Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Biến đổi xã hội ảnh hưởng đến quan niệm thủ dâm trong giáo dục giới tính ở xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.72 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHXH & NV TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG

HÀ NGUYỄN PHƯƠNG
MSSV: 1336030024
NGUYỄN THỊ BÍCH LIỄU
MSSV: 1336030013
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN NIỆM
THỦ DÂM TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
BÁO CÁO TIỂU LUẬN
MÔN XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2014
1
DÀN Ý TIỂU LUẬN
2
NỘI DUNG TRANG
PHẦN MỘT: BIẾN ĐỒI XÃ HỘI LÀ GÌ? 5
1. Khái niệm 5
2. Đặc điểm của biến đổi xã hội 5
3. Cấp độ của biến đổi xã hội 5
4. Các lý thuyết về biến đổi xã hội 6
4.1. Lý thuyết tiến hóa 6
4.2. Lý thuyết chức năng luận 6
4.3. Lý thuyết xung đột 7
4.4. Lý thuyết thế giới phẳng 7
5. Các khía cạnh trong biến đổi xã hội 8
5.1. Biến đổi dân số 8
5.2. Môi trường tự nhiên 9
5.3. Biến đổi chính trị 9
5.4. Biến đổi kinh tế 10


5.5. Tư tưởng 10
5.6. Biến đổi văn hóa 11
5.7. Biến đổi công nghệ và kỹ thuật 11
PHẦN HAI: BIẾN ĐỔI XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUAN NIỆM THỦ DÂM TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
Ở XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI NHƯ THẾ NÀO?
13
I: MỞ ĐẦU 13
1. Đặt vấn đề 13
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 15
2.1. Mục đích nghiên cứu 15
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 15
II: NỘI DUNG 15
1. Cơ sở lý luận 15
1.1. Khái niệm thủ dâm 15
1.2. Nhận diện vấn đề 16
3
Đề tài:
BIẾN ĐỔI XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN NIỆM THỦ DÂM
TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
PHẦN MỘT: BIẾN ĐỒI XÃ HỘI LÀ GÌ?
1. Khái niệm.
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định
của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đổi
bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó
có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến đổi trong
xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này cho thấy rõ hơn là sự
biến đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở thành chuyện thường ngày.
Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khác, không ngừng
vận động và thay đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một thực trạng đứng yên

trong sự vận động liên tục.
2. Đặc điểm của biến đổi xã hội:
Diễn ra trong những môi trường, các không gian xã hội khác nhau;
Tốc độ và tính chất khác nhau;
Biến đổi xã hội cũng diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau;
4
Vừa có tính tự giác, nhưng cũng mang tính phi kế hoạch, có những biến
đổi người ta lường trước, nhưng có những thay đổi con người không thể lường
được;
Biến đổi xã hội vừa mang kết quả tốt, nhưng cũng mang lại nhiều hậu quả
xấu;
Có những biến đổi diễn ra trong thời gian ngắn, nhưng cũng có những
biến đổi xã hội diễn ra thời gian rất lâu dài.
3. Cấp độ của biến đổi xã hội:
Biến đổi vĩ mô, nó diễn ra trên một phạm vi rộng lớn, diễn ra trong một
thời gian dài
Biến đổi vi mô, liên quan đến những biến đổi nhỏ, diễn ra nhanh hơn.
4. Các lý thuyết về biến đổi xã hội
4.1. Lý thuyết tiến hóa
Luận thuyết này bắt nguồn và được đặt nền móng bởi tác phẩm “Nguồn
gốc các loài” của Darwin. Thông qua những nghiên cứu ông giải thích cho sự
phát triển của thế giới tự nhiên theo quá trình tiến hóa loài, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp và theo quy luật “chọn lọc tự nhiên”. Từ quan điểm đó
của Darwin, các nhà lý thuyết gia đã đưa ra một mô hình giải thích về sự biến
đổi xã hội. Theo đó xã hội cũng như một thực thể dịch chuyển theo hướng từ
thấp đến cao. Tiêu biểu như quan điểm của A. Comte với “Quy luật ba giai
đoạn” giải thích sự biến đổi theo hướng ngày càng tiến bộ của tư duy và nhận
thức con người. E.Durkhiem, giải thích sự biến đổi xã hội từ hệ thống tổ chức
tuân theo sự đa dạng của phân công lao động xã hội và tính chất của “đoàn kết
xã hội”. Tiếp đó H. Spencer, lại mang xã hội gần hơn với Darwin khi xem xã

hội như một cơ thể sinh học vận động và tiến hóa theo quy luật tự nhiên với sự
phù hợp của các chức năng khác nhau. Sau này các lý thuyết gia tiến hóa luận
lại nhìn sự biến đổi xã hội theo hướng đa chiều hơn, không chỉ là từ thấp đến
5
cao, mà nó diễn ra cả ở tính phạm vi hẹp đến rộng lơn, bên trong và bên ngoài,
tốc độ nhanh chậm khác nhau.
4.2 Thuyết chức năng luận
Nhà duy chức năng hàng đầu T. Parsons đã đưa ra một kiến giải rất quan
trọng đó là chỉ ra “trạng thái cân bằng”. Khi xã hội ở trong trạng thái này không
phải chỉ đến sự tĩnh tại mà nó vẫn diễn ra những sự vận động và thậm chí là
xung đột trong nội tại. Parsons cho rằng biến đổi xã hội gồm bốn tiến trình.
Thứ nhất, sự thay đổi trong các cấu trúc vi mô như: công ty, nhà thờ, gia
đình…
Thứ hai, sự phân công lao động xã hội đã tạo ra quá trình thích nghi lớn
hơn trong xã hội.
Thứ ba, sự hợp nhất cũng diễn ra trong xã hội. Sau quá trình tan rã hay
phân ly thì có những bộ phận trong xã hội lại dẫn đến sự hợp nhất.
Thứ tư, tiếp biến các giá trị với nhau. Quá trình này cho thấy xã hội đã
phức hợp hơn với nhiều bộ phận có thể liên kết với nhau. Ví dụ: như trong xã
hội là quá trình hòa hợp giữa những người khác nhau về chủng tộc, văn hóa…
Lý thuyết chức năng xác tín một trạng thái cân bằng, nó được tạo thành
bởi các bộ phận phụ thuộc lẫn nhau. Khi có một sự thay đổi ở một bộ phận nào
đó sẽ dẫn đến sự thay đổi bộ phận khác làm phá vỡ trạng thái cân bằng đó là lúc
xã hội sẽ biến đổi. Tuy nhiên, sự biến đổi chỉ làm cho những thứ tự sắp xếp và
quá trình tương tác giữa các bộ phận thay đổi. Khi có biến đổi khác diễn ra tiếp
sau sẽ gúp cho xã hội trở về trạng thái cân bằng.
4.3 Lý thuyết xung đột
Khác với quan điểm chức năng, quan điểm duy xung đột cho rằng xã hội
tồn tại luôn tiềm ẩn những xung đột giữa các định chế, các nhóm, các giai cấp
với nhau và đó chính là động lực cho sự biến đổi xã hội. Lý thuyết xung đột

