Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Nghiên cứu sự đa dạng thực vật bậc cao có mạch tại núi Cuống, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở cho công tác bảo tồn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 106 trang )

i

























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Phạm Thị Huệ





NGHIÊN CỨU SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT BẬC CAO CÓ
MẠCH TẠI NÚI CUỐNG, HUYỆN ĐẦM HÀ, TỈNH
QUẢNG NINH LÀM CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC





Hà nội - 2012





ii


























ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


Phạm Thị Huệ



NGHIÊN CỨU SỰ ĐA DẠNG THỰC VẬT BẬC CAO
CÓ MẠCH TẠI NÚI CUỐNG, HUYỆN ĐẦM HÀ, TỈNH
QUẢNG NINH LÀM CƠ SỞ CHO CÔNG TÁC BẢO TỒN


Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 60.42.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Trung Thành


Hà nội - 2012



iii

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU vi
DANH MỤC HÌNH vii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT viii
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Nghiên cứu về đa dạng thực vật trên thế giới 5
1.1.1. Nghiên cứu về đa dạng hệ thực vật trên thế giới 5
1.1.2. Đa dạng thực vật RNM trên thế giới 7
1.2. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam 8
1.2.1. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam 8
1.2.2. Nghiên cứu về RNM ở Việt Nam 10
1.3. Nghiên cứu về các yếu tố địa lý 12
1.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật 15

Chƣơng 2 - ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI 19
2.1. Vị trí địa lý 19
2.2. Địa chất và thổ nhƣỡng 19
2.3. Khí hậu 20
2.4. Thủy văn 21
2.5. Điều kiện kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu 22
2.5.1. Dân số 22
2.5.2. Tập quán lao động và cơ sở hạ tầng 23
Chƣơng 3 - ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25
iv

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu 25
3.2. Mục tiêu nghiên cứu 25
3.3. Nội dung nghiên cứu 25
3.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 26
3.5. Phƣơng pháp nghiên cứu 26
3.5.1. Phương pháp kế thừa 26
3.5.2. Phương pháp chuyên gia 26
3.5.3. Phương pháp nghiên cứu đa dạng thực vật 27
3.5.4. Đánh giá đa dạng sinh học 31
Chƣơng 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 33
4.1. Xác định và xây dựng danh lục loài 33
4.2. Đa dạng về phân loại hệ thực vật ngập mặn tại đảo Núi Cuống. 34
4.2.1. Đa dạng ở mức độ ngành 34
4.2.2. Đa dạng ở mức độ họ 38
4.2.3. Đa dạng ở mức độ chi 40
4.3. Đa dạng về các yếu tố địa lý 42
4.3.1. Đa dạng các yếu tố địa lý của chi 42
4.3.2. Đa dạng các yếu tố địa lý của loài 45
4.4. Đa dạng về dạng sống 49

4.5. Đa dạng về giá trị tài nguyên 53
4.5.1. Đa dạng về giá trị sử dụng 53
4.5.2. Đa dạng về các loài quý hiếm 57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 62
v

TÀI LIỆU THAM KHẢO 65




















vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1. Sự phân bố các taxon trong các ngành của hệ thực vật thuộc đảo Núi
Cuống. 33
Bảng 2. Bảng so sánh tỷ lệ phần trăm số loài của Hệ thực vật đảo Núi Cuống và Hệ
thực vật Vườn quốc gia Bái Tử Long 36
Bảng 3. Sự phân bố các taxon trong ngành Hạt kín tại đảo Núi Cuống. 37
Bảng 4. Các họ đa dạng nhất của hệ thực vật đảo Núi Cuống 39
Bảng 5. Thống kê các chi đa dạng nhất thuộc đảo Núi Cuống 41
Bảng 6. Sự phân bố yếu tố địa lý của chi tại đảo Núi Cuống 43
Bảng 7. Sự phân bố các yếu tố địa lý bậc loài của hệ thực vật đảo Núi Cuống. 45
Bảng 8. Thống kê dạng sống của các loài thuộc hệ thực vật đảo Núi Cuống 50
Bảng 9. Thống kê các dạng sống của các loài thuộc nhóm cây chồi trên. 51
Bảng 10. Giá trị sử dụng của hệ thực vật của đảo Núi Cuống 53
Bảng 11. Bảng thống kê số công dụng của các loài thực vật tại 54
Bảng 12. Thống kê các giá trị sử dụng của hệ thực vật đảo Núi Cuống 56
Bảng 13. Thống kê các loài đang bị đe dọa tại đảo Núi Cuống theo Sách Đỏ Việt
Nam năm 2007 và nghị định 32 -2006/CP của chính phủ, phần thực vật. 59






vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Sự phân bố loài của các taxon trong các ngành của 34
Hình 2. Tỷ trọng các ngành thực vật bậc cao có mạch tại đảo Núi Cuống 35
Hình 3. Sự phân bố tỷ trọng của hai lớp trong ngành Hạt kín. 38
Hình 4. Tỷ lệ phần trăm số loài của 14 chi đa dạng nhất của khu hệ thực vật tại đảo
Núi Cuống. 42

Hình 5. Tỷ lệ % các nhóm yếu tố địa lý chính của các chi thuộc 45
Hình 6. Tỷ lệ phần trăm các yếu tố địa lý bậc loài của hệ thực vật 47
Hình 7. Biểu đồ nhóm yếu tố châu Á nhiệt đới của các loài trong đảo Núi Cuống. 48
Hình 8. Biểu đồ phổ dạng sống của các loài thuộc hệ thực vật 50
Hình 9. Biểu đồ phần trăm phổ dạng sống của nhóm cây chồi trên (Ph) 52
Hình 10. Biểu đồ tỷ lệ % các loài có giá trị sử dụng ở đảo Núi Cuống. 54
Hình 11. Biểu đồ tỷ lệ % số công dụng của các loài tại đảo Núi Cuống. 55
Hình 12. Tỷ lệ phần trăm các giá trị sử dụng của các loài trong hệ thực vật đảo Núi
Cuống. 57







viii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNM
: Cây ngập mặn
ĐDSH
: Đa dạng sinh học
RNM
: Rừng ngập mặn
















1

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những quốc gia được đánh giá có tính đa dạng sinh học
(ĐDSH) cao trên thế giới. Sự đa dạng và phong phú của các hệ sinh thái tự nhiên là
một trong 3 yếu tố chính làm nên sự ĐDSH này. Tuy nhiên, ĐDSH của Việt Nam
đang bị suy thoái nghiêm trọng, trong đó có các hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM).
Rừng ngập mặn (RNM) là một hệ sinh thái đa dạng có nhiều tài nguyên quí
giá và có vai trò quan trọng, đóng góp cho đời sống con người, đặc biệt là cư dân
vùng cửa sông ven biển. Nó là nơi cư trú và cung cấp thức ăn cho các loài thuỷ sản,
nó được ví như lá chắn xanh bảo vệ vùng cửa sông, cửa biển để chống xói lở, hạn
chế tác hại của gió bão, mở rộng đất liền, RNM cũng là tài nguyên du lịch sinh thái
đầy tiềm năng. Đa dạng sinh học của RNM Việt Nam rất phong phú. Hệ thực vật
chủ yếu gồm 37 loài CNM thực thụ và 72 loài cây tham gia.Các loài cây thống kê
theo giá trị sử dụng gồm: 30 loài cung cấp gỗ, than, củi; 14 loài cung cấp tannin; 21
loài làm dược liệu và để nuôi ong; 24 loài có thể dùng làm phân xanh và 1 loài có
khả năng cung cấp dịch nhựa cho chế biến nước giải khát, đường và rượu. [17] Tuy
nhiên trong những thập niên qua, RNM nước ta bị tàn phá rất nhiều do chiến tranh,

khai thác gỗ, chất đốt, phá RNM để làm hồ nuôi tôm, cua, cá, làm đất nông nghiệp,
đường sá, nhà cửa Thậm chí có địa phương RNM đã “cơ bản bị xóa sổ”. Theo
Maurand (1943), Việt Nam có 400.000 ha RNM nhưng tới năm 2000 theo Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn thì chỉ còn lại 156. 608 ha, tương đương với 60% .Tỉ
lệ mất RNM do các hoạt động sản xuất trong giai đoạn 1985-2000 ước tính 15.000
ha/năm.
Nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ và phục hồi RNM, nhiều chiến
lược, chính sách cũng đã đề cập đến nội dung này. Chiến lược bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Việt Nam đưa ra các mục
tiêu cụ thể như “Phục hồi diện tích RNM lên bằng 80% mức năm 1990”. Kế hoạch
hành động quốc gia về ĐDSH đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đưa ra
các mục tiêu cụ thể như đến năm 2010:“Phục hồi 200.000 ha RNM”; “phục hồi các
2

