Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Mô hình chuỗi cung ứng, Giới thiệu các phương pháp khác. Phân tích và xây dựng mô hình ERP vào công ty Cổ phần Tin học Minh Thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 40 trang )

ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI


Hà Nội, 28/5/2012
Môn:

Phát triển hệ thống doanh nghiệp điện
tử (ERP - Enterprise Resource Planning)
Tên đề tài: Mô hình chuỗi cung ứng, Giới thiệu các phương pháp khác. Phân tích
và xây dựng mô hình ERP vào công ty Cổ phần Tin học Minh Thông
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên
LỚP: KHMT4 – K5
Nhóm 21: Nguyễn Ngọc Tuấn (Mã HS: 0547160055)
Điểm 1 Điểm 2 Điểm 3
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
I. KHÁI QUÁT VỀ ERP 4
II. MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG 5
1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG 5
1.1. Định nghĩa về chuỗi cung ứng 5
1.2. Chuỗi cung ứng tổng quát 8
1.3. Những vấn đề chính trong quản trị chuỗi cung ứng: 9
1.4. Mục tiêu của chuỗi cung ứng: 9
III. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC: GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ SẢN XUẤT TRONG ERP 10
1. Tổng quan về quản trị sản xuất - MRP (Manufacturing Resource Planning): 10
1.1. Quản trị sản xuất nhằm đạt các mục tiêu: 11
1.2. Quản trị sản xuất tập trung vào các vấn đề: 11
1.3. Yêu cầu của tổ chức sản xuất: 11
2. Phân hệ quản trị sản xuất trong ERP 13


2.1. CÁC YÊU CẦU CẦN CÓ 13
2.2. LƯU Ý KHI TRIỂN KHAI 15
3. KẾT LUẬN 16
IV. PHÂN TÍCH VÀ XÂY DỰNG GIẢI PHÁP ERP cho CÔNG TY CỔ PHẦN TIN
HỌC MINH THÔNG – MTC 17
1. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM 17
1.1. Phân loại 17
1.2. Vai trò 17
2. THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM 18
3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ PHÂN PHỐI TẠI VIỆT NAM 22
3.1. Phương thức phân phối hiện đại sẽ ngày càng chiếm ưu thế, phương thức
phân phối truyền thống sẽ ngày càng bị thu hẹp nhưng không hoàn toàn biến mất
23
3.2. Các nhà phân phối nước ngoài chiếm thế áp đảo trong kênh phân phối hiện
đại 24
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 2 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
3.3. Liên kết sẽ diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà phân phối trong nước để tạo thành
những chuỗi liên kết có đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp phân phối
nước ngoài 26
3.4. Hệ thống phân phối hàng hoá sẽ tiếp tục phát triển theo hướng tập trung vào
chất lượng 27
3.5. Xuất hiện các phương thức phân phối hiện đại mới 28
4. CÔNG TY CỔ PHẦN TIN HỌC MINH THÔNG – MTC 30
4.1. Giới thiệu 30
4.2. Các dòng sản phẩm: 30
4.3. Tình hình tài chính: 30
4.4. Thị trường nhập khẩu: 31

4.5. Mô hình kênh phân phối sản phẩm linh kiện máy tính nhập khẩu của công ty
MTC: 31
4.6. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin tại công ty cổ phần tin học Minh
Thông: 33
4.7. Các giai đoạn đầu tư công nghệ thông tin vào doanh nghiệp: 33
4.8. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin tại công ty cổ phần tin học Minh
Thông: 34
4.9. XÂY DỰNG GIẢI PHÁP ERP VÀO CÔNG TY Cổ phần tinh học Minh Thống 35
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 3 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
I. KHÁI QUÁT VỀ ERP
ERP (viết tắt của
Enterprise Resource Planning
- Hoạch định tài
nguyên doanh nghiệp ), nguyên thuỷ ám chỉ một hệ thống dùng để hoạch
định tài nguyên trong một tổ chức, một doanh nghiệp. Một hệ thống ERP điển
hình là nó bao hàm tất cả những chức năng cơ bản của một tổ chức. Tổ chức
đó có thể là doanh nghiệp, tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức phi chính phủ v.v.
Một phần mềm ERP, nó tích hợp những chức năng chung của một tổ
chức vào trong một hệ thống duy nhất. Thay vì phải sử dụng phần mềm kế
toán, phần mềm nhân sự-tiền lương, quản trị sản xuất song song, độc lập
lẫn nhau thì ERP gôm tất cả vào chung 1 gói phần mềm duy nhất mà giữa các
chức năng đó có sự liên thông với nhau
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 4 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
II. MÔ HÌNH CHUỖI CUNG ỨNG

1. TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
1.1. Định nghĩa về chuỗi cung ứng
Cạnh tranh một cách thành công trong bất kỳ môi trường kinh doanh
nào hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải tham gia vào công việc kinh
doanh của nhà cung cấp cũng như khách hàng của nó. Điều này yêu cầu các
doanh nghiệp khi đáp ứng sản phẩm hoặc dịch vụ mà khách hàng cần phải
quan tâm sâu sắc hơn đến dòng dịch chuyển nguyên vật liệu, cách thức thiết
kế và đóng gói sản phẩm và dịch vụ của nhà cung cấp, cách thức vận chuyển
và bảo quản sản phẩm hoàn thành và những điều mà người tiêu dùng hoặc
khách hàng cuối cùng thực sự yêu cầu (ví dụ như có nhiều doanh nghiệp có
thể không biết sản phẩm của họ được sử dụng như thế nào trọng việc tạo ra
sản phẩm cuối cùng mà khách hàng sử dụng). Hơn nữa, trong bối cảnh cạnh
tranh khốc liệt ở thị trường toàn cầu hiện nay, việc giới thiệu sản phẩm mới
với chu kỳ sống ngày càng ngắn hơn, cùng với mức độ kỳ vọng ngày càng cao
của khách hàng đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải đầu tư, và tập trung nhiều
vào chuỗi cung ứng của nó. Điều này, cùng với những tiến bộ liên tục trong
công nghệ truyền thông và vận tải (ví dụ, truyền thông di động, Internet và
phân phối hàng qua đêm), đã thúc đẩy sự phát triển không ngừng của chuỗi
cung ứng và những kỹ thuật để quản lý nó.
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 5 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trong một chuỗi cung ứng điển hình, nguyên vật liệu được mua ở một
hoặc nhiều
nhà cung cấp
; các bộ phận được sản xuất ở một
nhà máy
hoặc
nhiều hơn, sau đó được vận chuyển đến nhà