khẳng định sự biến đổi xã hội là một quá trình mang tính quy luật. Điều này
chúng ta có thể thấy rõ trong lý thuyết về “Hình thái kinh tế xã hội” và lý thuyết
6
“Đấu tranh giai cấp” của K. Marx. Trong đó ông khẳng định, mâu thuẫn và
xung đột chính là động lực của sự phát triển xã hội, quá trình đấu tranh giữa các
lực lượng xã hội với nhau để phá bỏ sự bất công nhằm xác lập sự công bằng.
4.4 Lý thuyết thế giới phẳng
Quan điểm này cho rằng quá trình hiện đại hóa, mà một biểu hiện là toàn
cầu hóa đã tác động rất sâu sắc đến mọi góc cạnh của đời sống, trong mọi mối
quan hệ, khắp nơi trên thế giới. Chính quá trình đó làm cho thế giới ngày càng
“phẳng” hơn, tức là những rào cản về địa lý, ngôn ngữ, văn hóa… sẽ không còn
nữa và khi đó con người sẽ tiến gần nhau hơn trong phát triển. Tuy nhiên, họ
cũng giải thích rằng biến đổi-hiện đại hóa xã hội cũng dẫn đến những hệ lụy mà
con người đang phải đối mặt. Đó là sự phai nhạt của các giá trị truyền thống do
quá trình tiếp biến văn hóa, sự xung đột chính trị ngày càng gia tăng, biến đổi
khí hậu, sự suy giảm môi trường tự nhiên, các rủi ro trong công nghệ…
5. Các khía cạnh trong biến đổi xã hội
5.1. Biến đổi dân số
Dân số là một trọng những lĩnh vực diễn ra sự thay đổi nhanh nhất trong
xã hội. Sự gia tăng về quy mô dân số ở nhiều quốc gia đặt ra những yêu cầu
chính sách. Sự thay đổi trong cơ cấu dân số như: quá trình già hóa dân số tạo
gánh nặng về an sinh xã hội và báo động về tình trạng thiếu lao động; hiện
tượng mất cân bằng giới ở nhiều quốc gia đã dẫn đến nạn buôn người…
Dân số trung bình của Việt Nam năm 2008 đã tăng 70.576 nghìn người so với
năm 1921 hay cao gấp trên 5,5 lần, bình quân 1 năm tăng 811,2 nghìn người,
tương đương mức tăng 1,98%/năm.
Với quy mô gần 86,2 triệu người, Việt Nam là nước đông dân thứ 12 trên
thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Indonesia, Brazil, Pakistan, Bangladesh,
Nigeria, Nhật Bản, Mexico, Philippines. Việt Nam có tỷ lệ tăng tự nhiên hiện ở
mức 1,2%, cao thứ 8 ở Đông Nam Á, cao thứ 32 ở châu Á và đứng thứ 114 trên

thế giới. Đó là kết quả tích cực của công tác kế hoạch hóa dân số từ khá sớm
7
Tuổi thọ bình quân đạt 72 tuổi (nam 70 tuổi, nữ 73 tuổi), đứng thứ 4 ở Đông
Nam Á, đứng thứ 20 ở châu Á và đứng thứ 83 trên thế giới.
Mất cân bằng giới tính sau khi sinh. Cứ 100 trẻ em nữ thì 110.6 trẻ em
nam ra đời, so với tỉ lệ thông thường là 105. Đại diện Quy Dân số Liên Hiệp
quốc khẳng định: “Trên thế giới, ở các nước hiện tượng mất cân đối tỉ lệ giới
tính khi sinh gia tăng chọn lựa giới tính trẻ sơ sinh thường có ba nguyên nhân
chính. Một là thích có con trai. Đây là một khía cạnh rất cơ bản của văn hóa và
xã hội ở nhiều nước. Thứ nhì là sức ép về sinh sản, làm sao để có gia đình ít con
hơn, nhất là tại châu Á, và thứ ba là việc có luật và khoa học kỹ thuật để có thể
lựa chọn con trai".
5.2. Môi trường tự nhiên
Trong quan niệm của con người tự nhiên vừa là đối tác cộng sinh, vừa là
kẻ thù mà con người cần phải chinh phục. Cả hai suy nghĩ đó của con người dẫn
đến việc khai thác và chinh phục tự nhiên. Chính điều này đã mang lại cho xã
hội loài người những lợi ích nhiều mặt để phục vụ cho nhu cầu của mình.
Tuy nhiên, không phải tất cả những gì của thiên nhiên đều vô tận. Sự khai
thác quá mức đã gây ra không ít tai họa mà con người và các thế hệ sau nữa
phải gánh chịu. Tình trạng phá rừng diễn ra ở nhiều nơi đã làm độ che phủ rừng
ngày càng ít đi. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm nguồn nước, thiên
tai… đã cho thấy những biến đổi theo chiều hướng xấu đi của môi trường.
Như vậy, môi trường tự nhiên đã ngày càng suy giảm chức năng tích cực của nó
đối với con người, điều này cũng đồng nghĩa với một đặc trưng của xã hội hiện
đại là con người đang vật lộn và sống chung với nguy cơ biến đổi khí hậu ngày
càng nặng nề hơn. Nhưng điều đáng nói ở đây người hứng chịu đầu tiên là
những quốc gia nghèo, đến vùng nghèo rồi cuối cùng là người nghèo trong xã
hội.
5.3. Biến đổi chính trị
8