hệ sinh thái đất ngập nước và biển”. Như vậy tới nay các hệ sinh thái ngập nước và
ven biển đang cần phải được quan tâm hơn nữa tới công tác bảo tồn và phục hồi.
Dựa trên kế hoạch hành động bảo vệ và phát triển RNM Việt Nam đến năm
2015 thì khu vực RNM ở một số huyện ven biển Quảng Ninh đang là nơi được ưu
tiên bảo vệ và cần phục hồi hệ sinh thái RNM.
Quảng Ninh là một trong những tỉnh thành có diện tích đất ngập nước và ven
biển tương đối cao. Đảo Núi Cuống hiện nay thuộc địa phận hành chính của xã Đại
Bình, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh. Là một trong 22 hòn đảo, quần đảo lớn nhỏ
tạo thành một hệ thống bao bọc ở các phía rất phù hợp cho phát triển nuôi trồng
thủy sản của huyện Đầm Hà. Huyện nằm phía đông bắc tỉnh Quảng Ninh, phía bắc
là huyện Bình Liêu, phía đông bắc là huyện Hải Hà, phía tây nam là huyện Tiên
Yên, phía nam và đông nam giáp biển. Huyện vừa được tách ra từ huyện Quảng Hà
năm 2001 theo Nghị định Chính phủ số 59/2001/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm 2001
- Về việc chia huyện Quảng Hà, tỉnh Quảng Ninh thành hai huyện Hải Hà và Đầm
Hà. Huyện lỵ là thị trấn Đầm Hà nằm trên đường quốc lộ 18 cách thành phố Hạ
Long 80 km về hướng đông bắc và cách Móng Cái 50 km về hướng tây nam. RNM

tại đảo Núi Cuống trước đây có chất lượng rừng tốt, rất phong phú về số lượng loài
cây, về hệ sinh thái cư trú các loài hải sản và động vật đã đem lại nguồn lợi thu
nhập tốt cho người dân địa phương. Tuy nhiên trong những năm qua thì diện tích
rừng ở đây đã bị suy giảm đáng kể. Hiện tại, những diện tích rừng còn sót lại vẫn
đang tiếp tục bị đe dọa tàn phá và suy thoái do liên quan tới những lý do nêu trên và
làm ảnh hưởng xấu nghiêm trọng tới môi trường, sản xuất và đời sống của người
dân địa phương. Chính vì vậy trong những năm tiếp theo công tác nghiên cứu, đánh
giá để đưa ra biện pháp phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái RNM là rất cần thiết.
Xuất phát từ lý do trên chúng tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sự đa dạng thực
vật bậc cao có mạch tại Núi Cuống, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở
cho công tác bảo tồn”.

3

Chƣơng 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Với vị trí địa lý đặc thù, Việt Nam được biết đến như là quốc gia phong phú
về các kiểu hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là hệ sinh thái rừng tự nhiên trên cạn, đất
ngập nước, đồi núi đá vôi, đất khô và các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo ven biển và
các hải đảo. Theo số liệu điều tra, ĐDSH ở nước ta tập trung ở một số khu vực chủ
yếu như: các khu rừng đặc dụng tự nhiên (khoảng 1,8 triệu ha trên tổng số 14 triệu
ha tương đương với khoảng 13% diện tích rừng trên cả nước), các vùng đất ngập
nước tự nhiên (khoảng 1,7 triệu ha trên tổng số hơn 10 triệu ha tương đương 17%
diện tích đất ngập nước trên cả nước), các vùng đồi, núi đặc biệt là núi đá vôi
(khoảng 1,5 triệu ha trên tổng số hơn 5 triệu ha tương đương 24% tổng diện tích đất
đồi núi trên cả nước), các hệ sinh thái tự nhiên dọc theo bờ biển dài hơn 3200 km và
các hải đảo. Thời gian qua, cũng do nhận thức của người dân còn yếu kém, hệ thống
pháp luật liên quan chưa hoàn thiện kết hợp với tổ chức quản lý tài nguyên không
chặt chẽ nên Việt Nam đã bị mất nhiều nguồn gen quý hiếm. Hàng năm có đến 300-
400 giống tại các địa phương có nguy cơ cao bị xói mòn nguồn gen, trong đó có
nhiều giống bản địa, quý hiếm. Vậy trong thời gian tới chúng ta phải tập trung

