Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.66 KB, 67 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những
đặc trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói
riêng trong từng thời kỳ nhất định. Công tác thẩm định trong hoạt động cho vay
cũng không đứng ngoài nguyên tắc này.
Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ
việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu kế hoạch phát
triển đến năm 2010 như thủy sản, dệt may, … Năm qua, GDP tăng trưởng 8,2%
cùng với sự tăng trưởng nhanh của lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghiệp, xây
dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài,… Việc gia nhập và
thực hiện các cam kết WTO sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tạo ra một
thị trường mở hơn và có tính cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực ngân hàng
tăng trưởng cả về qui mô và tính phức tạp.
Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, hàm chứa nhiều rủi
ro, đặc biệt trong hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những
tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả nợ đúng hạn,
không trả được hoặc không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Hoạt động cho vay có quy
mô lớn nhất trong tất cả các hoạt động tại ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho ngân hàng, nên khi có rủi ro, thì rủi ro đó tác động đến tất cả các hoạt động
khác trong ngân hàng như huy động vốn, kinh doanh dịch vụ, kế toán thanh
toán,…Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân hàng cần tìm kiếm những khách hàng
có khả năng vay và trả đúng hạn, tìm kiếm được những phương án sản xuất kinh
doanh khả thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết định cho vay. Muốn vậy, ngân
hàng cần làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay để hạn chế mức thấp nhất
rủi ro có thể xảy ra, cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận có thể thu được.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay tại chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công” làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp. Đề tài đã nêu ra một số kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay của
NHTM và công tác thẩm định trong hoạt động cho vay. Đồng thời, đề tài này


cũng nêu lên thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công trong những năm gần đây, hướng
đến một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động
cho vay tại Chi nhánh.
Chuyên đề được chia làm ba phần chính:
Chương I: Lý thuyết về Chất lượng thẩm định tài chính trong hoạt động
cho vay của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định tài chính trong hoạt động
cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định
tài chính trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công
Ngoài ra, chuyên đề còn có hệ thống các bảng số liệu, biểu đồ minh họa.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo trực tiếp hướng
dẫn đã giúp em hoàn thành chuyên đề này, cảm ơn toàn thể cán bộ của Ngân
hàng Ngoại thương Thành Công, đặc biệt là các anh chị ở phòng Quan hệ khách
hàng đã tạo điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp đầy đủ số liệu
trong suốt thời gian em thực tập tại ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay
1.1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân

hàng. Ngân hàng là một kênh quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi và cung cấp
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu nền kinh tế.
Xét theo phương diện các loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, Peter Rose
cho rằng: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam 1997, Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo Nghị định 49-CP của Chính phủ ban hành năm 2000, Ngân hàng
thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực
hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay đều có định
hướng hoạt động khá giống nhau là kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, phục vụ đa
dạng các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây cũng là xu hướng phát
triển hoạt động kinh doanh của hầu hết các tổ chức tài chính, NHTM trên thế
giới
Các chức năng cơ bản của một ngân hàng đa năng ngày nay:
1.1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM nói riêng và của các
trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo
thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.
Theo Điều 4, NĐ 49/2000/NĐ-CP, Ngân hàng thương mại được cấp tín
dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu
và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo
quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Cho vay là một bộ phận của hoạt động tín dụng. Theo QĐ 1627/2001/ QĐ

– NHNN thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng một khoản tiền sử dụng vào một mục đích và trong
một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Qua hoạt động cho vay, ngân hàng điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình
thức là phân phối lại nguồn vốn nhàn rỗi huy động được từ dân cư, doanh
nghiệp, Nhà nước, các tổ chức tín dụng khác, để đáp ứng nhu cầu về vốn phục
vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Ngân hàng hiện đại
Môi giới
Bảo hiểm
Ngân hàng đầu tư
& bảo lãnh
Thanh toán
Tiết kiệm
Tín dụng
Ủy thác
Quản lý tiền mặt
Lập kế hoạch đầu tư
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều 5 NĐ này quy định: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá
nhân vay vốn dưới các hình thức :
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Phân loại:
• Căn cứ theo thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: dưới 12 tháng, mục đích của loại cho vay này thường
tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động của khách hàng;

- Cho vay trung hạn: từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài
sản cố định;
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm, thường là đầu tư vào các dự án.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính tương đối vì nhiều khoản
vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Việc phân chia theo thời
gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết
đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
• Căn cứ vào phương thức cho vay của ngân hàng:
- Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép khách
hàng (người vay) được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một
giới hạn nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được
gọi là hạn mức thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng
không phù hợp về thời gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện cho
khách hàng trong việc thanh toán: chủ động, nhanh chóng và kịp thời. Thấu chi
là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có
đảm bảo, có thể cấp cho doanh nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày trong tháng,
vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,…
Do vậy hình thức này chỉ sử dụng cho đối tượng khách hàng có độ tin cậy cao,
thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
- Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa
thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, là số dư tối đa tại thời điểm
tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu
cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay –
trả nhiều lần nhưng số dư không được vượt quá hạn mức tín dụng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho khách
hàng vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay dựa
trên lưu chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên
cứu kỹ kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian
tới. Rất thuận tiện cho khách hàng vì chỉ cần làm thủ tục 1 lần cho nhiều khoản