kho
để lưu trữ ở giai đoạn trung
gian và cuối cùng đến
nhà bán lẻ và khách hàng
. Vì vậy, để giảm thiểu chi
phí và cải tiến mức phục vụ, các chiến lược chuỗi cung ứng hiệu quả phải xem
xét đến sự tương tác ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng. Chuỗi
cung ứng, cũng được xem như mạng lưới hậu cần, bao gồm các nhà cung
cấp, các trung tâm sản xuất, nhà kho, các trung tâm phân phối, và các cửa
hàng bán lẻ, cũng như nguyên vật liệu, tồn kho trong quá trình sản xuất và
sản phẩm hoàn thành dịch chuyển giữa các cơ sở (xem hình 1-1)
Hình 1 – 1: Mô hình chuỗi cung ứng
Có rất nhiều định nghĩa về quản trị chuỗi cung ứng, nhưng chúng ta
bắt đầu sự thảo luận với chuỗi cung ứng.
Chuỗi cung ứng là gì?
Chuỗi cung
ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, một cách trực tiếp hay gián
tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao
gồm
nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn công ty vận tải, nhà kho,
nhà bán lẻ và khách hàng của nó
. Ví dụ một chuỗi cung ứng, còn được gọi
là mạng lưới hậu cần, bắt đầu với các doanh nghiệp khai thác nguyên vật liệu
từ đất- chẳng hạn như quặng sắt, dầu mỏ, gỗ và lương thực – và bán chúng
cho các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu. Các doanh nghiệp này, đóng
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 6 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
vai trò như người đặt hàng và sau khi nhận các yêu cầu về chi tiết kỹ thuật từ

các nhà sản xuất linh kiện, sẽ dịch chuyển nguyên vật liệu này thành các
nguyên liệu dùng được cho các khách hàng này (nguyên liệu như tấm thép,
nhôm, đồng đỏ, gỗ xẻ và thực phẩm đã kiểm tra).
Các nhà sản xuất linh kiện, đáp ứng đơn hàng và yêu cầu từ khách
hàng của họ (nhà sản xuất sản phẩm cuối cùng) tiến hành sản xuất và bán
linh kiện, chi tiết trung gian (dây điện, vải, các chi tiết hàn, những chi tiết cần
thiết ). Nhà sản xuất sản phẩm cuối cùng (các công ty như IBM, General
Motors, Coca-Cola) lắp ráp sản phẩm hoàn thành và bán chúng cho người bán
sỉ hoặc nhà phân phối và sau đó họ sẽ bán chúng lại cho nhà bán lẻ và nhà
bán lẻ bán sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Chúng ta mua sản phẩm
trên cơ sở giá, chất lượng, tính sẵn sàng, sự bảo quản và danh tiếng và hy
vọng rằng chúng thỏa mãn yêu cầu mà mong đợi của chúng ta. Sau đó chúng
ta cần trả sản phẩm hoặc các chi tiết cần sửa chữa hoặc tái chế chúng. Các
hoạt động hậu cần ngược này cũng bao gồm trong chuỗi cung ứng. Bên trong
mỗi tổ chức, chẳng hạn nhà sản xuất, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các
chức năng liên quan đến việc nhận và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Những
chức năng này bao gồm, nhưng không bị hạn chế, phát triển sản phẩm mới,
marketing, sản xuất, phân phối, tài chính và dịch vụ khách hàng.
Khi nghiên cứu hình 1-1, các doanh nghiệp nằm ở khu vực giữa được
xem như doanh nghiệp trung tâm. Trong khi doanh nghiệp trung tâm như là
doanh nghiệp lắp ráp sản phẩm cuối cùng, nó có thể là bất cứ doanh nghiệp
nào tham gia trong chuỗi cung ứng, tùy thuộc vào phạm vi tham chiếu của
nhà quản trị khi xem xét mô hình.
Tất cả các sản phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua một vài hình
thức của chuỗi cung ứng, có một số thì lớn hơn và một số thì phức tạp hơn rất
nhiều. Với ý tưởng chuỗi cung ứng này, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng chỉ
có một nguồn tạo ra lợi nhuận duy nhất cho toàn chuỗi đó là
khách hàng
cuối cùng
. Khi các doanh nghiệp riêng lẻ trong chuỗi cung ứng ra các quyết

định kinh doanh mà không quan tâm đến các thành viên khác trong chuỗi,
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 7 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
điều này rốt cuộc dẫn đến giá bán cho khách hàng cuối cùng là rất cao, mức
phục vụ chuỗi cung ứng thấp và điều này làm cho nhu cầu khách hàng tiêu
dùng cuối cùng trở nên thấp.
Có rất nhiều doanh nghiệp khác liên quan một cách gián tiếp đến hầu
hết các chuỗi cung ứng, và họ đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối
sản phẩm cuối cùng cho khách hàng. Họ chính là các
nhà cung cấp dịch vụ
,
chẳng hạn như các công ty vận tải đường không và đường bộ, các nhà cung
cấp hệ thống thông tin, các công ty kinh doanh kho bãi, các hãng môi giới vận
tải, các đại lý và các nhà tư vấn. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này đặc
biệt hữu ích đối với các doanh nghiệp trong đa số chuỗi cung ứng, vì họ có thể
mua sản phẩm ở nơi họ cần, cho phép người mua và người bán giao tiếp một
cách hiệu quả, cho phép doanh nghiệp phục vụ các thị trường xa xôi, giúp các
doanh nghiệp tiết kiệm tiền trong vận tải nội địa và quốc tế, và nói chung cho
phép doanh nghiệp phục vụ tốt khách hàng với chi phí thấp nhất có thể.
1.2. Chuỗi cung ứng tổng quát
Quản trị chuỗi cung ứng được xem như đường ống hoặc dây dẫn điện
nhằm quản trị một cách hữu hiệu và hiệu quả dòng sản phẩm/nguyên liệu,
dịch vụ, thông tin và tài chính từ nhà cung cấp của nhà cung cấp xuyên qua
các tổ chức/ công ty trung gian nhằm đến với khách hàng của khách hàng
hoặc một hệ thống mạng lưới hậu cần giữa nhà cung cấp đầu tiên đến khách
hàng cuối cùng. Chúng ta có thể xem chi tiết hơn ở hình trên
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 8 / 40

BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
1.3. Những vấn đề chính trong quản trị chuỗi cung ứng:
• Cấu hình mạng lưới phân phối
• Kiểm soát tồn kho
• Kiểm soát các hợp đồng cung ứng
• Các chiến lược phân phối
• Tích hợp chuỗi cung ứng và cộng tác chiến lược
• Chiến lược sử dụng ngoại lực và thu mua
• Thiết kế sản phẩm
• Công nghệ thông tin và hệ thống hỗ trợ ra quyết định
• Giá trị khách hàng
Bảng 1-1: Những vấn đề chính trong quản trị chuỗi cung ứng
Tối ưu hóa toàn bộ Quản trị sự không chắc chắn
Cấu hình mạng lưới phân
phối
x
Kiểm soát tồn kho x
Các hợp đồng cung ứng x
Các chiến lược phân phối x x
Tích hợp chuỗi cung ứng
và cộng tác chiến lược
x
Chiến lược sử dụng
ngoại lực và thu mua
x
Thiết kế sản phẩm x
Công nghệ thông tin x x
Giá trị khách hàng x
1.4. Mục tiêu của chuỗi cung ứng:

• Quản trị chuỗi cung ứng phải cân nhắc đến tất cả các thành tố của chuối cung
ứng; những tác động của nó đến chi phí và vai trò trong việc sản xuất sản
phẩm phù hợp với nhu cầu khách hàng; từ nhà cung ứng và các cơ sở sản
xuất thông qua các nhà kho và trung tâm phân phối đến nhà bán lẻ và các
cửa hàng.
• Hữu hiệu và hiệu quả trên toàn hệ thống; tổng chi phí của toàn hệ thống từ
khâu vận chuyển, phân phối đến tồn kho nguyên vật liệu, tồn kho trong sản
xuất và thành phẩm, cần phải được tối thiểu hóa. Ví dụ, khách hàng khi mua
máy tính từ công ty Dell phải trả 2.000 USD, đại diện cho doanh thu mà chuỗi
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 9 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
cung ứng nhận được. Dell và các giai đoạn khác của chuỗi cung ứng phát sinh
chi phí để thu thập thông tin, sản xuất bộ phận và sản phẩm, lưu trữ chúng,
vận tải, dịch chuyển tài chính…Sự khác biệt giữa 2.000 USD mà khách hàng
trả và tổng chi phí phát sinh trong chuỗi cung ứng trong việc sản xuất và phân
phối máy vi tính đến khách hàng đại diện cho lợi nhuận của chuỗi cung ứng.
Lợi nhuận của chuỗi cung ứng là tổng lợi nhuận được chia sẻ xuyên suốt
chuỗi. Lợi nhuận của chuỗi cung ứng càng cao chứng tỏ sự thành công của
chuỗi cung cấp càng lớn. Thành công của chuỗi cung ứng nên được đo lường
dưới góc độ lợi nhuận của chuỗi chứkhông phải đo lượng lợi nhuận ở mỗi giai
đoạn riêng lẻ
• Tích hợp một cách hiệu quả nhà cung cấp, người sản xuất, nhà kho và các cửa
hàng, nó bao gồm những hoạt động của công ty ở nhiều cấp độ, từ cấp độ
chiến lược đến chiến thuật và tác nghiệp.
o
Cấp độ chiến lược
xử lý với các quyết định có tác động dài hạn đến
tổ chức. Những quyết định này bao gồm số lượng, vị trí và công suất

của nhà kho, các nhà máy sản xuất, hoặc dòng dịch chuyển nguyên vật
liệu trong mạng lưới
o
Cấp độ chiến thuật
điển hình bao gồm những quyết định được cập
nhật ở bất cứ nơi nào ở thời điểm của quý hoặc năm. Điều này bao
gồm các quyết định thu mua và sản xuất, các chính sách tồn kho và các
chiến lược vận tải kể cả tần suất viếng thăm khách hàng.
o
Cấp độ tác nghiệp
liên quan đến các quyết định hàng ngày chẳng
hạn như lên thời gian biểu, lộ trình của xe vận tải…
III. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC: GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ SẢN XUẤT TRONG
ERP
1. Tổng quan về quản trị sản xuất - MRP (Manufacturing Resource
Planning):
Quản trị sản xuất là tổng hợp các hoạt động xây dựng hệ thống sản xuất và
quản trị quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào tạo thành các sản phẩm (dịch
vụ) đầu ra theo yêu cầu của khách hàng nhằm thực hiện các mục tiêu đã xác
định.
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 10 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
1.1. Quản trị sản xuất nhằm đạt các mục tiêu:
o Hoàn thành chức năng sản xuất, cung cấp sản phẩm cho khách hàng
đúng số lượng với tiêu chuẩn chất lượng và thời gian phù hợp.
o Tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
o Tạo ra tính linh hoạt cao trong đáp ứng liên tục nhu cầu của khách
hàng về sản phẩm.