nghiên cứu và xây dựng các cơ sở pháp lý đúng đắn cho công tác bảo tồn ĐDSH ở
nước ta.
Vậy hiểu thế nào về ĐDSH ?
Thuật ngữ “ĐDSH” (biodiversity, biological diversity) lần đầu tiên được
Norse và McManus (1980) đưa ra, bao hàm hai khái niệm có liên quan với nhau là
đa dạng di truyền (tính đa dạng về mặt di truyền trong một loài) và đa dạng sinh thái
(số lượng các loài trong một quần xã sinh vật). Đến nay đã có ít nhất 25 định nghĩa
cho thuật ngữ này. Theo công ước ĐDSH (1992) thì “ĐDSH "có nghĩa là tính (đa
dạng) biến thiên giữa các sinh vật sống của tất cả các nguồn bao gồm các hệ sinh
thái tiếp giáp, trên cạn, biển, các hệ sinh thái thuỷ vực khác và các tập hợp sinh thái
mà chúng là một phần. Tính đa dạng này thể hiện ở trong mỗi bộ loài, giữa các loài
và các hệ sinh học” [9].
4

Từ góc độ này người ta có thể tiếp cận với DDSH ở cả ba mức độ: Mức độ
phân tử (đa dạng di truyền), mức độ cơ thể (đa dạng loài) và mức độ hệ sinh thái (đa
dạng hệ sinh thái) (IUCN, 1994)
ĐDSH có vai trò rất quan trọng đối với viêc duy trì các chu trình trong tự
nhiên và cân bằng sinh thái, đó là cơ sở của sự sống và thịnh vượng của loài người,
sự bền vững của thiên nhiên trái đất. Theo ước tính giá trị tài nguyên đa dạng sinh
học đem lại cho toàn cầu là 33.000 tỷ đô la mỗi năm (Constan Za et al-1997). Đối
với Việt Nam nguồn tài nguyên ĐDSH trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và
thủy sản hàng năm cung cấp cho đất nước khoảng 2 tỷ đô la (Kế hoạch hành động
đa dạng sinh học của Việt Nam-1995). Chính vì những lợi ích đó mà đa dạng sinh
học và bảo tồn đã và đang trở thành vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn nhân loại.
Để chứng minh điều đó thì trong những năm qua chúng ta đã trải qua nhiều dấu
mốc quan trọng của thế giới trong công tác bảo tồn ĐDSH. Chính phủ Việt Nam đã
ký kết công ước RAMSAR về đất ngập nước năm 1971 cùng với 17 quốc gia khác ,
cho tới tháng 5 năm 2012 đã có 160 quốc gia tham gia ký kết công ước này và tính
đến nay Việt Nam có 4 khu vực RAMSAR của thế giới.Việc tham gia công ước này

được coi là cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác quản lý và bảo vệ các hệ sinh thái
RNM ở nước ta. Tiếp sau đó, vào năm 1992 Công ước ĐDSH được thông qua tại
Hội Nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển bền vững tại Rio de Janero
(Brazin), có hiệu lực từ ngày 29/12/1993. Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191
quốc gia là thành viên của Công ước này.Việt Nam đã chính thức gia nhập Công
ước vào ngày 16/11/1994. Mục tiêu chính của công ước là nhằm bảo tồn ĐDSH, sử
dụng bền vững và hợp lý các thành phần ĐDSH cũng như những lợi ích thu được từ
việc sử dụng tài nguyên sinh học. Đây được xem là tiền đề quan trọng cho việc phát
triển lĩnh vực pháp luật về ĐDSH với tư cách là một bộ phận quan trọng của pháp
luật môi trường. Kể từ thời điểm này, các quy định pháp luật về bảo vệ ĐDSH được
ban hành ngày càng nhiều, theo hướng hoàn thiện hơn, như: Kế hoạch hành động
quốc gia về ĐDSH (ban hành kèm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
845/TTg ngày 22/12/1995); Nghị định 109/2003/NĐ-CP về quản lý, bảo tồn và phát
5

