phương
pháp phân tích, đánh giá tương đối xác thực mức độ tác động của từng mặt hoạt động,
loại trừ các yếu tố ảnh hưởng khác. Đây là vấn đề mới đối với thực tiễn quản lý KTXH ở
nước ta, mức độ áp dụng còn rất hạn chế.
15
Bên cạnh các vấn đề mang tính kỹ thuật của sự đánh giá thì một nguyên nhân
khác khá cơ bản của hiện tượng này là cơ chế quản lý kinh tế còn mang nặng tính bao
cấp, chưa được đặt trên sự đánh giá chi phí - lợi ích kinh tế và chi phí kinh tế một cách
khách quan và công bằng, thông qua thước đo giá cả - tiền tệ, mức độ thỏa mãn của các
đối tượng tham gia các quan hệ KTXH, hoặc một thước đo nào đó. Các cơ quan quản lý
(nhất là quản lý nhà nước) chưa có một quan niệm nhất quán về hiệu quả KTXH được
xác định trên cơ sở so sánh hiệu quả và chi phí với cùng một thước đo. Đối với các vùng
nông thôn, miền núi thì tư tưởng cấp phát, xin cho còn rất nặng nề. Chính quyền và cộng
đồng người dân còn trông chờ một cách thụ động vào các nguồn lực bên ngoài, chưa xác
định được chi phí cơ hội của những CT, dự án đầu tư không đúng chỗ, không mang lại
hiệu quả tối ưu. Tương tự, ở các cơ quan cấp trên thì mức độ đánh giá sai lệch còn lớn
hơn. Một khoản đầu tư bao giờ cũng mang lại kết quả và thay đổi nhất định, thường
được đánh giá là hiệu quả của khoản đầu tư. Kết quả hoạt động đầu tư được thể hiện
bằng hiện vật hoặc sự thay đổi được tạo ra, mà không căn cứ vào hiệu quả tác động cuối
cùng của khoản đầu tư đó. Để đánh giá đầy đủ, chính xác về hiệu quả đầu tư thì không
chỉ tính toán đến giai đoạn hoàn thành quá trình đầu tư mà phải được tính trong cả giai
đoạn sử dụng kết quả đầu tư đó, trên cơ sở so sánh chi phí sử dụng, vận hành và lợi ích
thu được, tính theo một mặt bằng thước đo.
Để đánh giá hiệu quả KTXH, cần có phương pháp tiếp cận theo tổng thể, đi sâu
phân tích, thống kê, đo lường tác động của từng mặt hoạt động nhưng khi tổng hợp đánh
giá phải đặt trong mối liên hệ mật thiết, hữu cơ với các mặt động khác. Việc đánh giá chi
phí - lợi ích, nguồn lực bỏ ra cần xét trên quan điểm chủ thể là xã hội, trong một thời
gian đủ dài và tính đến chi phí cơ hội của các bên liên quan, trong phạm vi xã hội. Đồng
thời cần tính đến các giá trị phi vật thể, văn hóa, tinh thần mà tác động của mỗi hoạt

động đầu tư mang lại.
2.3.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư
Lợi ích KTXH của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền KTXH thu được
so với đóng góp mà nền kinh tế và xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Những lợi ích
mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của đầu tư với việc thực hiện các mục tiêu
chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đóng góp này có thể được xét mang tính
16
chất định tính hoặc đo lường bằng cách tính toán định lượng. Chi phí mà xã hội phải bỏ
ra của dự án bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động
mà xã hội dành cho đầu tư thay vì sử dụng các công việc khác trong tương lai.
• Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả KTXH của dự án đầu tư xem xét ở tầm vĩ mô:
- Giá trị gia tăng ròng ký hiệu là NVA
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả KTXH của dự án đầu tư. NVA là mức
chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào (đầu vào chỉ tính chi phí vật chất không
tính chi phí về lao động).
NVA = O – (MI + I
v
)
Trong đó:
O: Giá trị đầu ra.
MI: Chi phí thường xuyên.
I
v
:Vốn đầu tư ban đầu.
- Chỉ tiêu lao động có việc làm của dự án: Được tính bằng số lao động trực tiếp
trong dự án cộng với số lao động tăng thêm của các dự án có liên quan trừ đi số lao động
bị mất tại các dự án.
- Mức tiết kiệm ngoại tệ: để tính chỉ tiêu này chúng ta phải tính được các khoản
thu chi ngoại tệ của dự án và các dự án liên đới, cùng với số ngoại tệ tiết kiệm được do
sản xuất thay thế hàng xuất khẩu, sau đó quy đồng tiền về cùng mặt bằng thời gian để