vay.
- Cho vay gián tiếp: Phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng đều là cho
vay trực tiếp, bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián
tiếp- là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay
qua các tổ, đội, hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội
cựu chiến binh,… Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của quá trình cho vay
sang các tổ chức trung gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Tổ chức trung gian
cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn. Điều này rất thuận tiện
khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi
phí trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Ngân
hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá
trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Hình thức cho vay gián tiếp thường được áp dụng đối với thị trường có các món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng, qua trung gian có thể tiết kiệm
được chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu nợ,…). Mặc dù hình thức cho vay
qua trung gian hạn chế được rủi ro và chi phí cho ngân hàng, nhưng nó cũng bộc
lộ một số khuyết điểm như: nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình và nếu
ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ lấy số
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiền của các thành viên khác cho mình, các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán
hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
• Căn cứ theo hình thức hoàn trả nợ vay:
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thới hạn tín dụng xác định. Cho vay trả
góp thường được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ
hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ. Ngân hàng thanh toán tiền hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp
cho người bán lẻ. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía
ngân hàng, và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực

tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó
đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa. Đây là hình thức cho vay
mang lại rủi ro cao do khách hàng thường dùng chính hàng hóa mua trả góp để
thế chấp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Vì rủi
ro cao nên cho vay trả góp thường có lãi suất cao nhất trong khung lãi suất cho
vay của ngân hàng.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải
làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích
khách hàng, ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân,
thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Theo từng kì hạn nợ trong
hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền
vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi
phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi
suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi. Nghiệp vụ cho vay từng
lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay cách biệt.
• Căn cứ theo đảm bảo hay dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng:
- Cho vay không có tài sản đảm bảo;
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Về nguyên tắc mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy
nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có
thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó các khoản nợ có đảm
bảo thực chất là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các
khoản nợ không gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ
không đảm bảo. Việc phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ
của ngân hàng mà chỉ giúp ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra
các biện pháp xử lý đảm bảo khi cần thiết.
• Căn cứ vào mục đích: Cho vay đầu tư theo dự án và cho vay tiêu
dùng.

- Cho vay đầu tư theo dự án: Bên cạnh loại hình truyền thống là cho vay
ngắn hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong việc cho vay đối
với các dự án, tài trợ cho xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành
công nghệ cao. Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định,
… nhằm thực hiệ những dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong
những yêu cầu của ngân hàng là người đi vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục
đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là
điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của
doanh nghiệp. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là rất cao song
lãi lại lớn.
- Cho vay tiêu dùng: là những món vay nhỏ lẻ cho cá nhân, phục vụ cho
mục đích tiêu dùng, mua hàng trả góp hàng hóa lâu bền như ô tô, xe máy, nhà
cửa,… Cho vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ, do yêu cầu đẩy mạnh
tiêu thụ hàng hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một
số hãng đã phải vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Trong thời gian đầu hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối
với cá nhân và hộ gia đình, vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro
vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dân dẫn đến nhu cầu
tiêu dùng ngày một cao và sự cạnh tranh trong cho vay đã khiến ngân hàng phải
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hướng tới người tiêu dùng như một đối tượng khách hàng tiềm năng. Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình
tín dụng tăng trưởng mạnh nhất ở các nước phát triển.
Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc
thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây
dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc
đồng tài trợ) toàn bộ, hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi
ro rất cao. Nếu người vay bị chết, ốm, hoặc mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được
nợ. Nhiều khoản cho vay với thời hạn dài (mua nhà thế chấp), vì vậy ngân hàng

cần lập dự phòng cho vay tiêu dùng để chuyên theo dõi. Bên cạnh đó ngân hàng
thường đòi hỏi lãi suất rất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất
nghiêp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua,…
Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay bằng cách mua trái phiếu trung
và dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình
thành tài sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất, tình
hình tài chính của doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai… đều được ngân hàng
tính toán khi mud trái phiếu. Trái phiếu cũng có thể xem như là khoản đầu tư
của ngân hàng trung và dài hạn.
Ngân hàng thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ và hình thức khác nhau,
nhằm đáp ứng nhu câù ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ
quốc gia, tổ chức tài chính, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, các doanh
nghiệp, hộ gia đình,… Các loại hình cho vay không ngừng được mở rộng, đa
dạng và hoàn thiện theo hướng mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, đồng
thời vẫn đảm bảo an toàn và lợi ích cho ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn
(huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá
trình tạo nên các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là
hai loại tài sản lớn nhất và quan trọng nhất. Cho vay là tài sản lớn nhất trong các
khoản mục tín dụng, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
- Cho vay là một kênh cung cấp vốn quy mô lớn và quan trọng nhất trong
nền kinh tế. Có rất nhiều cách để huy động vốn như: góp vốn, đi vay, phát hành
cổ phiếu, trái phiếu, vốn từ tài trợ, huy động từ các nguồn khác,…tuy nhiên đi
vay vẫn là kênh vốn phổ biến nhất với chi phí vừa phải, và tiết kiệm thời gian..
Mặc dù nếu doanh nghiệp huy động vốn bằng các hình thức khác, lãi suất sẽ
thấp hơn nhưng những chi phí khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra không phải là
nhỏ, lại mất nhiều thời gian. Ngoài ra đi vay còn giúp doanh nghiệp có một
khoản tiết kiệm từ thuế không phải nộp cho Nhà nước.