triển các vùng đất ngập nước; Quyết định số 661/QĐ – TTg (1998) của thủ tướng
Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới
5 triệu hecta rừng….Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐDSH, luật hóa có hệ
thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện
các cam kết quốc tế về ĐDSH phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật
ĐDSH đã được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2009 nhằm đáp ứng các yêu cầu trên . Luật có 8 chương, 78 điều. Luật
quy định về nguyên tắc và chính sách ba
̉
o tồn va
̀
pha
́
t triê

̉
n bền vư
̃
ng ĐD SH; quy
hoạch bảo tồn ĐDSH; bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, các loài
sinh vật và tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về ĐDSH; cơ chế, nguồn lực và
phát triển bền vững ĐDSH. Như vậy với sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức
bảo tồn nguồn tài nguyên của quốc gia và thế giới đã đặt nền tảng pháp lý cho công
tác bảo tồn của nước ta trong những năm tới ngày càng hợp lý và bền vững hơn.
1.1. Nghiên cứu về đa dạng thực vật trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về đa dạng hệ thực vật trên thế giới
Đa dạng thực vật là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên
cứu.Mở đầu là Theophraste, học trò của Aristotle. Ông đã đề xướng phương pháp
phân loại và phân biệt một số tính chất cơ bản trong cấu tạo cơ thể thực vật. Trong
tác phẩm “Lịch sử tự nhiên của thực vật” và “Cơ sở thực vật” ông đã mô tả gần 500
loài cây và phân ra thành cây to, cây nhỡ, cây nhỏ, cây thân gỗ, cây sống trên cạn,
cây sống dưới nước…
Tiếp sau đó là Plinus, nhà bác học người La mã viết bộ “Lịch sử tự nhiên” đã
mô tả gần 1000 loài cây và cũng phân chia như Theophraste nhưng chú ý đến cây
ăn quả và cây làm thuốc.
Từ nhiều tài liệu thực tế từ thế kỉ XVI đến gần cuối thế kỉ XVIII, việc xây
dựng các bảng phân loại đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của nghiên cứu thực vật.
Thời kì này đã xuất hiện nhiều bảng phân loại như:
6

+ Bảng phân loại của Caesalpine (1519-1603
+ Tiếp theo là J. Ray (1628-1705) là người đầu tiên đưa ra khái niệm loài và
đã mô tả 18000 loài thực vật trong “Lịch sử thực vật”.
Sau Ray là J.P.de Tournefort (1656-1708) lấy tràng hoa là cơ sở cho phân
loại, chia thực vật có hoa thành nhóm không cánh và nhóm có cánh hoa.

Mãi đến Linaeus (1707-1778) với bảng phân loại được coi là đỉnh cao của
thời kì phân loại nhân tạo.
Nói chung các nhà phân loại thực vật từ đầu cho tới Linaeus chỉ dựa vào một
hay hai tính chất được lựa chọn tùy ý để phân loại thực vật nên chưa phản ánh được
các nhóm tự nhiên của thực vật.
Sau Linaeus các nhà thực vật đã không phân loại thực vật dựa trên một hay
một vài tính chất được lựa chọn tùy ý, mà vào toàn bộ các đặc điểm chính của thực
vật nên đã dần thiết lập được các nhóm tự nhiên của thực vật. Có thể kể đến một số
hệ thống tự nhiên như:
Hệ thống phân loại của Bernard Jussieu (1699-1777) và cháu ông là A.L.de
Jussieu (1749-1836) đã sắp xếp thực vật theo trình tự từ thấp đến cao, xếp chúng
vào các họ, giữa các họ đều có những dạng chuyển tiếp, phản ánh được mối quan hệ
giữa các nhóm thực vật với nhau. A.L. de Jussieu đã chia thực vật thành thực vật
không lá mầm (gồm Tảo, Nấm, Rêu, Dương xỉ) và thực vật có lá mầm (Tùng bách,
thực vật Một lá mầm và thực vật Hai lá mầm).
Người có công lớn trong giai đoạn này là O.P. de Candole (1778-1841), đã
đưa số họ thực vật lên 161 họ. Ông đã phân loại và mô tả tất cả các loài cây có
mạch đã biết trong bộ “Prodromus Systematic Naturaeis regni Vegetabilis”.
R. Brown (1773-1858) là người đầu tiên nghiên cứu tỉ mỉ về tùng bách và
tuế, do đó đã tách rời Hạt trần ra khỏi Hạt kín.
Vào giữa thế kỉ XIX là một giai đoạn bắt đầu của ý tưởng tiến hóa. Khi tác
phẩm “Nguồn gốc các loài” của Darwin ra đời năm 1858 thì khoa học về sinh vật đã
có những thay đổi lớn.
7