tính được số ngoại tệ do tiết kiệm từ dự án.
- Chỉ tiêu giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người có vốn hưởng lợi
tức, những người làm công ăn lương, Nhà nước thu thuế...). Chỉ tiêu này phản ánh các
tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc các vùng lãnh thổ. Để xác định
chỉ tiêu này, trước hết phải xác định được nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ được phân
phối giá trị tăng thêm của dự án, tiếp đến xác định được phần giá trị tăng thêm do dự án
tạo ra mà nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ thu được. Cuối cùng tính chỉ tiêu tỷ lệ gia
tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở
17
năm hoạt động bình thường của dự án, so sánh tỷ lệ của các nhóm dân cư hoặc vùng
lãnh thổ với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa
các nhóm dân cư hoặc các vùng lãnh thổ trong nước.
- Các chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế: Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả
năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế ngoài ra còn
có thể đánh giá những tác động khác của dự án như ảnh hưởng tới môi trường, đến kết
cấu hạ tầng...
• Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả KTXH ở tầm vi mô:
- Mức đóng góp cho ngân sách
- Mức tiết kiệm ngoại tệ
- Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án
- Mức tăng năng suất lao động của người lao động làm việc trong dự án
- Mức nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý của cán bộ...
2.3.2.3 Giám sát và đánh giá lợi ích sau dự án
Giám sát và đánh giá lợi ích của dự án (BME - Benefit Monitoring and
Evaluation) là một chuỗi các hoạt động nhằm phát huy những tác động có lợi của vốn
đầu tư cũng như để rút ra các bài học kinh nghiệm cho hoạt động đầu tư trong tương lai.
BME bao gồm ba hoạt động chính là: thu thập và phân tích thông tin gốc, giám sát lợi
ích của dự án, đánh giá lợi ích của dự án sau khi đã hoàn thành.
• Thu thập và phân tích thông tin gốc
Thông tin gốc là các số liệu và phân tích về các đặc điểm KTXH và thể chế của

những cá nhân và nhóm người chịu ảnh hưởng của dự án. Thông tin gốc luôn muốn chỉ
tình trạng trước khi có sự can thiệp, và chúng được thu thập trước khi vốn đầu tư được
phê chuẩn hoặc ngay trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện dự án.
Thông tin gốc sẽ cung cấp các thông tin để giúp các nhà lập kế hoạch và thực hiện dự án
yên tâm rằng sự can thiệp thông qua dự án đầu tư đã đáp ứng đúng nhu cầu và mong
muốn của những người mà sự can thiệp này dự định muốn giúp đỡ và tạo ra một căn cứ
18
để cho phép những người làm công tác đánh giá sau này đánh giá được ảnh hưởng của
sự can thiệp. Để đánh giá đầy đủ ảnh hưởng của dự án, điều tra gốc nên được lặp lại ít
nhất là hai lần - một lần ngay sau khi hoàn thành dự án và một lần nữa khi dự kiến tất cả
các lợi ích của dự án đều đã thành hiện thực. Cuộc điều tra lần thứ hai đặc biệt quan
trọng đối với dự án, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp và CSHT là những lĩnh vực mà
thời gian phát sinh lợi ích diễn ra khá dài.
• Giám sát lợi ích
- Việc cung cấp các dịch vụ cho người nhận
Việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho đối tượng nhận dịch vụ dự kiến phải
được xác minh rõ ràng, trước khi tiến hành đánh giá lợi ích dự án, vì đây là điều kiện
tiền đề để đạt được lợi ích dự án. Chỉ khi nào đã có những bằng chứng cho thấy những
dịch vụ mà dự án tạo ra đã đến được với người nhận dự kiến, thì khi đó mới tiến hành
các khía cạnh tiếp theo của hoạt động giám sát lợi ích. Còn nếu một bộ phận lớn trong
đối tượng thụ hưởng mục tiêu đó thực chất chưa được nhận dịch vụ mà dự án tạo ra, thì
cần tìm hiểu xem nguyên nhân gì đã gây ra tình trạng đó. Tìm hiểu nguyên nhân phải đi
tới việc đề ra những hành động cần thiết để tăng thêm số người thụ hưởng các dịch vụ
mà dự án tạo ra.
- Việc sử dụng dịch vụ của người nhận
Phần lớn các dự án cung cấp dịch vụ cho người nhận đều vì những mục đích nhất
định, và việc đạt được lợi ích đó cũng được đánh giá trên giả định rằng, chúng sẽ được
sử dụng theo những cách thức nhất định và phục vụ cho những mục đích nhất định. Dự
án nào cũng đều có những cơ chế nào đó để đảm bảo rằng dịch vụ của dự án được sử
dụng đúng mục đích đề ra. Tuy vậy, với những dự án cung cấp những hàng hóa có thể