- Cho vay đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển. Trong mỗi thời
kỳ, Nhà nước đều có những chính sách, chiến lược khác nhau, nhưng đầu tư
phát triển luôn là mục tiêu hàng đầu. Do vậy hoạt động cho vay luôn được
khuyến khích, quan tâm.
1.1.2.2. Đối với ngân hàng
Cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng nhằm sử dụng nguồn vốn đã
huy động được để thu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay là nguồn lợi
nhuận chính của ngân hàng, (chiếm khoảng 70% tổng lợi nhuận).
Cho vay còn là kênh “tiêu thụ” cho nguồn vốn huy động được, không để
nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư trở nên lãng phí trong khi có rất nhiều dự án
phục vụ đầu tư phát triển đang cần vốn. Ngân hàng cho vay, thu lãi nhằm bù đắp
phần lãi phải trả cho người gửi tiền, đồng thời kiếm lợi cho mình, đảm bảo duy
trì ổn định và kinh doanh có hiệu quả.
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay
Bản chất của hoạt động cho vay là một loại hình cấp tín dụng nên nó có đầy
đủ những đặc điểm của hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng vì mục tiêu
sinh lời, như vậy, mục tiêu an toàn và sinh lời vẫn là mục tiêu chính trong quản
lý tín dụng.
Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thu dự tính từ hoạt động cho vay (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc
vào quy mô, thời gian và lãi suất; và cả ba yếu tố này có quan hệ mật thiết với
nhau. Thứ nhất, ngân hàng sử dụng mọi nỗ lực của mình để tăng quy mô cho
vay như mở rộng mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình cho vay, phát triển công
nghệ mới nhằm gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp
các điều kiện ưu đãi,…các biện pháp này một mặt làm tăng quy mô, song mặt
khác cũng làm tăng chi phí. Do vậy, thứ hai ngân hàng phải nghiên cứu và xác
lập mối quan hệ giữa các biện pháp tăng quy mô với thu nhập ròng từ hoạt động
cho vay thông qua chênh lệch lãi suất biên. Mối quan hệ này cho phép ngân

hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ khác với các khách hàng lớn,
quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác trên thị trường.
Cho vay cũng là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho NHTM.
Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất và làm
giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm
phần lớn vốn chủ sở hữu, đẩy ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, an toàn
tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại.
Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động cho vay. Trước khi
cho vay, mối quan hệ có thể là: rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn; cho
vay trung và dài hạn, cho vay tiêu dùng,… rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa
sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay ngắn hạn hoặc cho vay đối với doanh nghiệp,
… Tuy nhiên sau khi cho vay rồi thì mối quan hệ sẽ là: tổn thất càng cao thì sinh
lời càng thấp. Ngân hàng có thể theo đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp
trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối quan hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm
bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài hạn.
Nếu phân chia theo thời gian có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài
hạn. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn trong ngân hàng thường cao hơn so với cho vay
trung và dài hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách
hàng. Cho vay trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn,
nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như:
kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân
hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn,…
Tín dụng là hoạt động có quy mô rất lớn, khoản mục này thường chiếm
khoảng 70% tổng tài sản của ngân hàng, mà trong đó phần lớn là cho vay.
Với quy mô như vậy, cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động
của ngân hàng như dự trữ, huy động vốn, đầu tư,… Khi chứng khoán thanh
khoản chưa có hoặc khan hiếm, hoặc khi khả năng gia tăng huy động vốn bị hạn
chế, nhiều ngân hàng đã phải sử dụng co vay như một tài sản đảm bảo thanh
khoản. Vì vậy ngân hàng thường nghiêng về việc nắm giữ các khoản cho vay
ngắn hạn, hoặc các khoản tín dụng có khả năng chuyển đổi nhanh. Các khoản

cho vay 3 tháng nhanh chóng sẽ được thu hồi để đáp ứng nhu cầu chi trả. Trong
điều kiện ngân hàng chuyển hoán kì hạn của nguồn, việc thu nợ nhiều lần trong
kì (nhiều kì hạn nợ) sẽ góp phần tăng tính thanh khoản cho khoản cho vay.
1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương
mại
1.2.1. Thế nào là Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho NHTM.Tổn thất nếu xảy
ra sẽ làm giảm thu nhập dự tính của ngân hàng, có thể gây ra thua lỗ hoặc dẫn
đến ngân hàng bị phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước
lượng khả năng rủi ro và sinh lời trước khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá
trình phân tích tín dụng, trong đó có quá trình thẩm định trước khi cho vay. Đây
là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Quá trình
thẩm định phải khẳng định được khoản vay có đáp ứng đủ các điều kiện theo
quy định cho vay của pháp luật, có mang tính khả thi và hiệu quả hay không,
khách hàng có đủ khả năng trả nợ cả gốc lẫn lãi theo kì hạn đề nghị không, ngân
hàng có quyền đối với tài sản đảm bảo như thế nào,… từ đó phải đưa ra quyết
định có cho khách hàng vay hay không, và rủi ro dự kiến là bao nhiêu.
Thẩm định trong hoạt động cho vay là việc xem xét, đánh giá hồ sơ xin vay
vốn của khách hàng, kết hợp với thu thập các thông tin khác để đưa ra kết luận
về khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng cũng như hiệu quả và mức độ rủi ro
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của phương án vay, từ đó nêu rõ ý kiến về việc đồng ý hay không đồng ý cho
vay và các điều kiện vay được áp dụng.
Trong thẩm định hồ sơ trước khi cho vay, Thẩm định tình hình tài chính
của khách hàng là khâu quan trọng nhất, mà chủ yếu là thẩm định các Báo cáo
tài chính của khách hàng. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay là việc
rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của
khách hàng trên giác độ của Ngân hàng, quan tâm chủ yếu tới khả năng trả nợ
của khách hàng.