Vào thế kỉ XX, với các thành tựu của các môn khoa học đã hỗ trợ nhiều cho
các nghiên cứu về đa dạng thực vật, tạo cơ sở về dẫn liệu và phương pháp để xây
dựng các bảng hệ thống tiến hóa.
Cho tới nay có nhiều hệ thống phân loại khác nhau: ở Nga có hệ thống của
Kuznetxov, Busch, Kursanov, Grossein, Takhtajan… Vì vậy phân loại học ngày

nay vẫn còn nhiệm vụ tiếp tục giải quyết các vấn đề về nguồn gốc, quan hệ tiến hoá.
1.1.2. Đa dạng thực vật RNM trên thế giới
RNM là nguồn tài nguyên vô cùng quí giá đối với toàn thể nhân loại, do đó
mà nhiều nhà khoa học trên thế giới như Odum và Heald (1972), Saenger và Davie
(1983) đã nhận định rằng năng suất sinh học của vùng cửa sông có rừng ngập mặn
là cao hơn tất cả các hệ sinh thái tự nhiên khác. Hamilton và Snedaket (1984) cho
rằng 90% các loài sinh vật biển sống ở vùng cửa sông có RNM trong suốt đời hoặc
nhiều giai đoạn trong cả vòng đời của chúng.Chính vì những ý nghĩa ban đầu đó mà
từ rất xa xưa các nhà khoa học đã quan tâm đến RNM và ý nghĩa của nó với nền
kinh tế và khoa học.
Người đầu tiên đề cập tới cây ngập mặn là Nearchus, một đô đốc của
Alexanddeerr Đại đế cách đây hơn 2300 năm, khi ông đi tuần tra 5 tháng liền trên
sông Indus và Euphrates (Java và Tan, 1986).
B. Rollet (1981) đã thống kê được 5658 tài liệu có liên quan đến hệ sinh thái
RNM từ trước năm 1600 đến tháng 12 năm 1975. Ông cho rằng trước năm 1600 chỉ
có 14 tài liệu về rừng ngập mặn trong đó có một tài liệu duy nhất ra đời vào năm
305 trước công nguyên, hai tài liệu được viết vào thế kỉ thứ 2 trước công nguyên
của Plyni the Elder. Sau đó thì từ năm 23 – 79 sau công nguyên đề cập đến
Avicennia, Rhizophora mangle, trong cuốn sách “ Traité des simples” vào thế kỷ 13
của Ibn-El-Bei-Thar cũng nói về việc sử dụng thuốc từ các cây Rhizophora,
Avicennia. Từ những năm 1526 đến năm 1558 mỗi năm đều có một công bố. Từ thế
kỷ 17 đến thế kỷ 19 có 500 tài liệu về RNM, còn lại vào thế kỷ thứ 20 thì số tài liệu
8

là 5158, sau đó hai cuộc chiến tranh thế giới diễn và có rất ít các nghiên cứu về
RNM.
Trong giai đoạn từ 1951 đến 1975 có 4200 – 4400 tác giả đã viết về các vấn
đề liên quan đến RNM bằng 25 thứ tiếng khác nhau, trong đó tiếng Anh vẫn chiếm
ưu thế nhiều nhất sau đó là tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha…
Tính đến năm 1975, người có nhiều công trình nghiên cứu nhất về RNM phải