o Đảm bảo tính hiệu quả trong việc tạo ra các sản phẩm cung cấp cho
khách hàng.
1.2. Quản trị sản xuất tập trung vào các vấn đề:
o Thiết kế hệ thống sản xuất.
o Phương pháp tổ chức sản xuất.
o Điều hành quá trình sản xuất.
1.3. Yêu cầu của tổ chức sản xuất:
1.3.1. Bảo đảm sản xuất chuyên môn hóa
Chuyên môn hóa sản xuất là hình thức phân công lao động xã hội làm
cho xí nghiệp nói chung và các bộ phận sản xuất, các nơi làm việc nói riêng
chỉ đảm nhiệm việc sản xuất một (hay một số ít) loại sản phẩm, chi tiết, hay
chỉ tiến hành một hoặc một số ít các bước công việc.
Việc chuyên môn hóa sản xuất phải xác định phù hợp với những điều
kiện cụ thể của xí nghiệp. Các điều kiện cụ thể đó là:
− Chủng loại, khối lượng, kết cấu sản phẩm chế biến trong xí nghiệp.
− Qui mô sản xuất của xí nghiệp.
− Trình độ hiệp tác sản xuất.
− Khả năng chiếm lĩnh thị trường, mức độ đáp ứng thay đổi của nhu cầu.
− Chiến lược công ty nói chung và chiến lược cạnh tranh, phát triển hệ thống
sản xuất nói riêng.
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 11 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
1.3.2. Bảo đảm sản xuất cân đối
Quá trình sản xuất cân đối là quá trình sản xuất được tiến hành trên cơ
sở bố trí hợp lý, kết hợp chặt chẽ ba yếu tố của sản xuất: lao động, tư liệu lao
động, đối tượng lao động. Cụ thể, các quan hệ cân đối đó bao gồm các quan
hệ tỷ lệ thích đáng giữa khả năng các bộ phận sản xuất, các yếu tố của quá
trình sản xuất theo không gian và thời gian:

− Khả năng sản xuất của các bộ phận sản xuất chính.
− Khả năng phục vụ có hiệu quả của các bộ phận sản xuất phụ trợ cho quá
trình sản xuất chính.
− Quan hệ giữa năng lực sản xuất, số lượng, chất lượng công nhân và số
lượng, chất lượng đối tượng lao động.
1.3.3. Bảo đảm sản xuất nhịp nhàng đều đặn
Quá trình sản xuất nhịp nhàng, đều đặn khi mà hệ thống có thể tạo ra
lượng sản phẩm trong mỗi đơn vị thời gian đều nhau phù hợp với kế hoạch.
1.3.4. Bảo đảm sản xuất liên tục
Quá trình sản xuất được gọi là liên tục khi các bước công việc sau được
thực hiện ngay khi sau khi đối tượng hoàn thành ở bước công việc trước,
không có bất kỳ một sự gián đoạn nào về thời gian
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 12 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Mô tả quy trình sản xuất
2. Phân hệ quản trị sản xuất trong ERP
Trong quá trình triển khai ERP, phân hệ sản xuất (Manufacturing –
MFG) được xem là phân hệ khó, phức tạp và tốn nhiều thời gian nhất khi đưa
vào áp dụng.
2.1. CÁC YÊU CẦU CẦN CÓ
Trên thực tế, mỗi đơn vị sản xuất (SX) đều có một quy trình riêng biệt.
Chính vì vậy, các chương trình quản lý chuyên biệt về SX được chia thành
nhiều nhóm khác nhau như: SX liên tục (Process Manufacturing – còn gọi là
SX phức hợp); SX rời rạc (Discrete Manufacturing – còn gọi là SX đơn); SX
theo dự án (Project Manufacturing)…
Trên thực tế, ở các đơn vị đã ứng dụng ERP vào SX tại Việt Nam như
Mía Đường Lam Sơn, Bánh Kẹo Biên Hòa (Bibica), Savimex, EuroWindow hay
Prime Group… việc đầu tiên mà hệ thống cần đáp ứng là phần khai báo linh

Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 13 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
hoạt với bộ tham số tiện dụng để ứng dụng được theo các quy trình quản lý
đặc thù.
Quản lý SX đòi hỏi chương trình phải xác định được việc lập kế hoạch
SX, tính toán thời gian SX, hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu, tính giá thành
kế hoạch… Để làm được điều này, các phân hệ SX trong ERP cần cho phép
người sử dụng khai báo định mức nguyên vật liệu (Bill of Material – BOM) và
quy trình SX (Routing). Đồng thời phải khai báo được lịch SX, năng lực SX bao
gồm các nguồn lực như nhân công, máy móc, công cụ SX, thời gian, chi phí…
Vì chính những thông số được khai báo ở đây là cơ sở để tính toán các chỉ tiêu
nói trên.
Đối với những đơn vị có hệ thống định mức nguyên vật liệu phức tạp
(ví dụ mỗi đơn hàng cần khai báo lại một bộ định mức nguyên vật liệu mới) thì
rất cần sự tư vấn của nhà triển khai có kinh nghiệm để không biến việc nhập
số liệu trở thành sự cản trở về mặt thời gian đối với SX.
Một trong những yêu cầu của DN SX đối với ERP là việc trợ giúp DN lập
kế hoạch SX (KHSX). Kế hoạch này cần phải tính toán được ngày bắt đầu SX
tối ưu, đáp ứng tất cả các nhu cầu. Riêng các DN có nhiều chi nhánh hoặc nhà
máy cách xa nhau, hệ thống ERP cần lập KHSX ở mức tổng thể để có được kế
hoạch điều hành, tận dụng các nguồn lực một cách hợp lý và hiệu quả nhất.
Sau khi có KH, hệ thống cần xác định được nhu cầu nguyên vật liệu
(NVL) để đáp ứng được KHSX đó. Muốn vậy, hệ thống phải có khả năng tổng
hợp được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: bảng định mức NVL, các
đơn mua hàng và lệnh SX dang dở, số liệu tồn kho NVL, thời gian cung ứng
vật tư… để tính ra được số lượng vật tư cần cung cấp thêm. Kết quả xác định
sẽ được chuyển sang bộ phận cung ứng qua các phiếu yêu cầu cung ứng vật
tư.