Đầu tiên, Ngân hàng phải thẩm định các chỉ tiêu nêu trên Báo cáo tài chính
mà doanh nghiệp cung cấp, có đầy đủ và đúng không, độ tin cậy có cao không.
Quan trọng hơn, Ngân hàng cần xem xét, phân tích các chỉ tiêu tài chính của
khách hàng thể hiện trên các Báo cáo tài chính, đánh giá tình hình hoạt động
kinh doanh của khách hàng, hiệu quả và mức độ rủi ro của phương án sản xuất
kinh doanh, từ đó đưa ra kết luận về khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng,
bao gồm cả gốc và lãi.
1.2.2. Vai trò của Thẩm định tài chính
Cho vay là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng
trong hoạt động của NHTM. Tuy nhiên hoạt động cho vay lại chứa đựng nhiều
rủi ro nhất đối với ngân hàng, có khả năng làm giảm thu nhập của ngân hàng và
nguy cơ dẫn đến phá sản ngân hàng. Vì vậy, việc thẩm định trước khi cho vay là
khâu vô cùng quan trọng trong việc dự kiến rủi ro có thể xảy ra và lợi nhuận có
thể thu được, xem xét mối quan hệ giữa chúng, từ đó hạn chế đến mức tối thiểu
rủi ro cho ngân hàng.
Khi đi vay, khách hàng nào cũng muốn vay được tiền, nên thường cung cấp
một hồ sơ “đẹp” cho ngân hàng. Thông tin khách hàng đưa ra thường được phản
ánh không đúng với thực tế, khai tăng số liệu theo chiều hướng có lợi cho khách
hàng. Vì vậy khâu thẩm định là vô cùng quan trọng và cũng rất khó khăn nhằm
xác định đâu là thông tin chính xác, thông tin nào là khai man, có bao nhiêu %
đúng sự thật, thông tin nào là cần thiết đối với ngân hàng,…
Trong thực tế, công tác phân công quản lý khách hàng của các NHTM Việt
Nam hiện nay đều rất ít có sự phân công cán bộ tín dụng theo ngành nghề kinh
tế. Cán bộ tín dụng làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng, tích luỹ được nhiều kinh
nghiệm song không đi chuyên sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều
kiến thức chuyên ngành hẹp. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi nộp hồ sơ xin
vay kèm báo cáo nghiên cứu khả thi, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc
chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá
thường đòi hỏi chi phí cao, các ngân hàng đa phần không thực hiện. Biện pháp
chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tìm hiểu

thông tin thông qua các cơ quan quản lý ngành mà doanh nghiệp hoạt động hoặc
Tổng cục Đo lường chất lượng để xác minh. Song, các cơ quan quản lý tầm vĩ mô
không theo sát được hoạt động của các đơn vị kinh doanh nên trong nhiều trường
hợp cũng không thể đưa ra ý kiến chính xác. Nếu cán bộ ngân hàng không có kiến
thức chuyên môn của riêng mình về chuyên ngành cần thẩm định trong dự án của
khách hàng sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho doanh nghiệp hoặc
ngược lại, bị doanh nghiệp thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định
sai lầm trong cho vay.
Ngân hàng thẩm định khoản vay để xem khoản vay có đáp ứng đủ điều
kiện theo quy định về cho vay của pháp luật và ngân hàng hay không, khách
hàng có khả năng trả nợ đúng hạn hay không, phương án sản xuất kinh doanh do
khách hàng đưa ra có khả thi không.
Thẩm định tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của khách hàng,
khả năng quản lý tài sản, điều tiết nguồn vốn, quản lý dòng tiền,… đồng thời
đánh giá tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó, Ngân hàng còn ước lượng rủi ro và sinh lời mà ngân hàng có thể thu
được từ khoản cho vay qua việc thẩm định. Quá trình này cũng gắn liền với việc
xem xét khoản vay có phù hợp với chính sách tín dụng của Ngân hàng trong
từng thời kỳ hay không.
Để hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng, biện pháp hàng đầu và có
hiệu quả nhất là ngân hàng phải tìm kiếm được những khách hàng có khả năng
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vay và trả đúng hạn, tìm kiếm được những phương án sản xuất kinh doanh khả
thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết định cho vay.
Với những vai trò như vậy, Thẩm định tài chính đóng vai trò chủ chốt trong
công tác thẩm định trước khi cho vay, ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định cho
vay của Ngân hàng đối với một khách hàng. Thông qua hoạt động này, Ngân
hàng có thể đánh giá được năng lực tài chính của khách hàng, cũng như phân
tích hiệu quả dự án vay vốn khách hàng đề xuất mang lại, từ đó có được quyết