kể đến H.N.Molden-ker, ông chủ yếu tập trung phân loại chi Mắm (Avicennia) và
tổng quan về chi này. Năm 1976 V. J. Chapman, nhà sinh lý thực vật ở Papua New
Guinea đã cho xuất bản cuốn “Mangrove vegetation” 447 trang, năm 1977 chủ biên
tập Ecosystems of the World, vol.l-Wet coastal Ecosystes (428 trang). Sau này ông
còn viết một số tài liệu khác và tham gia vào nhóm biên soạn cuốn “The Mangrove
Ecosystems Researoh methods” do UNESCO yêu cầu. Cuối năm 1980 ông mất đột
ngột và để lại một số công trình nghiên cứu còn chưa hoàn thiện.
Cho tới sau này khi E.Odum phát hiện ra tác dụng to lớn của mùn bã loài đước
đỏ trong chuỗi dinh dưỡng vùng cửa sông, ven biển Florida (1970) thì ngay sau đó
RNM càng trở thành một đối tượng được các nhà khoa học và nhiều nước trên thế
giới tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên từ giai đoạn 1978 - 1984 song song với việc
nghiên cứu thì tình hình khai thác quá mức các tài nguyên RNM ở các nước diễn ra
mạnh mẽ làm cho diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng, đất bị thoái hóa và gây ra
nhiều hậu quả xấu về môi trường khiến cho các nhà khoa học lo ngại, một số tổ
chức quốc tế đã được thành lập và để tham gia vào các công tác bảo tồn nguồn gen,
nâng cao ý thức cộng đồng trong công tác bảo vệ RNM… Hiện nay các tổ chức
quốc tế về bảo vệ RNM đã được hình thành ở mọi quốc gia, các nghiên cứu để
hướng tới việc bảo tồn loài cũng được phát huy mạnh mẽ ở mọi quốc gia.
1.2. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu đa dạng thực vật ở Việt Nam
Tìm hiểu những công trình nghiên cứu về thực vật ở Việt Nam sẽ giúp chúng
tôi có cơ sở vững chắc cho công trình nghiên cứu của mình.
9

Ở Việt Nam nhiều công trình nghiên cứu về phân loại thực vật cũng đã có từ
rất sớm đặc biệt phải kể tới Tuệ Tĩnh, năm 1417 ông đã mô tả 579 loài cây làm
thuốc. Thời Pháp thuộc, người Pháp đã đến Việt Nam nghiên cứu và để lại nhiều
công trình như Loureiro vào năm 1772 mô tả gần 700 loài cây trong cuốn “ Flora
cochichinensis”, năm 1879 Pierre xuất bản cuốn “ Flore forestière de cochinchine”
gồm 800 loài cây gỗ khác nhau, sau này công trình lớn nhất phải kể tới là của H.

Lecomte và một số nhà thực vật học người Pháp biên soạn, gồm 7 tập chính và sau
đó lại bổ sung thêm bằng những tập phụ, trong đó đã phân loại, thống kê, đã mô tả
các cây từ Dương xỉ đến Thực vật Hạt kín của toàn Đông Dương trong cuốn “Flore
generale de I’indochine” sau này được Aubréville bổ sung dưới nhan đề “ Thực vật
chí Lào, Campuchia và Việt Nam.
Từ 1954 đến nay Phân loại học càng được chú ý với các cuốn “Thực vật
chúng” (1963), “Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam” gồm 6 tập của Lê Khả Kế và
những người khác ( 1971 – 1975) mô tả từng loài thực vật khá kỹ càng, “Cây cỏ
miền nam Việt Nam” ( in kì nhì năm 1970 – 1972). “Cây cỏ Việt Nam” gồm 3
quyển, 6 tập của Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993). Trong các sách này, “Cây cỏ Việt
Nam” là bộ mới nhất, cập nhật nhất về thực vật chí của Việt Nam. Từng loài trong
tổng cộng khoảng 10.500 loài thực vật được mô tả các đặc tính sinh học một cách
ngắn gọn, súc tích và có hình vẽ kèm theo tên.
Năm 1993, Trần Đình Lý và tập thể cũng công bố cuốn “1900 loài cây có ích
của Việt Nam”. Năm 1996, “Tên cây gỗ rừng Việt Nam” là kết quả đóng góp của
nhiều tác giả đã được chỉnh lý và dịch sang tiếng Anh. Cùng năm này, Võ Văn Chi
công bố cuốn “Từ điển cây thuốc Việt Nam” và gần đây là cuốn “Từ điển thực vật
thông dụng” (2003). Nguyễn Tiến Bân công bố cuốn “Cẩm nang tra cứu và nhận
biết các họ thực vật ở Việt Nam” (1997). Võ Văn Chi và Trần Hợp (1999) công bố
cuốn “Cây cỏ có ích ở Việt Nam”. Đỗ Tất Lợi giới thiệu “Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam” và các tài liệu do Viện dược liệu biên soạn như “Cây thuốc Việt
Nam” (1990); “Tài nguyên cây thuốc Việt Nam”(1993); “Cây thuốc và động vật
làm thuốc ở Việt Nam” (2004). Năm 1999 cuốn “ Những đặc điểm cơ bản của hệ
10