dễ dàng bán lại đổi lấy tiền, như dự án trợ cấp thực phẩm chống suy dinh dưỡng, thì còn
cần xác minh rằng, người nhận hàng hóa đó thực sự sử dụng chúng cho mục đích đã
định. Đôi khi, người nhận có thể không được hướng dẫn thỏa đáng về việc sử dụng và
bảo dưỡng hợp lý các phương tiện mà dự án đã cung cấp. Khi đó, có thể cần tổ chức và
đào tạo các nhóm chuyên vận hành và bảo dưỡng các phương tiện được bàn giao.
- Hiệu ứng do các dịch vụ tạo ra
19
Tuy lợi ích cuối cùng của dự án sẽ được phản ánh qua việc thu nhập của người
dân tăng lên, hoặc có những cải thiện rõ ràng về chất lượng cuộc sống của họ, nhưng
những tác động đó chỉ thực sự diễn ra nếu các dịch vụ mà dự án tạo ra có "hiệu ứng"
trực tiếp đến những ai sử dụng chúng. Thí dụ, hiệu ứng trực tiếp của dịch vụ thủy nông
mà các dự án tưới tiêu mang lại là khả năng thâm canh tăng vụ và tăng sản lượng nông
sản sản xuất ra... Giám sát lợi ích dự án sẽ cho ta thông tin về việc, liệu các dịch vụ của
dự án có tạo ra hiệu ứng trực tiếp như đã mô tả ở trên hay không.
• Đánh giá lợi ích
Đánh giá là quá trình xác định một cách hệ thống tính hiệu quả, tác dụng và ảnh
hưởng của một dự án hay CT theo các mục tiêu ban đầu đề ra. Mục đích của việc đánh
giá là để cải tiến các hoạt động đang diễn ra và giúp nâng cao năng lực quản lý việc lập
kế hoạch, lập CT và ra quyết định, dựa trên những kinh nghiệm đã đúc kết được.
Việc đánh giá dự án sẽ được tiến hành theo ba giai đoạn như sau:
- Đánh giá giữa kỳ: Bao gồm việc đánh giá tiến độ thực hiện dự án, tính phù hợp,
hiệu quả và tác dụng của dự án. Nó cũng bao gồm việc tổng kết lại những kết quả tiềm
năng và ảnh hưởng của dự án. Việc tổng kết như vậy nên được tiến hành vào giai đoạn
giữa quá trình thực hiện dự án.
- Đánh giá kết thúc: Đánh giá kết thúc được tiến hành ngay sau khi dự án hoàn
thành - thường là trong vòng 1 năm kể từ sau khi kết thúc dự án. Tình hình lợi ích tại
thời điểm kết thúc dự án cần phải được đánh giá cẩn thận, nhất là với những dự án có
giai đoạn triển khai dài và nếu cần thì sẽ đề xuất các giải pháp khắc phục để giúp dự án
phát huy được lợi ích tối đa.
- Đánh giá kiểm chứng: Đánh giá kiểm chứng được tiến hành một vài năm sau

khi hoàn thành dự án, khi mà tất cả lợi ích của dự án đều đã được phát huy đầy đủ. Mục
đích của đánh giá kết thúc và đánh giá kiểm chứng gồm 2 phần: đánh giá các thành tựu
trong số kết quả chung thu được về các mặt hiệu quả, đầu ra và ảnh hưởng của dự án; và
rút ra các bài học quan trọng cho công tác kế hoạch hóa trong tương lai thông qua việc
cải tiến công tác xây dựng, thẩm định và thực hiện dự án.
20
II.ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH 135 GIAI ĐOẠN II
(2006-2010)
1. Giới thiệu Chương trình 135 giai đoạn II
1.1 Mục tiêu
1.1.1 Mục tiêu tổng quát
Tạo sự chuyển biến nhanh về sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường; cải thiện và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã, thôn, bản ĐBKK một cách bền vững, giảm
khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong cả nước.
Phấn đấu đến năm 2010, trên địa bàn cơ bản không còn hộ đói, giảm hộ nghèo
xuống còn dưới 30% theo chuẩn nghèo quy định tại Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg
ngày 08 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
1.1.2 Mục tiêu cụ thể
- Về phát triển sản xuất: nâng cao kỹ năng và xây dựng tập quán sản xuất mới cho
đồng bào các dân tộc, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao thu
nhập, giảm nghèo bền vững.
Phấn đấu trên 70% số hộ đạt được mức thu nhập bình quân đầu người trên 3,5
triệu đồng/ năm vào năm 2010.
- Về phát triển CSHT: các xã có đủ CSHT thiết yếu phù hợp quy hoạch dân cư và
quy hoạch sản xuất bảo đảm phục vụ có hiệu quả nâng cao đời sống và phát triển sản
xuất, tăng thu nhập.
- Các chỉ tiêu cụ thể: phấn đấu trên 80% xã có đường giao thông cho xe cơ giới
(từ xe máy trở lên) từ trung tâm xã đến tất cả thôn, bản; trên 80% xã có công trình thủy
lợi nhỏ bảo đảm năng lực phục vụ sản xuất cho trên 85% diện tích đất trồng lúa nước;