định cho vay đúng đắn, hạn chế tối thiểu khả năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng,
tổn thất cho ngân hàng.
1.2.3. Nội dung Thẩm định tài chính
Thẩm định cho vay là bước quan trọng nhất trong việc xét duyệt hồ sơ vay
vốn của khách hàng. Thẩm định thường được thực hiện sau khi nhận đầy đủ hồ
sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp, cộng thêm quá trình thu thập thông tin bên
ngoài của cán bộ thẩm định. Công tác thẩm định bao gồm hai phần: Thẩm định
phi tài chính, được thực hiện trước, và Thẩm định tài chính. Nếu như Thẩm định
phi tài chính với mục đích kiểm tra xem khoản vay có đáp ứng đủ các điều kện
theo quy định cho vay của pháp luật hay không thì Thẩm định tài chính đánh giá
khoản vay có mang tính khả thi và hiệu quả hay không, khách hàng có đủ khả
năng trả nợ cả gốc lẫn lãi theo kì hạn đã định hay không, và trong trường hợp
xấu nhất có thể xảy ra thì rủi ro dự kiến là ở mức nào,...
Nội dung thẩm định tài chính:
a, Đánh giá tài sản của khách hàng:
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (Bảng cân đối tài sản), trong
đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc số kết
dư trung bình trong kì. Đối với hộ gia đình, hoặc người tiêu dùng, ngân hàng
yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các
khoản thu nhập khác. Các thông tin về tái sản cho thấy qui mô, khả năng quản
lý của khách hàng, rất quan trọng đối với quyết định cho vay của ngân hàng.
Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là
vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả
năng sinh lời.
Ngân quỹ: Ngân quỹ luôn được xem xét đầu tiên, cho thấy khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Đây chính là nguồn tiền để trả cho chủ nợ, trả nợ cho
Ngân hàng, trả lương công nhân, mua sắm trang thiết bị, hàng hoá, nguyên vật
liệu,… Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu. Tiền
gửi và tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu ( chủ yếu là

tiền bán hàng hóa dịch vụ chưa thu được tiền) luôn có khả năng chuyển thành
tiền gửi hoặc tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kỹ khoản này để loại trừ các
khoản bán chịu không thu được, khó thu hoặc đã bán lại cho người khác. Các
khoản cho vay ngắn hạn liên quan chặt chẽ đến ngân quỹ của khách hàng, đặc
biệt thời hạn cho vay có thể tính toán dựa trên số ngày của kỳ thu tiền.
Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các
tài sản này làm tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
Hàng tồn kho: Rất nhiều món vay ngắn hạn với mục đích tăng dự trữ hàng
hóa, có nghĩa là một phần hàng hóa trong kho được hình thành từ vốn vay ngân
hàng. Do đó ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo
hiểm, rủi ro đối với hàng hóa trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng
còn yêu cầu người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hóa kém, mất
phẩm chất, chậm tiêu thụ, phát hiện hàng giả, hàng nhái, hàng người khác gửi,...
Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận tải,
thiết bị văn phòng,... thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn. Khoản mục
Tài sản phản ánh quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như là
phương hướng sản xuất trong tương lai. Nếu tỷ lệ TSCĐ/ Tổng tài sản của
doanh nghiệp cao, cho thấy đây là doanh nghiệp lớn, tiềm lực mạnh. Bên cạnh
đó, nếu doanh nghiệp đầu tư nhiều vào TSCĐ, chứng tỏ doanh nghiệp có định
hướng đầu tư lâu dài chứ không phải chỉ trong một thời gian ngắn.
b, Đánh giá các khoản nợ:
Nợ của người vay có thể được phân chia thành nhiều tiêu thức khác nhau:
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Về thời gian: gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay
trung và dài hạn). Nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong
năm, và các khoản nợ phải trả trong những năm sau. Nhìn chung, các khoản vay
ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và
dài hạn thường dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó tính tương quan giữa
chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng

phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách
hàng là 2 yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng.
Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả chủ nợ của khách hàng: có thể là các khoản
nợ cũ, các khoản nợ của ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao
động,... Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kỹ
lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu nợ hơn là ở
các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét đến các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo, và các
nợ khác. Các tài sản đã và đang làm tài sản đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải
được tính lại theo giá trị trị trường và bị loại trừ; nếu chúng được lấy làm tài sản
đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.
c, Phân tích luồng tiền:
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo
ra lợi nhuận trong tương lai, Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt
chẽ tới ngân quỹ của người vay (ví dụ, cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các
khoản thu nhập của người vay, kì hạn thu nợ có thể lệch pha với khoản thu của
người vay,...). Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng đối
với các vấn đề tín dụng trong tương lai. Và nhiều khoản mục liên quan đén dòng
tiền lại không được chỉ dẫn đầy đủ trong Bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp
như: phần lớn luồng tiền sau tháng 12 đều không được ghi vào bảng cân đối,
phần lớn trách nhiệm thanh toán không được chỉ ra trong cân đối khi mà vào
thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song
trong bảng cân đối lại đề cập rất ít đến bán hàng.
Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai -
phụ thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai - cần phải được dự kiến. Kế
hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản mục tiền mặt, tiền gửi
ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện
tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ có
thể có luồng tiền âm (không có khả năng chi trả).