Đối với quản lý quá trình SX, hệ thống ERP cần đáp ứng được các chức
năng như: theo dõi tiến độ SX của từng lệnh/lô SX, tổ chức thống kê và ghi
nhận tiêu hao NVL, chi phí, thời gian SX, ghi nhận lượng bán thành phẩm cũng
như thành phẩm hoàn thành tại từng công đoạn, từng lệnh/lô SX. Đây cũng
chính là cơ sở cho việc tính giá thành SX, phân tích tiêu hao, tính hiệu quả SX.
Phải nói rằng, bài toán tính giá thành SX là bài toán “nhức đầu muôn
thuở” của các DN hiện nay. Nhiều khi DN quyết định triển khai ERP cũng là để
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 14 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
giải quyết bài toán “nhức đầu” này. Tính giá thành SX là một nhu cầu tiên
quyết của hầu hết các DN SX vì giá thành chính là cơ sở cho việc phân tích
hiệu quả SX, phản ánh chính xác lãi lỗ thực sự của DN. Hiện nay, đa phần DN
đều sử dụng phương pháp tính giá thành bình quân cuối kỳ. Phân hệ QLSX
trong ERP cần cho phép DN khai báo và tính giá thành kế hoạch (có thể chi
tiết theo từng khoản mục chi phí) thông qua phân hệ định mức NVL (BOM) tại
thời điểm trước khi SX. Trong quá trình SX, phân hệ này cũng cần cho DN biết
tương đối chính xác giá thành SX tại bất kỳ thời điểm nhập kho nào. Đến cuối
kỳ, hệ thống sẽ hỗ trợ DN tính lại giá thành thực tế trong kỳ.
Bên cạnh đó, hệ thống cũng cần mở rộng tới một số khả năng khác
như: quản lý chất lượng, hỗ trợ việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới
thông qua quá trình SX thử…
2.2. LƯU Ý KHI TRIỂN KHAI
2.2.1. Xác định rõ yêu cầu và phạm vi triển khai
Một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến thất bại khi triển khai
phân hệ quản lý SX là do DN, nhà tư vấn không xác định được yêu cầu quản
lý và phạm vi triển khai phù hợp. Một phần do DN chưa chuẩn bị đầy đủ và
chưa lường trước được khối lượng công việc tương lai nên thường đặt ra các
yêu cầu quá cao, không khả thi và kém hiệu quả khi vận hành thực tế. Đối với

nhà tư vấn triển khai, do chưa nắm rõ hiện trạng, thiếu kinh nghiệm thực tế
nên không xem xét các yêu cầu của DN một cách thấu đáo. Để khắc phục, DN
phải xác định rõ những gì mình cần và sáng suốt lựa chọn nhà tư vấn triển
khai có kinh nghiệm, am hiểu sản phẩm.
2.2.2. Lưu ý khi lập giải pháp quản lý SX
Trong ERP, phân hệ SX do có nhiều đặc thù, tốn nhiều thời gian để
chuẩn hóa quy trình, định mức nên thường được triển khai ở giai đoạn sau,
khi các phân hệ khác đã vận hành trơn tru. Vì vậy, trong quá trình xây dựng,
nên đặt ở mức tổng quát cho cả hai trường hợp chưa có phân hệ SX và khi
đưa phân hệ này vào vận hành. Trong đó, cấu trúc bộ mã, cách chia công
đoạn SX, cách thức tổ chức thống kê và yêu cầu về phân tích chi phí/giá thành
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 15 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
sẽ quyết định và ảnh hưởng trực tiếp đến cách thức khai báo và cập nhật
BOM/Routing.
2.2.3. Không phá vỡ kiến trúc hệ thống
Bản thân ERP là một hệ thống được thiết kế trên một kiến trúc tổng
thể, các phân hệ có sự tích hợp, liên thông chặt chẽ với nhau. Phân hệ SX
cũng là một phần cốt lõi trong kiến trúc này, vì vậy trong quá trình xây dựng
và triển khai thực tế, cần xem xét vấn đề ở mức tổng thể, không nên vì các lý
do “đặc thù” mà tự ý thay đổi quy trình làm phá vỡ kiến trúc hệ thống dẫn
đến sa lầy và thất bại.
3. KẾT LUẬN
Vì bản thân SX đã rất đa dạng về ngành nghề, mỗi lĩnh vực SX có
những đặc thù quản lý riêng, nên muốn triển khai thành công và hiệu quả
phân hệ này, đòi hỏi DN phải xác định mục tiêu và phạm vi rõ ràng, chọn giải
pháp phù hợp và đặc biệt cần chọn nhà tư vấn triển khai có kinh nghiệm, am
hiểu sản phẩm và từng triển khai thành công phân hệ SX.

Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 16 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
IV. PHÂN TÍCH VÀ XÂY DỰNG GIẢI PHÁP ERP CHO CÔNG TY CỔ
PHẦN TIN HỌC MINH THÔNG – MTC
1. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM
Đến tháng 3-2005, nước ta đã có cam kết về mở cửa thị trường phân phối cho
hai nước là Mỹ (BTA: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ) và Nhật Bản (Hiệp định
bảo hộ và xúc tiến đầu tư Việt – Nhật). Cam kết của Việt Nam trong WTo đối
với dịch vụ phân phối được thiết kế trên cơ sở Hiệp định thương mại song
phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA). Tuy nhiên, do các thành viên WTO coi BTA
chỉ là khởi điểm để đàm phán nên cam kết của Việt Nam trong WTO co nhiều
uthay đổi so với BTA.
1.1. Phân loại
Theo phân loại của GATS, ta cam kết mở cửa dịch vụ phân phối (là một trong
12 ngành dịch vụ) bao gồm
• Dịch vụ đại lý hoa hồng,
• Dịch vụ bán buôn,
• Dịch vụ bán lẻ,
• Dịch vụ nhượng quyền thương mại: dịch vụ này thực chất là một thỏa
thuận theo đó một nhà phân phối được phép sử dụng một hình thức
bán lẻ hoặc một thương hiệu nhất định,
• Dịch vụ phân phối khác.
1.2. Vai trò
Lĩnh vực dịch vụ phân phối giữ vai trò trung gian kết nối giữa người sản
xuất với người tiêu dùng; đồng thời góp phần đẩy nhanh quá trình tiêu thụ
hàng hóa, rút ngắn thời gian hàng hóa lưu thông, giúp các nhà sản xuất
nhanh chóng thu hồi vốn để đầu tư tái sản xuất. Mặt khác, chi phí trong khâu
phân phối được chuyển vào giá bán cho người tiêu dùng, do vậy cạnh tranh