Xã hội loài người đã chứng kiến nhiều cuộc chuyển giao quyền lực quy
mô toàn cầu cũng như trong phạm vi từng xã hội khác nhau. Chính quá trình
soán ngôi lẫn nhau của các trung tâm quyền lực trong xã hội đã tác động sâu sắc
đến nhiều lĩnh vực khác nhau dẫn đến sự biến đổi trên quy mô toàn xã hội. Kể
từ sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 ở nước Mỹ, không chỉ đơn thuần là
một sự kiện chính trị mà nó đã là nhân tố trực tiếp làm cho thế giới biến đổi rất
sâu sắc. Bước sang thế kỷ XIX với sự phát triển như vũ bão của công nghệ
thông tin đã báo trước một tín hiệu cho sự sụp đổ của chế độ độc tài. Đó cũng
chính là đặc trưng cơ bản nhất của biến đổi xã hội hiện đại. Như vậy, quyền lực
và cấu trúc chính trị là một nhân tố kích thích và tạo ra quá trình biến đổi xã hội.
5.4. Biến đổi kinh tế
Học thuyết Mác cho rằng sự biến đổi kinh tế, sẽ quyết định sự biến đổi
xã hội và khi kinh tế thay đổi thì các bộ phận khác cũng thay đổi tương ứng với
hệ thống kinh tế đó. Biến đổi kinh tế diễn ra ở hai phương diện là tăng trưởng
kinh tế và phát triển kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự thay đổi theo chiều hướng đi lên của quy mô
nền kinh tế thường được đo bằng chỉ số GDP. Còn phát triển kinh tế không chỉ
là sự tăng trưởng mà bao hàm cả tính bền vững. Biến đổi trong kinh tế không
chỉ thể hiện sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, mà còn cả trong chính sách và thể chế
kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch theo các lĩnh vực sau:
Chuyển dịch về cơ cấu ngành kinh tế.
Tỉ trọng (%) các ngành trong GDP
Các ngành 1990 1995 2000 2005
Nông nghiệp 38,1 27,2 24,5 20,9
Công nghiệp 22,7 28,8 36,7 41
Dịch vụ 38,6 44,0 38,7 38,1
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế
9
Về cơ cấu vùng kinh tế.

5.5. Tư tưởng
Theo quan điểm Mác-xít, tư tưởng là một bộ phận của ý thức xã hội và nó
được quyết định bởi tồn tại xã hội, nhưng trong mối quan hệ này mang tính
tương đối thể hiện ở chỗ hệ tư tưởng có thể tác động trở lại đối với tồn tại xã hội
đó. Hệ tư tưởng tạo ra sự biến đổi xã hội thông qua những đường lối chính trị,
chính sách kinh tế, chính sách xã hội. Hệ thống tư tưởng xã hội của một nhóm
người cũng phản ánh những chiều cạnh của sự biến đổi xã hội. Nó thể hiện cả
hai trường hợp Biến đổi xã hội làm cho tư tưởng thay đổi và ngược lại hệ tư
tưởng mới sẽ là ngọn đuốc soi đường cho sự biến đổi xã hội.
5.6. Biến đổi văn hóa
Văn hóa luôn có tính bản sắc và khó thay đổi, nhưng sự biến đổi của xã
hội con người gắn liến với quá trình biến đổi văn hóa. Những biến đổi văn hóa
lớn của nhân loại như phong trào văn hóa phục hưng, cải cách tôn giáo.v.v đã
cho thấy sự ảnh hưởng của nó đến toàn bộ hệ thống xã hội. Hiện nay, quá trình
tiếp biến và giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho những nhân tố tích
cực, tiến bộ của nhân loại đến với nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, cũng đã
xuất hiện những hậu quả tiêu cực khi nhiều nền văn hóa đã bị đồng hóa, nhiều
giá trị truyền thống bị xói mòn làm cho con người cảm thấy xa lạ ngay trong
nền văn hóa của mình.
5.7 Biến đổi công nghệ và kỹ thuật
Công nghệ và kỹ thuật là một trong những yếu tố biến đổi nhanh nhất
trong xã hội. Con người ngày càng được trang bị nhiều những thiết bị kỹ thuật
hiện đại cho công việc và sinh hoạt của mình.
Công nghệ vũ trụ có những thành công kỳ diệu từ vệ tinh nhân tạo, đến
việc thám hiểm mặt Trăng, Sao Hỏa, đáy Đại dương, dịch vụ du lịch vũ trụ….
10
Công nghệ thông tin, là sự phát triển cực nhanh cả về phạm vi lẫn chất
lượng của công nghệ số như: máy tính, intenert, điện thoại di động, truyền
thông…
Công nghệ sinh học, đánh dấu các thành tựu trong biến đổi gen, nhân bản

vô tính…
Công nghệ y học, với việc khoa học thế giới đã thành công trong điều trị
nhiều căn bệnh nan y mang lại hạnh phúc cho nhiều người, thụ tinh trong ông
nghiệm….
Công nghệ vật lý với những thành tựu trong công nghệ tự động hóa,
nguyên tử mang lại một nguồn năng lượng to lớn phục vụ cho sản xuất và sinh
hoạt.
Sự thay đổi của khoa học công nghệ trong xã hội hiện đại có hai đặc điểm
lớn. Thứ nhất là sự phát triển nhanh của khoa học ứng dụng. Thứ hai là tính
phức hợp hóa về tri thức và công nghệ ngày càng tăng với những lĩnh vực giao
thoa giữa các khoa học với nhau
Tuy nhiên, những thành tựu to lớn đó của khoa học công nghệ vẫn không xóa
nhòa đi những hậu quả mà nó để lại. Đó là các thảm họa hạt nhân, vũ khí sinh
học, lựa chọn giới tính thai nhi, nhân bản vô tính người, thảm họa hàng
không…
Thế giới mà tất cả chúng ta đang sống và đang hoạt động ở trong đó là
một thế giới đang diễn ra những biến đổi vô cùng nhanh chóng, phức tạp, với
không ít những đảo lộn, những đột biến thật khó lường.
Như vậy, biến đổi xã hội là một khái niệm trung tính, nó cho trạng thái
động của xã hội nhưng chưa cho thấy đặc tính và xu hướng của biến đổi xã hội
đó. Với tư cách là một khoa học, xã hội học ra đời trong bối cảnh biến đổi xã
hội sâu sắc thế kỷ XIX và nó vẫn luôn là một chủ đề lôi cuốn những nghiên cứu
lý thuyết cũng như thực nghiệm của khoa học này.
11
PHẦN HAI: BIẾN ĐỔI XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN NIỆM THỦ
DÂM TRONG GIÁO DỤC GIỚI TÍNH Ở XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
NHƯ THẾ NÀO?
I: MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được