d, Sử dụng các tỉ lệ:
Để quá trình phân tích được thực hiện với thời gian ngắn, và phần nào được
chuẩn hóa, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài
hcinhs của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp
dụng trong phân tích từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong
nhiều trường hợp, ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cán bộ tín dụng sắp xếp
và cho điểm tín dụng đối với từng tỷ lên của mỗi người vay. Điểm cần chú ý là
các tỷ lệ này thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó tìm
kiếm các số có mối tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơn nữa các tỷ lệ này
lấy ra từ các báo cáo tài hcinhs phản ánh tình hình đã đang xảy ra, trong khi
ngân hàng lại quan tâm chủ yếu đến những cái sẽ xảy ra trong tương lai, nên các
tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân
hàng.
Bảng 1: Các chỉ tiêu đánh giá
STT Chỉ số Nội dung
Chỉ tiêu thanh khoản
1 Khả năng thanh toán hiện hành Tài sản lưu động + đầu tư tài chính ngắn
hạn / (nợ ngắn hạn + nợ dài hạn đến hạn)
2 Khả năng thanh toán nhanh Tài sản có tính lỏng cao / nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu hoạt động
3 Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán /Hàng tồn kho bình
quân đầu kỳ và cuối kỳ
4 Kỳ thu tiền bình quân (Giá trị các khoản phải thu bình quân
/Doanh thu thuần) * 365
5 Doanh thu thuần /Tổng tài sản Doanh thu thuần /Tổng tài sản bình quân
đầu và cuối kỳ
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chỉ tiêu cân nợ
6 Nợ phải trả /Tổng tài sản Nợ phải trả /Tổng tài sản

7 Nợ phải trả /Nguồn vốn chủ sở
hữu
Nợ phải trả /Nguồn vốn chủ sở hữu
8 Nợ phải trả /Tổng dư nợ ngân
hàng
Nợ phải trả /Tổng dư nợ ngân hàng
Chỉ tiêu sinh lời
9 Tổng thu nhập trước thuế /Doanh
thu thuần
Tổng thu nhập trước thuế /Doanh thu
thuần
10 Tổng thu nhập trước thuế /Tổng tài
sản
Tổng thu nhập trước thuế /Tổng tài sản
bình quân
11 Tổng thu nhập trước thuế /Nguồn
vốn chủ sở hữu
Tổng thu nhập trước thuế /Nguồn vốn chủ
sở hữu bình quân
Các loại tỷ lệ
• Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay vốn trong việc đáp ứng
trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó, ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh
toán các trái phiếu khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng
cao thì khả năng thanh toán của người vay càng tốt.
- Tỷ lệ thanh toán nhanh: được đo bằng ngân quỹ của người vay trên các
khoản nợ hiện hành (các khoản nợ ngắn hạn, trung và dài hạn đến hạn trong kỳ).
Mẫu số phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả, trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong
két và tiền gửi ngân hàng, hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu).
Điều đáng chú ý là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có thể giảm nhanh chóng do
người vay cần thanh toán tiền mua hàng hoặc ttả lương, các khoản đang trong

quá trình thu có thể không thu được. Do đó ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng các
khoản đang trong quá trình thu, tính số ngày thực tế của một kỳ thu, loại trừ nợ
nần dây dưa.
- Tỷ lệ thanh toán trung bình: đo bằng tỷ lệ TSLĐ trên nợ hiện hành. Tử số
gồm ngân quỹ và hàng hóa của người vay (gồm hàng tồn kho, hàng đang đi
đường, hàng tại quầy,...). Điều đáng quan tâm là giá cả hàng tồn kho và các loại
hàng hóa kém luân chuyển. Ngân hàng phải loại các loại hàng hóa này ra khỏi tử
số của tỷ lệ thanh khoản.
• Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo ra lợi nhuận của người vay. Khả năng
sinh lời của người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng.
Các tỷ lệ này đều có tử số là lợi nhuận ròng trước hoặc sau thuế, hoặc doanh thu,
còn mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Để có thể
phân tích được các tỷ lệ sinh lời, bên cạnh bảng cân đối kế toán, ngân hàng cần
có Báo cáo kết quả kinh doanh.
• Nhóm tỷ lệ rủi ro: Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta cần có nhiều
trường hợp điều chỉnh rủi ro trong mọi trường hợp. Có rất nhiều cách tiếp cận
rủi ro của người đi vay như:
- Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên liệu? Tác
động trong thay đổi chi phí là bao nhiêu? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng
nhất? Lao động, hay vốn? Có thay đổi nhanh trong kỹ thuật khác như thế nào?
Tác động của nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi chi phí cơ cấu là
gi? Rủi ro tác động tới việc sử dụng trang thiết bị là gì?
- Tiếp thi: Các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co giãn với giá hay
không? Thu nhập là co giãn? Sản phẩm thay thế là gì? Nhập khẩu có lớn không?
Chiến lược cạnh tranh là gi? Những gì cản trở việc các đối thủ khác gia nhập thi
trường là gi? Thay đổi trong nhu cầu của khách hàng? Người bán có quyền lực
hơn người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng là gì?
- Nhân sự: Cái gì làm năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người
lao động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá
nhân đặc biệt?