trong dịch vụ phân phối sẽ góp phần làm giảm chi phí phân phối và việc giảm
giá bán cuối cùng cho người tiêu dùng. Hơn nữa, bản thân hoạt động phân
phối cũng tạo thêm lợi ích cho người tiêu dùng thông qua việc tạo ra sự đa
dạng về hàng hóa cung ứng, tạo thuận tiện về địa điểm mua bán, thuận tiện
về các dịch vụ bảo hành và cung cấp thông tin.
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 17 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Dịch vụ phân phối là hoạt động quan trọng của ngành thương mại
trong nền kinh tế quốc dân. Với việc thực hiện các chức năng lưu thông, phân
phối và là các mắt xích không thể thiếu trong hệ thống phân phối hàng hóa từ
khâu sản xuất tới người tiêu thụ cuối cùng, dịch vụ phân phối giữ vai trò quan
trọng trong quá trình thực hiện tái sản xuất mở rộng xã hội, góp phần quan
trọng thúc đẩy phát triển sản xuất, phát triển kinh tế và gia tăng lợi ích cho
người tiêu dùng. Khi xã hội càng phát triển, trình độ phân công lao động xã
hội, trình độ chuyên môn hóa càng cao và nhu cầu của người tiêu dùng càng
được các biệt hóa thì vai trò của dịch vụ phân phối càng trở nên quan trọng.
Phát triển dịch vụ phân phối của Việt Nam sẽ tạo thêm giá trị gia tăng cho nền
kinh tế, giúp tăng tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nước nhà, góp
phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hội nhập và
phát triển bền vững.
2. THỰC TRẠNG CỦA NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI Ở VIỆT NAM
Thị trường bán lẻ Việt Nam có sức thu hút lớn đối với các tập đoàn bán
lẻ do Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong vòng nhiều năm
qua; dân số đông, trong đó một nửa dân số dưới tuổi 30; chi tiêu của người
tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004 -
2005. Doanh số bán lẻ thị trường Việt Nam được dự tính khoảng trên 20 tỷ
USD mỗi năm.
Theo số liệu của Bộ Thương mại trước đây, trong giai đoạn 2001 - 2005

doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/năm, cao gấp
khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Tuy nhiên,
hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phát triển và còn thô sơ. Theo số liệu
thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ
yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán
lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối
hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn ) mới chỉ chiếm
khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng.
Về hình thức hiện diện (hình thức hoạt động), ngay khi gia nhập WTO
ta cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được lập liên doanh với
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 18 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
đối tác Việt Nam để cung cấp dịch vụ phân phối nhưng tỷ lệ vốn góp của phía
nước ngoài không được vượt quá 49%, kể từ ngày 1/1/2008, hạn chế 49%
vốn góp sẽ được bãi bỏ. Kể từ ngày 1/1/2009, ta cho phép lập doanh nghiệp
phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, đối với dịch vụ
nhượng quyền thương mại, từ ngày 11/01/2007, các nhà đầu tư nước ngoài
có thể lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, trưởng chi nhánh
phải là người thường trú tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam hạn chế khả năng mở thêm điểm bán lẻ của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc kiểm tra nhu cầu kinh tế
(ENT). Kiểm tra nhu cầu kinh tế có thể hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền
căn cứ vào tình hình thực tế để xem xét có cấp phép cho doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hay không. Ví dụ, một doanh nghiệp phân phối A có vốn
đầu tư nước ngoài muốn mở thêm một siêu thị bán lẻ tại địa phương X (ngoài
cơ sở bán lẻ thứ nhất của doanh nghiệp A), cơ quan có thẩm quyền sẽ xem
xét số lượng người tiêu dùng tại địa phương, số các siêu thị, cửa hàng hiện có,
dự tính nhu cầu trong tương lai, v.v để quyết định có cho phép doanh nghiệp

A mở thêm siêu thị bán lẻ hay không.
Theo cam kết gia nhập WTO đối với dịch vụ phân phối, các doanh
nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài muốn lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở
bán lẻ thứ nhất sẽ được các cơ quan quản lý xem xét nhu cầu kinh tế. Tuy
nhiên, quy trình xem xét, cấp phép cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ nhất sẽ được
thiết lập và công bố công khai, việc kiểm tra nhu cầu kinh tế, cấp phép sẽ dựa
trên các tiêu chí khách quan, bao gồm số lượng các nhà cung cấp dịch vụ (các
cơ sở bán lẻ) đang hiện diện trong một khu vực địa lý, sự ổn định của thị
trường và quy mô địa lý.
Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả
các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây:
- Thuốc lá và xì gà;
- Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình;
- Kim loại quý và đá quý;
- Dược phẩm;
- Thuốc nổ;
- Dầu thô và dầu đã qua chế biến;
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 19 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
- Gạo, đường mía và đường củ cải.
Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho
các doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu
tư nước ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ
không được quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã
phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại
Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại.
Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa Kể từ ngày gia
nhập (11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài

được quyền phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản
phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ
lốp máy bay); giấy; máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt
thép; thiết bị nghe nhìn; rượu và phân bón.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước
ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán
lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ
được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp
pháp vào Việt Nam.
Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào
Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1
(cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được
thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư.
Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân
phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau:
- Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân;
- Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu
cá nhân hoặc vì mục đích thương mại.
Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Cam kết của Việt Nam trong WTO là phù hợp với định hướng phát triển
ngành phân phối và thậm chí còn chặt hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ
này ở trong nước. Trước khi gia nhập WTO, trên thực tế ta đã cho phép các
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 20 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thiết lập liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ta đã cho phép một số tập đoàn phân

phối lớn thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị
tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tới cuối năm 2006 trên thị trường Việt
Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn của thế giới như: Metro Cash
& Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ. BigC có các siêu thị đang hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội và
Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM. Bên cạnh đó, Tập
đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào VN thông qua hình thức liên doanh.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư
nước ngoài đã được cấp phép trước đó (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị
100% vốn đầu tư nước ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện
như đã quy định trong giấy phép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thành lập sau
khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với
dịch vụ phân phối.
Hiện hoạt động dịch vụ phân phối, bán lẻ có tầm quan trọng với nền
kinh tế Việt Nam, lĩnh vực này đóng góp khoảng trên 15% vào GDP hàng
năm. Theo công bố, doanh số bán lẻ năm 2008 sẽ tăng khoảng 20,5% lên 975
tỉ đồng, tương đương với gần 55 tỉ USD. Cộng với dân số 85 triệu, trong đó
đến 60 triệu người tiêu dùng, hệ thống phân phối bán lẻ hầu hết theo hình
thức truyền thống, hệ thống hiện đại còn rất ít, do đó thị trường Việt Nam trở
nên hấp dẫn số 1 cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, từ năm 2007 sức
hấp dẫn của thị trường Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ (giữ vị trí này suốt 3 năm
liên tục), Nga và cả Trung Quốc.
Chắc chắn khi các nhà phân phối nước ngoài tham gia vào thị trường,
các DN trong nước phải đối mặt với rất nhiều thách thức, sẽ cạnh tranh phải
cạnh tranh khốc liệt với các DN nước ngoài có thế mạnh về vốn, về quản trị
kinh doanh, hệ thống thương mại hiện đại…
Tuy nhiên, việc mở cửa cũng đem lại nhiều cơ hội cho các DN trong
nước để học hỏi kinh nghiệm phát triển và nỗ lực vươn lên nhiều hơn để có
thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường. Thực tế, thời gian qua, có nhiều

Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 21 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
tập đoàn, DN phân phối bán lẻ của Việt Nam như Tập đoàn Phú Thái, Saigon
Co. mart, Hapro… đã vươn lên và phát triển mạnh mẽ.
Khi tham gia thị trường Việt Nam, các DN nước ngoài đều có tham vọng
chiếm lĩnh và mở rộng thị trường bán lẻ VN nên giữa nhà bán lẻ 100% vốn
nước ngoài và nội địa sẽ nảy sinh nhiều hoạt động cạnh tranh, góp phần làm
cho thị trường càng sôi động; qua đó sẽ đa dạng các hình thức hợp tác, liên
kết giữa các nhà bán lẻ VN, giữa DN nước ngoài với các DN bán lẻ trong nước,
với các nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá…; các hoạt động mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ cũng sẽ rất sôi động, kể cả thông qua thị
trường chứng khoán.
Việt Nam là một thị trường hấp dẫn đối với các nhà phân phối nước
ngoài nhưng có lẽ trong con mắt của các nhà phân phối hàng đầu thị trường
Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức “tiềm năng”. Yếu tố quan trọng nhất đối các
tập đoàn phân phối lớn khi đầu tư là mức thu nhập của người tiêu dùng và
quy mô thị trường, với thu nhập khoảng 1.000 USD/năm và quy mô thị trường
khoảng 20 tỉ USD, thị trường Việt Nam còn quá thấp so với chuẩn của họ. Còn
đối với dịch vụ bán lẻ, ngay những nước có dịch vụ phân phối phát triển, các
tập đoàn phân phối lớn cũng chiếm không quá 10% thị phần, còn lại phải chia
cho các nhà phân phối nhỏ, do đó không nên quá lo lắng với câu hỏi về sự
“thống trị” và “thâu tóm” của các nhà phân phối ngoại. Một yếu tố nữa, trong
khi người tiêu dùng Việt Nam phần lớn còn có thói quen mua sắm tại các cửa
hàng, chợ truyền thống… thì việc xâm nhập của các tập đoàn lớn cũng không
phải dễ dàng gì.
Theo cam kết gia nhập WTO, thời gian tới, Việt Nam chưa mở cửa đối
với thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách, báo, tạp chí, băng hình,
thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý. Việc lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ

thứ nhất của nhà đầu tư cũng được xem xét từng trường hợp cụ thể căn cứ
vào số lượng các cơ sở bán lẻ, sự ổn định của thị trường, mật độ dân cư trên
địa bàn tỉnh, thành phố nơi đặt cơ sở bán lẻ…
3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ PHÂN PHỐI TẠI VIỆT NAM
Hệ thống phân phối luôn được coi là huyết mạch của tổng thể nền kinh
tế Việt Nam. Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống của người dân được
nâng cao, và nhất là khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 22 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
WTO với cam kết mở cửa ngành dịch vụ phân phối thì hệ thống phân phối Việt
Nam cũng như ngành dịch vụ phân phối tại Việt Nam cũng xuất hiện những xu
hướng phát triển mới để khẳng định vai trò quan trọng của nó trong nền kinh
tế.
3.1. Phương thức phân phối hiện đại sẽ ngày càng chiếm ưu thế, phương thức
phân phối truyền thống sẽ ngày càng bị thu hẹp nhưng không hoàn toàn
biến mất
Trước đây, người tiêu dùng Việt vẫn có thói quen mua hàng hằng ngày,
và hàng trăm nghìn các cửa hiệu bán hàng phân bố từ thành thị tới nông
thôn, luôn đáp ứng nhu cầu hằng ngày của họ. Nhưng nay đã có nhiều sự đổi
khác, người tiêu dùng bắt đầu quen với việc tới siêu thị vào cuối tuần để mua
hàng đủ dùng cho cả tuần. Đi siêu thị như đã trở thành một sở thích với nhiều
người. Nếu như trong năm 2007 có 66% người tiêu dùng thỉnh thoảng mua
sắm tại siêu thị, thì cuối 2008 đã lên tới 96%. Tần suất mua sắm tại cửa hàng
tiện ích, siêu thị cũng ngày càng tăng, từ 2 lần/tháng trong giai đoạn 2005 –
2007, lên 3 lần/tháng trong năm 2008, và nâng lên 4 – 5/tháng trong năm
2009. Có thể thấy rõ hơn về sự thay đổi trong cơ cấu dịch vụ phân phối qua
kết quả điều tra Hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2009, về thứ tự lựa chọn
nơi mua hàng, là cửa hàng chuyên, đại lý, siêu thị, tiệm tạp hoá, chợ. Các