nâng cao. Khi những nhu cầu về mặt vật chất đã được đảm bảo thì nhu cầu về
mặt tinh thần, “thể xác” lại nảy sinh.
Đổi mới, nhất là đổi mới kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm
do Việt Nam vượt ra khỏi khủng hoảng, bước vào giai đoạn "cất cánh" để
phát triển. Việt Nam đang nỗ lực khắc phục lạm phát do khủng hoảng tài
chính quốc tế dội vào, đang gia tăng sự ổn định tích cực và lấy lại đà tăng
trưởng tốc độ cao trước đây. Việt Nam cũng đang quyết tâm sớm ra khỏi tình
trạng kém phát triển.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đã giúp cho Việt Nam xoá đói giảm
nghèo thành công, đang ra sức khắc phục tái nghèo khổ, hướng tới tăng
giàu, trung lưu hoá mức sống dân cư xã hội.
So với thời trước đổi mới mà bình quân có nghĩa là chia đều sự nghèo
khổ, những năm qua người dân thuộc nhiều đối tượng khác nhau đã có sự tăng
tiến rõ rệt về nhu cầu, do đó cũng có những biến đổi mạnh mẽ về lối sống. Đó
là sự biến đổi xã hội quan trọng, với những biểu hiện sau:
- Từ nhu cầu vật chất hướng sang nhu cầu tinh thần, văn hoá tinh thần.
12
- Từ mặt lượng của nhu cầu hướng tới nâng cao chất lượng nhu cầu, cả
nhu cầu cho tồn tại và nhu cầu cho phát triển sáng tạo.
- Biến đổi nhu cầu diễn ra mạnh mẽ và ưu trội ở lớp trẻ, từ nhu cầu dân
chủ và tự do, khẳng định cá tính, nhân cách đến nhu cầu thông tin, giao tiếp,
thụ hưởng văn hoá với xu hướng hướng ngoại, bị lôi cuốn bởi mốt, thị hiếu,
giá trị mới.
- Nhu cầu phát triển các thuộc tính của nguồn nhân lực: thể lực, tâm lực,
trí lực.
- Cũng có sự khác biệt, thậm chí là khác biệt lớn về nhu cầu giữa các
thế hệ, do đó nảy sinh cả những mâu thuẫn, xung đột về nhu cầu.
- Có sự chênh lệch khá lớn giữa nhu cầu của cộng đồng dân cư các
vùng miền, rõ nhất là nhu cầu trong các gia đình khá giả, giàu có ở đô thị với
nhu cầu trong các gia đình nghèo khổ ở nông thôn, miền núi.

Những lệch lạc trong thể hiện và thực hiện nhu cầu thường bắt đầu
từ sự lệch lạc trong lựa chọn định hướng giá trị sống, sự yếu kém, phát triển
chậm trong giáo dục nhu cầu, giáo dục giá trị đối với lớp trẻ, từ gia đình, nhà
trường đến xã hội.
Biến đổi lối sống của con người Việt Nam có thể coi là tổng hợp những
biến đổi xã hội dưới tác động của đổi mới, của hội nhập.
Bên cạnh những nhân tố lành mạnh, tích cực trong lối sống với các đức
tính cần cù, trung thực, khiêm tốn, giản dị, vị tha, nhân ái cũng đang xuất hiện
những lệch lạc trong lối sống: hưởng thụ, thực dụng, tôn thờ vật chất, tiền của,
khoái lạc, sự phát triển chủ nghĩa cá nhân cực đoan, thờ ơ với xã hội, lãnh cảm
xã hội ở một bộ phận dân cư, trong đó có lớp trẻ. Nhất là khi đất nước ta đang
trong thời kỳ mở cửa hội nhập thế giới, sự du nhập của văn hóa phương Tây,
việc tiếp cận internet với những clip đồi trụy, hình ảnh khiêu dâm có tác động
không tốt đến tâm sinh lý của giới trẻ ngày nay.
Chính vì vậy việc bổ sung kiến thức về giáo dục giới tính, đặc biệt là về
các hoạt động tình dục an toàn cho trẻ vị thành niên là vấn đề hết sức cấp bách
13
hiện nay, nhằm tránh cho thế hệ trẻ có các suy nghĩ lệch lạc về giới tính và tình
dục.
Nhận thấy tình hình bức thiết hiện nay vấn đề trên, chúng tôi chọn đề tài
“Biến đổi xã hội ảnh hưởng đến quan niệm thủ dâm trong giáo dục giới
tính ở xã hội việt nam hiện đại” nhằm giúp mọi người tìm hiểu rõ hơn về thủ
dâm (một vấn đề hết sức nhạy cảm mà ít có gia đình hay nhà trường nào đề cập
đến). Đồng thời xin đưa ra một số nhận định, kiến nghị để góp phần định hướng
cho gia đình có thêm giải pháp giáo dục con cái trong vấn đề giáo dục giới tính,
nhất là trong vấn đề thủ dâm.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu hành vi thủ dâm có thật sự được hiểu đúng, được quan tâm đúng
mức hay không và nó ảnh hưởng như thế nào đến việc giáo dục giới tính của gia

đình, nhà trường và xã hội.
- Xác định nguyên nhân và yếu tố tác động đến sự ảnh hưởng đó.
- Từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá và một số giải pháp kiến nghị nhằm
nâng cao hiểu biết cho mọi thành viên trong xã hội về hành vi này để hướng tới
một xã hội tốt đẹp, văn minh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trong phần cơ sở lý luận ta cần làm rõ khái niệm “thủ dâm” thông qua việc
đọc sách báo, tra cứu tài liệu trên Internet.
- Mô tả thực trạng thủ dâm trong đời sống hiện đại.
- Thông qua việc khảo sát điều tra, tìm hiểu thực tiễn để phân tích nguyên nhân
đánh giá chính xác lợi và hại của việc thủ dâm. Từ đó đề xuất một số kiến nghị,
giải pháp nhằm giúp mọi người có cơ hội hiểu rõ hơn về vấn đề này.
II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
14
1.1. Khái niệm thủ dâm.
Thủ dâm là hình thức kích thích bằng tay vào các cơ quan sinh dục,
thường là vào điểm cực khoái.
Thủ dâm là một trong nhiều hành động được gọi là tự thỏa mãn tình
dục (autoeroticism), bao gồm cả việc sử dụng những dụng cụ hỗ trợ tình dục
(sex toy) và kích thích ngoài bộ phận sinh dục. Cũng có những máy thủ dâm
được sử dụng để kích thích sự giao hợp.
Thủ dâm có thể là sự kích thích tự thực hiện hay bởi một người khác,
nhưng thường thì thuật ngữ này để chỉ những hành động được thực hiện một
mình (ở đây chúng ta không nghiên cứu hành vi thủ dâm bởi người khác).
Thủ dâm và giao hợp là hai hình thức thực hiện tình dục phổ biến nhất
của con người, nhưng chúng không loại trừ lẫn nhau (ví dụ, nhiều người thấy
việc đối tác của mình thủ dâm là một hành động rất gợi tình).
Một số người chỉ có thể đạt cực khoái thông qua thủ dâm chứ không phải giao
hợp.