- Tài chính: Sức chịu đựng của doanh nghiệp với thay đổi của lãi suất? Có
bao nhiêu cách huy động tiền? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án?
Việc đa dạng các nguồn thu?
- Chính sách của chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác
động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tế? Bảo vệ nhập khẩu? Trợ
cấp xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
• Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu đủ để tài trợ một
phần cho TSLĐ và TSCĐ.
- Tỷ lệ tài trợ bằng vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản
- Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay, tỷ lệ này vào khoảng 0.3 – 0.4 hoặc thấp hơn, buộc
ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
- Tùy theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập
trung chú ý vào tỷ lệ tài trợ vào tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay
ngắn hạn, ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản
xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình
trạng tài trợ của doanh nghiệp (ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác
định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn, thì khấu hao và
thu nhập sau thuế cùng với giá trị còn lại của tài sản là những yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định cho vay của ngân hàng.
1.2.4. Nguồn thông tin cho thẩm định
Vấn đề quan trọng đầu tiên khi thực hiện thẩm định là thu thập thông tin có
chất lượng. Chất lượng thông tin đưa vào thẩm định có ảnh hưởng rất lớn đến
kết quả phân tích, qua đó ảnh hưởng lớn đến quyết định cho vay của ngân hàng.
Chất lượng thông tin được thể hiện ở 3 thuộc tính: đầy đủ, kịp thời và chính xác.
Chỉ khi nào thông tin thu thập được đầy đủ 3 yếu tố trên thì mới được xem là
thông tin có chất lượng và hữu ích cho quá trình thẩm định.

Thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định có thể được thu thập từ các
nguồn:
- Thông tin từ hồ sơ vay vốn của khách hàng:
Bước đầu tiên của quá trình tín dụng là tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn
của khách hàng. Khi khách hàng đề nghị vay vốn, ngân hàng yêu cầu khách
hàng phải nộp cho ngân hàng một bộ hồ sơ. Qua bộ hồ sơ này, ngân hàng có thể
thu thập khá nhiều thông tin về khách hàng, bao gồm:
+ Thông tin về tư cách pháp nhân của khách hàng vay vốn.
+ Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng thể hiện qua các báo
cáo tài chính của các kỳ gần nhất.
+ Thông tin về kế hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh của khách hàng.
+ Thông tin về hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng và khả năng hoàn
trả nợ vay thể hiện qua phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả….
Từ các thông tin được khách hàng cung cấp trong hồ sơ vay vốn, đặc biệt là
từ các báo cáo tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, ngân
hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình tài chính của khách hàng trong tương lai
gần, ước tính nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu tài trợ, các thiệt hại có thể xảy ra
nếu khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, giá trị tài sản thế chấp có thể
phát mãi khi cần thiết.
- Thông tin lưu trữ tại ngân hàng:
Đây là nguồn thông tin mà ngân hàng đã thu thập được từ trước kia khi
khách hàng có mối quan hệ tín dụng với ngân hàng, và được lưu trữ lại để sử
dụng cho những lần vay tiếp theo. Nguồn thông tin này rất quan trọng vì nó đã
được qua kiểm chứng và đáng tin cậy. Thông tin này cũng có thể là thông tin về
tài khoản tiền gửi, hay thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Đây cũng có
thể là các hồ sơ vay vốn trước đó của khách hàng tại ngân hàng. Nguồn thông
tin này giúp ích cho ngân hàng rất nhiều trong việc thẩm định tín dụng ngắn hạn.
Nếu khách hàng đã có quan hệ tín dụng với ngân hàng và đã chấp hành tốt các
điều khoản của hợp đồng tín dụng thì sẽ thuận tiện hơn cho cả ngân hàng và
khách hàng.

- Thông tin qua phỏng vấn và điều tra khách hàng:
Thông tin lấy từ hồ sơ của khách hàng có nhược điểm là mức độ tin cậy
không cao vì thông tin này do chính khách hàng cung cấp, chưa qua kiểm chứng
và xử lý. Thông tin lưu trữ thì đã qua kiểm chứng nhưng lại có nhược điểm là số
liệu cũ, không được cập nhật thường xuyên, lại rất ít, rất hạn chế. Để khắc phục
những nhược điểm trên, cán bộ tín dụng có thể lấy thông tin qua phỏng vấn và
điều tra khách hàng. Việc phỏng vấn và điều tra khách hàng bao gồm việc gặp
gỡ trực tiếp giữa ngân hàng và khách hàng, tham quan nhà xưởng, nói chuyện
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp... Thông tin qua phỏng
vấn và điều tra khách hàng có ưu điểm là thông tin mới nhất, đồng thời nghệ
thuật phỏng vấn còn có thể lọc bỏ được một số thông tin gây nhiễu, để từ đó
chắt lọc thông tin chính xác hơn phục vụ cho việc thẩm định. Ngoài ra, thông tin
qua phỏng vấn có thể bổ sung thêm cho thông tin về khách hàng mà qua hồ sơ
chưa thể thu thập đầy đủ.
- Các nguồn thông tin khác:
Thông tin từ các ngân hàng khác, thông tin từ các đối tác, bạn hàng của
khách hàng, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh của khách hàng, thông tin từ các
tổ chức chuyên môn thu thập thông tin, thông tin từ các phương tiện truyền
thông đại chúng (báo chí, internet,...) thông tin từ các ấn phẩm của Chính phủ và
các cơ quan liên quan khác. Các nguồn thông tin này sẽ giúp cho ngân hàng có
một cái nhìn tổng quan hơn, đầy đủ hơn về khách hàng của mình, phục vụ tốt
hơn cho công tác thẩm định.
1.3. Chất lượng Thẩm định tài chính
1.3.1. Chất lượng Thẩm định tài chính là gì
Từ trước tới nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chất lượng thẩm
định tài chính của khoản tín dụng. Chất lượng công tác thẩm định là hiệu quả
của công việc các cán bộ thẩm định nhằm phục vụ cho những quyết định cho
vay của ngân hàng, thu lại lợi nhuận với mức độ rủi ro chấp nhận được là nhỏ