100% xã có đủ trường, lớp học kiên cố, có lớp bán trú ở nơi cần thiết; 80% số thôn, bản
có điện ở cụm dân cư; giải quyết và đáp ứng yêu cầu cơ bản về nhà sinh hoạt cộng đồng;
100% xã có trạm y tế kiên cố đúng tiêu chuẩn.
21
- Về nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho nhân dân ở các xã ĐBKK. Phấn đấu
trên 80% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trên 80% số hộ được sử dụng
điện sinh hoạt; kiểm soát, ngăn chặn các bệnh dịch nguy hiểm; tăng tỷ lệ hộ có hố xí hợp
vệ sinh lên trên 50%; trên 95% số học sinh tiểu học; 75% học sinh THCS trong độ tuổi
đến trường; trên 95% người dân có nhu cầu trợ giúp pháp lý được giúp đỡ pháp luật
miễn phí.
- Về phát triển nâng cao năng lực: trang bị, bổ sung những kiến thức về chuyên
môn nghiệp vụ, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao nhận thức pháp luật, nâng cao kiến thức
quản lý đầu tư và kỹ năng quản lý điều hành để hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ, công
chức cấp xã và trưởng thôn, bản. Nâng cao năng lực của cộng đồng, tạo điều kiện cộng
đồng tham gia có hiệu quả vào việc giám sát hoạt động về đầu tư và các hoạt động khác
trên địa bàn.
1.2 Phạm vi và đối tượng Chương trình
CT thực hiện ở tất cả các tỉnh miền núi, vùng cao; vùng đồng bào dân tộc thiểu
số ở các tỉnh Nam Bộ. Đối tượng của CT bao gồm: các xã ĐBKK; các xã biên giới, an
toàn khu; thôn, buôn, làng, bản, xóm, ấp…(gọi tắt là thôn, bản) ĐBKK ở các xã khu vực
II.
Từ năm 2006, xét đưa vào diện đầu tư CT đối với các xã chưa hoàn thành mục
tiêu CT 135; xét bổ sung đối với các xã ĐBKK và thôn, bản ĐBKK ở các xã khu vực II
theo quy định tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát
triển và đưa vào diện đầu tư từ năm 2007.
1.3 Các hợp phần
Có 4 hợp phần:
- Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ sản
xuất của đồng bào các dân tộc.
- Phát triển CSHT thiết yếu ở các xã, thôn, bản ĐBKK.

- Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, nâng cao trình độ quản lý hành chính và kinh
tế, đào tạo nâng cao năng lực cộng đồng.
22
- Hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để
nâng cao nhận thức pháp luật.
1.4 Nguồn vốn
- NSTW hỗ trợ cho các địa phương để thực hiện mục tiêu quy định tại khoản 2
Điều 1 của Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg và được bố trí trong dự toán NSNN hàng
năm của địa phương.
- NSĐP hàng năm.
- Huy động đóng góp tự nguyện bằng nhiều hình thức của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, tổ chức quốc tế; tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
2. Hợp phần đầu tư cơ sở hạ tầng
2.1 Đối tượng công trình đầu tư
2.1.1 Công trình đầu tư tại xã
- Công trình giao thông từ xã đến thôn bản, liên thôn bản. Không sử dụng nguồn
vốn của CT 135 để đầu tư đường ô tô đến trung tâm xã.
- Công trình thủy lợi nhỏ phục vụ trong phạm vi xã hoặc liên thôn bản.
- Công trình điện từ xã đến thôn bản. Không sử dụng vốn đầu tư của CT 135 để
đầu tư xây dựng công trình điện đến trung tâm xã.
- Xây dựng mới, nâng cấp trường, lớp học tại trung tâm xã, đồng bộ cả điện,
nước sinh hoạt, trang bị bàn ghế học tập, công trình phục vụ cho học sinh bán trú, nhà ở
giáo viên; xây dựng lớp tiểu học, lớp mẫu giáo, nhà trẻ, nhà ở giáo viên, công trình phụ
tại thôn bản nơi cần thiết.
- Xây dựng mới, nâng cấp trạm y tế xã đồng bộ cả công trình phụ trợ điện, nước
sinh hoạt, mua sắm trang thiết bị thiết yếu theo chuẩn hóa cơ sở y tế cấp xã.
- Chợ: Chỉ hỗ trợ đầu tư công trình nhà lồng chợ và san tạo mặt bằng ban đầu
dưới 5000 m
2
.