1.2. Nhận diện vấn đề.
Thủ dâm là hành vi tình dục tự nhiên, một hành vi xuất tinh theo ý muốn,
đó là tìm điểm cực khoái bằng cách trợ kích thích dưới mọi hình thức ngoài trừ
“quan hệ”.
Nhiều người cho rằng thủ dâm là một hành động xấu nhưng trên thực tế
không hoàn toàn như thế. Gọi một cách “tế nhị” hơn hành động này được diễn
tả bằng cụm từ “tình dục một mình” và đây là hiện tượng xuất hiện phổ biến ở
hầu hết nam giới.
“Tình dục một mình” hay thủ dâm không phải là một bệnh mà là một
hành động nhằm giải quyết những bức xúc những ham muốm khoái cảm của cơ
thể. Việc kích thích tình dục, nhất là ở lứa tuổi mới lớn xảy ra thường xuyên sẽ
đưa đến hành động thủ dâm.
15
Nói cho đúng thủ dâm là một tật. Trong cuộc sống của mỗi người thời
điểm dậy thì là thời kỳ hành động thủ dâm diễn ra nhiều nhất. Nó là một nhu
cầu của tuổi mới lớn, nó sẽ trở thành một thói quen và nếu thói quen này không
được chế ngự hoặc kiểm soát sẽ trở thành một cái tật gọi là thủ dâm, tương tự
như tật nói lắp, nói nhiều hay tật tham ăn… nó không thể trở thành bệnh được.
Qua các nghiên cứu, nhiều nhà khoa học đã chứng minh, thủ dâm đã tồn
tại hàng ngàn năm nay như một điều hiển nhiên không thể khác.
1.3. Các yếu tố hình thành thủ dâm.
“Tình dục một mình” là việc tự đụng chạm, kích thích vào bộ phận sinh
dục của mình để tạo ra khoái cảm. Đôi khi ta vẫn gặp một em bé hồn nhiên
thích đưa tay vào để nghịch bộ phận sinh dục. Nhưng rồi người lớn bảo “đừng
làm thế” khiến trẻ em dấn dần hình thành ý nghĩa rằng cái chỗ đó xấu, không
nên động chạm đến nó, và em dần dần quên hẳn “trò chơi” khi bé của mình.
Nhưng khi đến tuổi dậy thì, sự phát triển sinh dục diễn ra mạnh mẽ, nhiều
thiếu niên lại khám phá lại trò chơi này. Một bạn tâm sự: Ngay ở tuổi 10, 12
tuổi em rất hay thò tay vào nghịch chỗ ấy. Chẳng nghĩ ngợi gì cả. Nhưng rồi khi
em 20 tuổi đọc sách mới hiểu đó là hành động thủ dâm, lúc đó giật mình hoảng

hốt và xấu hổ với bản thân mình”.
Như vậy thông thường thì có hai yếu tố để có hành vi thủ dâm đó là: tò
mò, khám phá cơ thể và nhu cầu thỏa mãn khoái cảm cá nhân.
1.4. Các hình thức thủ dâm.
Kích thích bằng tay
Kích thích bằng dụng cụ (sex toy)
Kết hợp kích thích bằng tay và bằng dụng cụ (sex toy)
2. Nội dung.
2.1. Lịch sử và các quan niệm về thủ dâm.
2.1.1. Lịch sử của thủ dâm:
16
- Thời xưa:
Có những miêu tả thủ dâm nam thời tiền sử trên các bức tranh đá khắp
thế giới, mặc dù chúng hoàn toàn là những chủ đề diễn dịch. Đa số người
nguyên thủy kết nối tình dục của con người với sự phong phú của thiên nhiên
(phồn thực). Một bức tượng đất sét nhỏ ở niên đại thiên niên kỷ thứ 4
trước Công nguyên từ một ngôi đền trên đảo Malta, miêu tả một phụ nữ đang
thủ dâm. Tuy nhiên, những bức hình miêu tả nam giới thủ dâm trên thế givới
dường như hiếm hơn rất nhiều.
Một Sam urai đang
được kag ema(trai mãi
dâm) của mình thủ dâm
Bản in ukiyo-e sớm
theo phong
cáchshun ga (tình
dục). Mo ronobu
Hishikawa,
khoảng 1 680;
Thủ dâm
nam đã trở thành một

hình ảnh thậm chí quan trọng hơn trong Ai Cập cổ đại: khi nó được thực hiện
bởi một vị thần nó có thể coi là một sự sáng tạo hay hành động ma thuật: vị
thần Atum được tin là đã tạo ra vũ trụ khi thủ dâm để xuất tinh, và thời kỳ nước
rút và nước lên của sông Nil cũng được gắn với tần số xuất tinh của ông.
Người Hy Lạp cổ có một thái độ tự nhiên hơn đối với thủ dâm so với người Ai
Cập, coi hành động đó là một hành động thay thế tự nhiên và khỏe mạnh cho
các hình thức tìm kiếm khoái cảm tình dục khác. Họ coi thủ dâm là một cái van
an toàn để chống lại sự vỡ mộng có tính hủy diệt của tình dục. Người Hy Lạp
cũng thể hiện thủ dâm nữ trong cả nghệ thuật và những bản ghi chép của họ.
- 1712: Thủ dâm = tội ác
17
Cuộc chiến về sự cần thiết của thủ dâm bắt đầu xung quanh khoảng năm
1712 khi một bác sỹ giấu tên xuất bản một bài báo có tên “Tội lỗi tày đình của
việc tự làm ô uế bản thân”. Trong đó, ông ta cũng liệt kê ra khá nhiều hậu quả
đáng sợ của thủ dâm, đặc biệt là việc làm nhơ nhuốc cơ thể, tự chuốc thêm bệnh
tật và hủy hoại tinh thần minh mẫn.
- 1800 – 1900: Thủ dâm bị tẩy chay
Thời gian từ năm 1800 đến 1900 là thời kỳ đen tối của thủ dâm. Những
thiết bị chống thủ dâm ra đời, nổi tiếng nhất là hai sản phẩm có tên Corn Flakes
và Graham Crackers. Chúng được ca ngợi là sẽ lấy lại thể chất trong sạch và trí
tuệ sáng suốt cho những chàng thanh niên trẻ tuổi. Từ 1856 đến 1932, cơ quan
cấp bằng sáng chế của Mỹ đã thông qua 33 sản phẩm chống thủ dâm mới Đây là
những phát minh của các bác sĩ và những nhà đạo đức của xã hội lúc bấy giờ.
Sản phẩm bao gồm một chiếc nhẫn có mấu nhọn nối vào với thắt lưng của nam
giới có xung điện khiến cho việc thủ dâm lén lút sẽ gây nên những cơn đau dữ
dội về thể chất.
- 1940 – 1950: Thủ dâm được minh oan
Sau một thời gian dài bị tẩy chay, thủ dâm bắt đầu được thanh minh, nhìn
nhận lại nhờ hai bài báo của Alfred Kinsey là “Hành vi tình dục của nam giới”
năm 1948 và “Hành vi tình dục của nữ giới” năm 1953. Từ đây, định kiến về