nhất. Chất lượng công tác thẩm định thể hiện bằng chất lượng các khoản mà
ngân hàng cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ thu nợ, thời gian thẩm
định một khoản vay,…
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Thẩm định tài chính
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn
nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ là tỷ lệ giữa dư nợ quá hạn trên tổng dư
nợ.
Nợ khó đòi: là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá
một kì gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản đảm bảo không
bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản,…
Các chỉ tiêu này liên quan chặt chẽ với nhau. Đối với ngân hàng, việc
khách hàng không trả nợ đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh
khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng
hợp đồng.Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng: hy vọng thu lại tiền
vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Mặc dù công tác thẩm định được thự hiện trước khi ra quyết định cho vay,
nhưng chất lượng của nó phải đợi đến sau khi thực hiện cho vay mới biết được.
Một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá năng lực tài chính của Ngân
hàng là nợ quá hạn. Đây cũng chính là chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định
tài chính.
Nếu ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao, cho thấy ngân hàng không dự kiến
được rủi ro khi cho vay, cũng chính là chất lượng thẩm định còn yếu.
- Thời gian thẩm định:
Công tác thẩm định suy cho cùng là cung cấp thông tin sau khi xác minh và
đánh giá, nhằm đưa ra quyết định có cho vay hay không đối với yêu cầu xin vay
vốn của khách hàng.
Thông tin phục vụ cho việc ra quyết định phải đầy đủ, chính xác và kịp

thời. Nếu thông tin đưa ra sau khi thẩm định là chính xác, đầy đủ, Ngân hàng đã
ra quyết định cho vay hay không nhưng lại không mang tính kịp thời thì sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng, làm nản lòng khách hàng đến
vay. Việc cung cấp thông tin chính xác, kịp thời sẽ giúp các lãnh đạo của ngân
hàng có quyết định đúng đắn, thể hiện tinh tần hợp tác của ngân hàng đối với
khách hàng, cho thấy chất lượng làm việc của các cán bộ tín dụng nói riêng,
cũng như cả ngân hàng nói chung, đồng thời lại tiết kiệm được thời gian cũng
như chi phí cho cả ngân hàng cũng như khách hàng.
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đây là yếu tố rất quan trọng phản ánh chất lượng hoạt động của ngân hàng,
cũng là yếu tố quan trọng nhằm giữ chân những khách hàng tốt ở lại với ngân
hàng. Hiện nay có những ngân hàng đã đưa ra rất nhiều quảng cáo như: “Cho
vay trong 3 phút”, hay “cho vay trong vòng 10 phút”,… những thông tin này đã
hấp dẫn khách hàng rất nhiều. Trên thực tế, ở các ngân hàng nước ngoài, với hệ
thống cung cấp thông tin ưu việt, công nghệ hiện đại, với đội ngũ cán bộ có trình
độ chuyên môn cao, việc phân tích và thẩm định được diễn ra trong thời gian rất
nhanh, chứ không phải là ngân hàng thẩm định qua loa, hay chấp nhận rủi ro, dễ
dãi trong việc cho vay. Điều này cho thấy chất lượng thẩm định của các ngân
hàng đó rất tốt. Bên cạnh đó là các ngân hàng thương mại của Việt Nam, hiện
công nghệ còn chưa cao, phương pháp thẩm định còn chưa khoa học, thủ tục
hành chính còn rườm rà,… dẫn đến thời gian thẩm định còn dài. Đây cũng chính
là một nhược điểm của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Quy trình thẩm định
Quy trình thẩm định tài chính của Ngân hàng có phức tạp hay không, nội
dung trong quy trình có phản ánh được đầy đủ được tình hình tài chính của
khách hàng hay chưa, các bước quy trình đã khoa học hay chưa, có gây khó
khăn cho công việc của cán bộ thẩm định hay không,… Tất cả các yếu tố trên
đều ảnh hưởng trực tiếp tới công tác thẩm định. Đây cũng là một chỉ tiêu phản
ánh chất lượng công tác thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân

hàng.
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng Thẩm định
Hoạt động của ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm, nên nó chịu tác
động của rất nhiều yếu tố. Công tác thẩm định là một bộ phận của hoạt động
ngân hàng nên cũng không tránh khỏi điều đó. Có rất nhiều nhân tố tác động đến
chất lượng thẩm định, được chia làm hai nhóm chính: các nhân tố khách quan và
các nhân tố chủ quan.

×