- Nhà sinh hoạt cộng đồng tại thôn bản có từ 50 hộ trở lên.
23
- Công trình cấp nước sinh hoạt tập trung.
2.1.2 Công trình đầu tư tại thôn, bản thuộc xã khu vực II
- Công trình giao thông từ thôn, bản đến trung tâm xã;
- Công trình thủy lợi nhỏ: xây dựng cống, đập, trạm bơm, kênh mương và công
trình trên kênh mương trong phạm vi thôn bản… công trình thủy lợi khác có mức vốn
dưới 500 triệu đồng.
- Công trình điện từ xã đến thôn bản.
- Xây dựng lớp tiểu học, mẫu giáo, nhà trẻ, nhà ở giáo viên, cả trang bị bàn ghế,
điện, nước sinh hoạt.
- Nhà sinh hoạt cộng đồng tại thôn bản có từ 50 hộ trở lên.
- Công trình cấp nước sạch tập trung.
2.2 Chủ đầu tư
Tùy theo quy mô, tính chất công trình, UBND tỉnh quyết định huyện hoặc xã làm
chủ đầu tư. Công trình do huyện quản lý thì UBND huyện làm chủ dầu tư, do xã quản lý
thì UBND xã làm chủ đầu tư những công trình hạ tầng có quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản
như:
- Đường giao thông đến thôn bản thi công bằng phương pháp thủ công.
- Công trình thủy lợi: chủ yếu là đào, đắp kênh mương.
- Lớp tiểu học, lớp mẫu giáo, mầm non thôn bản.
- Nhà sinh hoạt cộng đồng.
- Công trình cấp nước sinh hoạt cho thôn bản.
- Công trình khác có mức vốn đầu tư dưới 300 triệu đồng.
- Công trình xây dựng tại thôn bản ĐBKK thuộc xã KV II.
Những công trình ngoài quy định trên do huyện làm chủ đầu tư. Trong quá trình
điều hành, tùy theo quy mô và tính chất của từng công trình cụ thể và điều kiện năng lực
24
của đội ngũ cán bộ xã, UBND huyện có thể phân cấp cho xã làm chủ đầu tư những công
trình có tính chất, quy mô lớn hơn mức quy định trên.

2.3 Ban quản lý dự án
2.3.1 Thành lập ban quản lý dự án
Cấp làm chủ đầu tư quyết định việc thành lập ban quản lý dự án. Việc thành lập
ban quản lý dự án thực hiện như sau:
- Cấp huyện là chủ đầu tư: UBND huyện thành lập ban quản lý dự án hoặc giao
cho ban quản lý dự án đã có thực hiện. Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch UBND huyện không
kiêm nhiệm trưởng ban quản lý dự án. Ban quản lý dự án huyện được mở tài khoản tại
KBNN huyện và có con dấu riêng.
- Xã là chủ đầu tư: sử dụng Ban quản lý dự án chung của xã để thực hiện, Ban
quản lý dự án của xã có tư cách pháp nhân, được mở tài khoản tại KBNN huyện và sử
dụng con dấu của xã để giao dịch.
2.3.2 Nhiệm vụ của ban quản lý dự án
- Thực hiện các thủ tục về giao nhận đất, chuẩn bị mặt bằng xây dựng và các
công việc khác phục vụ cho việc xây dựng công trình;
- Chuẩn bị hồ sơ thiết kế, dự toán xây dựng công trình để chủ đầu tư tổ chức
thẩm định, phê duyệt theo quy định;
- Lập hồ sơ mời thầu (nếu có), tổ chức lựa chọn nhà thầu;
- Đàm phán, ký hợp đồng với các nhà thầu theo ủy quyền của chủ đầu tư;
- Thực hiện nhiệm vụ giám sát khi có đủ năng lực và phối hợp ban giám sát xã
giám sát thi công xây dựng công trình, báo cáo tiến độ;
- Nghiệm thu, thanh toán, quyết toán theo hợp đồng ký kết;
- Quản lý chất lượng, khối lượng, tiến độ, chi phí xây dựng, an toàn và vệ sinh
môi trường của công trình xây dựng;
- Nghiệm thu, bàn giao công trình;
25

×