thủ dâm được hoàn toàn thay đổi trong suy nghĩ của quần chúng. Người ta vẫn
truyền tai nhau rằng kể từ sau khi hai bài báo ra đời, 98% dân số ‘lao vào’ thủ
dâm và 2% còn lại hẳn là nói dối về việc mình có làm chuyện đó vì còn ngần
ngại.
- 1974: Cuốn sách về kỹ thuật thủ dâm ra đời
Năm 1977, một phụ nữ tên là Joani Blank cảm thấy cực kỳ bức bối và
khó chịu vì cô không thể tìm mua đồ chơi hay những cuốn sách viết về tình dục
ở vịnh San Francisco. Trước đó, cô đã từng viết 2 cuốn sách về giáo dục giới
18
tính và trong khi đang tìm nhà xuất bản để gửi bản thảo, cô nảy ra ý định mở
cửa hàng sex toy có tên: Good Vibrations (Những chiếc máy rung tốt).
Cửa hàng Good Vibrations đã trở thành tiêu chuẩn hàng đầu cho những
kiến thức về giới tính và ngành công nghiệp bán lẻ. Người ta bắt đầu tin rằng
bán sex toy không đơn giản chỉ là một cách kiếm sống mà nó còn mang ý nghĩa
chính trị trong việc giáo dục sức khỏe tình dục cho người dân. Kể từ sau năm
1977, hàng tá cửa hàng sex toy liên tục ra đời tại Bắc Mỹ.
- 1994: Thủ dâm được đề nghị đưa vào chương trình giảng dạy
Tháng 12 năm 1994, vào ngày cả thế giới phòng chống HIV/AIDS, tiến
sỹ Jocelyn Elder đã trả lời câu hỏi về thủ dâm tại một hội nghị diễn ra ở New
York. Câu hỏi đưa ra là: Nên hay không việc đưa thủ dâm vào giáo trình giáo
dục giới tính cho mọi người?
Theo tài liệu lưu trữ tại Nhà Trắng thì Elder đã trả lời như sau: “Tôi nghĩ
rằng cái gì là một phần của đời sống tình dục của con người thì đều cần phải
được giáo dục”.
Tuy không cụ thể hóa cách thức giảng dạy cũng như không giới thiệu về
các kỹ năng cơ bản của thủ dâm nhưng Elder đã có công lớn trong việc nhấn
19
mạnh tầm quan trọng của thủ dâm trong chương trình giáo dục giới tính phổ
thông.
Elder còn nhấn mạnh: “Chúng ta đã không dạy dỗ bọn trẻ những điều cơ

bản nhất về thủ dâm. Và tôi cảm giác như chúng ta đã cố gắng chối bỏ nó trong
một thời gian rất dài. Lúc này chính là khi chúng ta nhì nhận lại thiếu sót đó!”.
Tuy nhiên, cũng vì cổ vũ quá nhiều và quá nhiệt tình cho thủ dâm vào bối
cảnh mà không phải ai cũng có cái nhìn thoáng đãng về vấn đề này nên sau đó,
Elder bị tổng thống Bill Clinton cho từ chức.
- 1995: Khởi xướng tháng thủ dâm
Sự kiện ra đời tháng thủ dâm không phải là chính sách của chính phủ hay
một tổ chức chính trị cấp cao nào. Thực ra là cửa hàng “Những chiếc máy rung
tốt” cùng với một số cửa hàng sex toy khác đã đưa ra sáng kiến này để thay lời
ủng hộ cho những gì mà tiến sỹ Elder đã phát biểu. Và họ đã quyết định chọn
tháng 5 hàng năm để đánh dấu sự kiện này. Một số cuộc thi thú vị cũng ra đời
nhân dịp tháng thủ dâm: người ta thi nhau xem ai có thể thủ dâm trong thời gian
lâu nhất và người thắng cuộc sẽ nhận phần thưởng bằng tiền mặt. Theo thống
kê, có đến khoảng 10.000 đô la đã được chi trả cho mỗi cuộc thi như thế này.
Và tất nhiên, những cửa hàng sex toy là những kẻ kiếm lời nhiều hơn cả.
- 2003: Ra đời cuốn sách nghiên cứu đầu tiên về thủ dâm
Sau một thời gian dài thăng trầm với những chối bỏ, chấp nhận, lên án, cổ
vũ của người đời, lần đầu tiên cuốn sách nghiên cứu tỉ mỉ nhất về thủ dâm ra
đời năm 2003 do tác giả Thomas Laqueur biên soạn. Cuốn sách không chỉ viết
về lịch sử mà còn đề cập đến cả những vấn đề liên quan đến văn hóa thủ dâm.
Mặc dù các hãng truyền thông đại chúng vẫn tỏ ra dè dặt và không ít trí thức
nhíu mày về cuốn sách nhưng điều đó không thể phủ nhận được thực tế rằng
những kiến thức mà cuốn sách nêu ra cực kỳ bổ ích và có tầm bao quát rộng
lớn.
20
2.1.2. Quan điểm của tôn giáo trong vấn đề thủ dâm:
Trong truyền thống Phật giáo, theo năm lời răn và bát giới, mọi người
không nên thèm khát có được cảm giác khoái lạc tình dục kiểu đó. Thủ dâm vì
thế không bị ngăn cấm nhưng cũng không được khuyến khích.
Do Thái giáo ngăn cấm thủ dâm, vì nó dẫn tới sự xuất tinh không cần