kênh phân phối hiện đại bao gồm siêu thị, đại lý, cửa hàng chuyên chiếm tỷ lệ
áp đảo, đến 78,53% trong lựa chọn nơi mua hàng của người tiêu dùng. Các
kênh phân phối truyền thống gồm chợ, tiệm tạp hoá và các kênh khác đang
ngày càng thu hẹp dần tỷ trọng.
Biểu đồ : tỷ lệ nơi mua hàng theo lựa chọn của người tiêu dùng Việt Nam năm 2009
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 23 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Nguyên nhân là do với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thu
nhập của người dân Việt Nam đang ngày càng được nâng cao trông thấy.
Thêm vào đó, khoảng 60% dân số của Việt Nam ở độ tuổi dưới 30, và nhiều
người trong số này có cơ hội đi du lịch, công tác nước ngoài nên dễ thay đổi
thói quen từ việc mua sắm truyền thống sang các kênh mua sắm hiện đại. Vì
vậy nhất là ở khu vực đô thị, người tiêu dùng đang ngày càng đòi hỏi ở các
kênh phân phối và ở chất luợng sản phẩm một mức độ cạnh tranh ngày càng
cao. Giá cả hàng hóa tại các siêu thị, cửa hàng hiện đại được bán bằng giá tại
các cửa hiệu tư nhân, chợ, trong khi chất lượng nói chung đáng tin cậy hơn.
Ngoài ra, tại những hệ thống phân phối hiện đại, người tiêu dùng còn được
hưởng nhiều tiện ích rất hiện đại, như thanh toán bằng thẻ, được tham gia
chương trình khuyến mãi, trúng thưởng, thẻ khách hàng thân thiết, giao hàng
tận nhà Trên thực tế, các siêu thị đang ngày càng chăm chút hơn về sản
phẩm, dịch vụ, ngay cả với khâu bán thực phẩm tươi sống. Điều này cho thấy
siêu thị không chỉ mong muốn thu hút người đi mua sắm hàng tuần mà còn cả
những người đi chợ hàng ngày. Trong khi đó, đối với những kênh phân phối
truyền thống, đặc biệt là chợ, lâu nay khâu tổ chức, quản lý chợ chưa được
quan tâm đúng mức. Người tiêu dùng rời xa chợ không phải do chợ không còn
cần thiết mà vì chợ bán nhiều hàng hoá không đảm bảo chất lượng, giá cả
không ổn định, buông thả trong khâu trưng bày, tiểu thương không được học
kỹ năng giao tiếp, bán hàng, quầy, sạp tăm tối, ẩm thấp, nóng bức, vệ sinh

kém Tuy nhiên, những điều trên cũng không có nghĩa là các kênh phân phối
truyền thống sẽ biến mất hoàn toàn nhờ mạng lưới chợ từ nhiều năm qua đã
phát triển khá sâu rộng và văn hoá chợ đã trở nên hết sức gần gũi, ăn sâu
vào đời sống văn hoá, tập quán tiêu dùng của người dân. Mặt khác, hàng hoá
ở chợ vẫn phong phú hơn với nhiều cấp độ giá bán theo chất lượng, và người
mua có thể mặc cả để được mức giá tốt nhất, nhất là đối với dân nghèo thành
thị. Do vậy, hình thức phân phối nhỏ lẻ vẫn giữ được vai trò của mình ngay cả
trong các thành phố lớn.
3.2. Các nhà phân phối nước ngoài chiếm thế áp đảo trong kênh phân phối hiện
đại
Thị trường phân phối bán lẻ Việt Nam luôn có một sức thu hút lớn đối
với các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn phân phối bán lẻ do
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 24 / 40
BÀI TẬP LỚN MÔN QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Phan Văn Viên – Sinh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong vòng nhiều năm qua;
dân số đông, trong đó một nửa dân số dưới tuổi 30; mức chi tiêu của người
tiêu dùng cũng như doanh số bán lẻ ngày một tăng nhanh. Hơn nữa, theo lộ
trình cam kết khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO, từ ngày
01/01/2009, Việt Nam sẽ mở cửa cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài trong ngành hàng cung cấp dịch vụ phân phối ở cả bốn loại hình
phân phối mà WTO phân loại đó là bán lẻ, bán buôn, đại lý hoa hồng và
nhượng quyền thương mại. Như vậy, sẽ có rất nhiều doanh nghiệp phân phối
hàng đầu thế giới thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Các doanh nghiệp liên
doanh trong lĩnh vực phân phối hàng hóa cũng sẽ tìm cách chuyển sang loại
hình doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài để chủ động hơn trong kinh
doanh. Đến lúc đó, hệ thống phân phối không còn là mảnh đất đặc quyền của
doanh nghiệp trong nước và sẽ diễn ra một cuộc cạnh tranh khốc liệt tranh
giành thị phần kênh phân phối hiện đại giữa các nhà phân phối nước ngoài và

các doanh nghiệp phân phối trong nước. Hiện nay bên cạnh những tập đoàn
phân phối lớn đã có mặt tại Việt Nam như Metro Cash & Carry, Bourbon
Espace (Big C), Parkson, Dairy Farm, các tập đoàn kinh doanh bán lẻ hàng
đầu thế giới như Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Marko
(Hà Lan) đang mở rộng thị trường và thâm nhập ngày càng sâu, rộng vào
thị trường bán lẻ hàng hóa trên thế giới, cũng sẽ sớm có mặt ở thị trường mới
nổi và có sức hấp dẫn này. Các nhà phân phối nước ngoài với tiềm lực tài
chính hùng mạnh và giàu kinh nghiệm điều hành sẽ giành phần thắng trong
cuộc cạnh tranh với hầu hết các doanh nghiệp phân phối trong nước. Kết quả
là họ sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh hệ thống phân phối hiện đại (trong đó có hệ
thống siêu thị, trung tâm thương mại), dẫn đến sự phá sản của hàng loạt
doanh nghiệp phân phối trong nước có quy mô nhỏ và vừa. Chỉ những doanh
nghiệp phân phối có chiến lược kinh doanh vững chắc và phân khúc thị trường
khác biệt mới có thể tồn tại bên cạnh các tập đoàn phân phối quốc tế. Tại Việt
Nam, sau thời điểm 01/01/2009, mặc dù các nhà phân phối nước ngoài không
ồ ạt xâm nhập vào thị trường như dự báo, do khủng hoảng kinh tế thế giới
cùng với việc tiêu dùng trong nước đang tăng chậm lại, nhưng cũng phù hợp
với thời gian lựa chọn địa điểm, đầu tư xây dựng, thăm dò thị hiếu, để các
nhà đầu tư nước ngoài có chỗ đứng vững chắc tại thị trường, nên thị phần vào
Sịnh viên: Nguyễn Ngọc Tuấn – Lớp KHMT4 – K5
Trang 25 / 40

×