thiết, hay những ý nghĩ không trong sạch từ phía những người khác. Sự ngăn
cấm này bắt nguồn từ lời kể trong Kinh thánh của Onan (Talmud Niddah 13a).
Đoạn đó trong cuốn kinh so sánh hành động giết người và sự sùng bái thần
tượng. Có một sự không nhất trí giữa Poskim (người quyết định luật Do Thái)
việc thủ dâm là một hành động xuất tinh không thể chấp nhận được cho sự gieo
hạt giống nhân tạo hay thụ tinh nhân tạo.
Theo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 2352 thì: “Thủ dâm là cố
tình kích thích cơ quan sinh dục", “dựa theo truyền thống ngàn đời và bất biến,
huấn quyền cũng như cảm thức luân lý của các tín hữu không ngần ngại khẳng
định rằng, thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng”, vì “tự ý
sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động
lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích”. Làm như vậy, người ta hưởng thụ khoái
lạc tình dục bên ngoài “quan hệ tình dục hợp luật luân lý là quan hệ thực hiện
một sự hiến dâng trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn
khổ của tình yêu đích thực”. Để phán đoán đúng về trách nhiệm luân lý của
đương sự là thủ dâm có tội hay không “cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng
thành tình cảm, áp lực của thói quen, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố
khác về tâm lý xã hội. Các nhân tố này có thể làm trách nhiệm luân lý của
đương sự được giảm khinh ngay cả đến mức tối thiểu”. Và vì thế, một cách chủ
quan, không phải thủ dâm lúc nào cũng là tội trọng.
Đạo Tin lành chỉ bắt đầu sửa đổi những lời dạy bảo trước đó từ thế kỷ
20 với một số quan điểm hiện nay vẫn đang sử dụng về ủng hộ thủ dâm. Thủ
21
dâm, tuy nhiên, vẫn bị một số người coi là một hành động tự thỏa mãn và một
tội lỗi nhục dục, làm nó vẫn bị tranh cãi cho tới ngày nay.
Hồi giáo coi thủ dâm là hành động bị cấm đoán (haraam), ngoại trừ trong
những tình huống giảm nhẹ.
2.1.3. Quan điểm của giáo dục Việt Nam trong vấn đề thủ dâm
Nhiều bậc cha mẹ có con ở tuổi thiếu niên lo lắng rằng con mình tự kích
thích tình dục sẽ sớm nghĩ đến việc quan hệ tình dục với người khác.

Các bậc cha mẹ và các nhà giáo phải ý thức được một điều: Thủ dâm
(trước hết và chủ yếu là ở con trai) bao giờ cũng là nhu cầu tự nhiên, là chuyện
thông thường.
Xin dẫn ra đây một trường hợp: Có cặp vợ chồng đưa cậu con trai 16 tuổi
hơi chậm phát triển trí khôn đến phòng khám của bác sĩ. Cậu chưa hề biết tới sự
xuất tinh bao giờ, hay bị cường dương và nhìn ngó phụ nữ. Vì không giải quyết
được tình trạng căng thẳng tình dục nên cậu trở nên thô bạo với bạn bè, cha mẹ
và cả với thầy cô giáo.
Như chúng ta đều biết, sử dụng tới thuốc men chỉ là điều bất đắc dĩ. Nhất
là trong ca bệnh này, cách chữa đơn giản nhất là chỉ hướng dẫn cho cậu… thủ
dâm. Ở đây chúng ta thấy rằng, một thanh niên phát triển hoàn hảo về mặt thể
lực cũng có thể gặp những chuyện oái oăm như vậy.
Chúng ta khuyên cặp vợ chồng nọ thế nào? Việc đầu tiên là họ phải thay
đổi triệt để chế độ sinh hoạt hàng ngày của cậu. Cậu phải lao động, tập thể thao
để cơ thể mệt mỏi. Họ phải chú ý nhiều tới con. Nếu cậu không thể tham dự vào
nhóm thể thao nào đó cùng bạn bè thì cha mẹ phải bỏ thời gian chơi thể thao với
cậu. Một điều không kém quan trọng nữa là chuyện vệ sinh thân thể. Cậu phải
tắm bằng nước lạnh. Nếu việc thay đổi chế độ sinh hoạt hàng ngày không đem
lại hiệu quả thì ông bố phải nhờ bác sĩ chỉ cho cậu biết cách làm cho dương vật
phóng tinh. Khi giải phóng được lượng tinh trùng trong cơ thể, chắc chắn cậu ta
sẽ ổn định được về mặt tâm lý và hết cái bệnh gọi là cường dương. Cái khó ở
22
đây là cách nói của ông bố. Tuy nhiên, đối với cặp vợ chồng nọ, khi đã biết rằng
sự trưởng thành của đứa con kém trí khôn là một quá trình phức tạp, đầy những
chuyện khó nhọc, bực mình, họ sẽ tìm ra được những lời lẽ và cách nói thích
hợp. Phải giải thích cho cậu hiểu rằng, cậu, cũng như bạn bè đang ở tuổi trưởng
thành, đang đứng trước một cuộc thử thách nặng nề nhưng vẫn có thể vượt qua,
vì thử thách này chỉ là nhất thời. Đối với những cậu con trai đó, cần dỗ dành,
kích động hơn là ra lệnh.
Có những cậu con trai kém trí khôn nhưng lại thủ dâm khá sành sỏi. Có

lần người ta đưa tới phóng khám của bác sĩ một cậu 15 tuổi, hơi đần. Họ yêu
cầu bác sĩ chữa cho cậu khỏi chứng thủ dâm vì cho rằng việc thủ dâm làm cậu
trở nên đần độn. Tất nhiên trong trường hợp này, gần như bác sĩ đã để cho họ về
không.
Các bậc cha mẹ thường hay hốt hoảng, ghê sợ khi thấy con trẻ thủ dâm vì
họ liên tưởng tới sự thủ dâm của người lớn. Nhưng thủ dâm của trẻ em với
người lớn hoàn toàn khác nhau về bản chất. Hành vi ấy ở trẻ em không gắn với
tình dục. Mức độ cảm giác mà chúng đạt được cũng rất xa với cảm giác tình
dục. Sau này khi lớn lên, khi thủ dâm kết thúc bằng xuất tinh, những cậu con
trai đó sẽ nhận ra sự khác nhau của thủ dâm ở hai thời kỳ. Đại đa số trẻ không
dễ gì quên được cảm giác dễ chịu của thủ dâm lần đầu. Ngược lại, rất nhiều
thanh niên từ bỏ việc thủ dâm một cách chóng vánh, nhẹ nhàng khi biết tới tình
cảm yêu thương thực sự. Trong giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, các cậu con trai
thủ dâm do sự căng thẳng ở bên trong. Sự căng thẳng này do hoạt động của
hoóc môn gây nên, mặc dù lúc này các cậu chưa có tinh trùng và chưa có sự
xuất tinh. Trong thời kỳ cuối của tuổi dậy thì và tuổi trưởng thành, thủ dâm đã
có sự trợ giúp của trí tưởng tượng. Khuôn mặt, hình thể của một cô gái hoặc
người đàn bà đẹp nào đó xuất hiện trong đầu các cậu khi các cậu bắt đầu thủ
dâm. Nhưng sau đó, khi các cậu đã có sự giao tiếp tình dục thì sự thủ dâm tự rút
lui khỏi cơ thể cậu. Nó chỉ tiếp diễn ở những người có khó khăn, trục trặc nào
đó trong hoạt động tình dục.
23
Dấu vết đầu tiên của những thiên hướng bất bình thường trong tình dục
thường bộc lộ ở trí tưởng tượng. Tất nhiên, khi đó cá nhân chưa ý thức được sự
dị biệt của mình. Những người đồng tính luyến ái khi thủ dâm hay tưởng tượng
tới những người đồng giới khỏe mạnh, chẳng hạn cơ thể một chàng trai cùng
lớp mà anh ta trông thấy rõ trong giờ thể thao hay trong lúc tắm. Dù biết rằng
chàng trai đó đã có cô gái riêng rồi, cậu ta vẫn thèm được lòng chàng, ghen với
cô gái được yêu kia. Khi nhận ra sự dị thường của mình về mặt giới tính, cậu ta
cố gắng che đậy nó bằng cách cố gắng làm quen, đi lại với các cô gái nhưng đó

vẫn chỉ là hình thức, là quan hệ bạn bè thuần túy. Chỉ sau này, khi tìm được sự
giao tiếp tình cảm và tình dục với một người đàn ông nào đó rồi, cậu ta mới
nhận rõ rằng, quan hệ giữa cậu với cô gái nọ mang tính chất khác, hoàn toàn giả
tạo về mặt tình dục.
Như vậy chúng ta thấy rằng các bậc cha mẹ trong xã hội Việt Nam vẫn
còn hết sức e ngại khi đề cập đến vấn đề nhạy cảm này trong việc giáo dục con
cái.
2.1.4. Quan điểm của y học trong vấn đề thủ dâm
Thủ dâm có hại hay không ?
Đối với giới y khoa và các chuyên gia tình dục học, cho đến những năm
60 của thế kỷ XX, thường khuyên người ta tránh thủ dâm. Họ cho rằng đó là
việc chưa chín chắn hay đáng chê trách và nếu ai đó gắn bó với chuyện này thì
người đó có thể không học được các đáp ứng của tuổi trưởng thành.
Ngày nay các chuyên gia có các quan điểm hoàn toàn khác về thủ dâm và
là quan điểm tích cực hơn. Một trong các lý do của sự thay đổi này là do sự thay
đổi lớn trong lối sống. Thủ dâm được xem xét trong bối cảnh hiện đại, được
xem như là một hành động nhẹ nhàng, đáp ứng được nhu cầu tình dục của cá
nhân, chấp nhận được, bình thường, và an toàn hơn việc ra ngoài có quan hệ mà
không biết rõ về các mối quan hệ tình dục của bạn tình và không dùng bao cao
su hoặc không dùng đúng cách.
24
Như vậy câu hỏi “Thủ dâm có hại hay không?” cũng giống như: Ăn có
hại hay không? Ăn hay thủ dâm vốn nó không có hại, đó chỉ là vấn đề điều độ
và chừng mực mà thôi. Ăn nhiều qúa, cái gì cũng ngốn thì ta gọi đó là "người
tham ăn" hay "người háu ăn" hoặc gọi là tật tham ăn, tật háu ăn … Thủ dâm
cũng thế, nó dể trở nên một thói quen, nếu không điều độ người ta gọi đó là tật
thủ dâm chứ không phải là bệnh thủ dâm.
Thường thường những người thủ dâm hay bị kẻ khác dọa dẫm rằng nó có
hại, nó là tội lỗi, nó là ngược với đạo đức … nhất là ở trẻ con sẽ gây ra một ấn
tượng một stress tâm lý về sau này.

Nhiều bạn tự lo lắng không hiểu tự kích thích mình thì có hại không và
thế nào là vừa phải. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học đã tổng kết rằng:
Những người dưới tuổi 20 thì có thể quan hệ và xuất tinh 3-4 lần/ngày. Người ở
tuổi 20-30 mỗi ngày 2-3 lần, người trên 60 tuổi thì 5-10 ngày một lần. Như vậy
cứ 6h thủ dâm một lần là hơi quá, 4h thủ dâm một lần là nhiều, theo kinh
nghiệm cho thấy những người mới có gia đình thì mỗi ngày quan hệ 2 đến 3 lần
là chuyện bình thường. Việc xuất tinh trong thủ dâm và xuất tinh trong quan hệ
hoàn toàn giống nhau về mặt sinh lý và chỉ khác nhau ở tình trạng tâm lý mà
thôi.
Nếu cho rằng thủ dâm là có hại vì do xuất tinh ra ngoài không trực tiếp
xuất vào âm đạo nên không có sự hòa hợp âm-dương. Thế thì tại sao người ta
lại dùng bao cao su, vì bao cao su cũng chặn tinh khí vào âm đạo.
Quan sát số thống kê thì thấy rằng hành vi thủ dâm là một hành vi tình
dục tự nhiên nhằm thỏa mãn nhất thời và một mình khi chưa có đối tượng. Thủ
dâm là một hành vi giải phóng những bức xúc của thân xác. Sau khi xuất tinh
thì những bức xúc đó giảm ngay. Những trường hợp hiếp dâm là những trường
hợp phạm nhân không giải quyết được những bức xúc đó.
Vì là một việc có tính cách nhất thời và đơn độc nên số lần thủ dâm trong
ngày nhiều thì ba bốn lần, ít thì khi nào bức xúc mới làm. Như vật thì so với
25

×