thực vật Việt Nam” do tác giả Lê Trần Chấn đưa ra có thể được xem là một tổng
hợp quan trọng về đặc điểm cở bản của hệ thực vật cũng như giá trị tài nguyên cho
từng loài vốn đã được mô tả trong Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993). Như vậy hầu hết
các công trình nghiên cứu này đều mô tả khá chi tiết các loài cùng với hình vẽ minh
họa, trong đó nhiều công trình quan tâm đến giá trị kinh tế của chúng mà đặc biệt là

giá trị làm thuốc.
Đặc biệt, vào năm 1996 tập thể các nhà khoa học đã cho xuất bản cuốn
“Sách đỏ Việt Nam, phần Thực vật” trong đó mô tả 356 loài thực vật quí hiếm ở
nước ta hiện đang bị đe dọa ở các mức độ khác nhau, cần có biện pháp bảo vệ. Đến
năm 2007, cuốn sách được tái bản, tu chỉnh và bổ sung, riêng phần thực vật, số loài
bị đe dọa lên đến 462 loài.
Để hoàn thiện chính xác về danh pháp của các loài thực vật không thể không
nhắc đến tài liệu tra cứu dưới nhan đề “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” gồm 3
tập. Tập 1 do Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Đại học Quốc gia Hà
Nội biên tập, nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội năm 2001. Các tập tiếp theo (tập 2,
tập 3) do Giáo sư Nguyễn Tiến Bân là chủ biên soạn. Bộ sách đã đưa ra tên gọi các
loài thực vật thật chính xác, bao gồm tên gọi của cả thực vật bậc thấp, thực vật bậc
cao bao gồm tất cả các ngành ở Việt Nam. Đây là những tài liệu quan trọng làm cơ
sở cho công tác đánh giá tính đa dạng của các hệ thực vật về sau này.
1.2.2. Nghiên cứu về RNM ở Việt Nam
Cùng với các nhà nghiên cứu trên thế giới thì ở Việt Nam các tác giả cũng đã
bắt tay vào nghiên cứu các vấn đề liên quan bắt đầu từ đầu thập kỷ 80. Đầu tiên
theo B. Rollet (1981), vào cuối thế kỷ 19 chỉ có 3 tài liệu: đầu tiên là tác phẩm “Cây
dừa nước ở Nam Kỳ” năm 1878 nhưng không ghi tên tác giả, thứ hai là “Hệ thực
vật Nam Kỳ” năm 1879 của L. Pierre, đề cập đến một số loài cây ngập mặn, thứ ba
là cuốn sách “Trên toàn trái đất” của O.Kuntz (1881), trong sách này ông đã tường
thuật về chuyến đi Colombia, Indonesia, Việt Nam và Malaysia, có một số nét về
cây ngặp mặn.
11

Cho tới khi nước ta dành độc lập (1945) có tổng cộng 47 tài liệu viết về tài
nguyên rừng. Sau này có một số tài liệu điều tra về thảm thực vật RNM ở các vùng
nhưng nhiều nhất là các tài liệu viết về hậu quả sử dụng chất diệt cỏ trong chiến
tranh đã làm tiêu hủy rất nhiều cánh RNM.
Công trình nghiên cứu về RNM đầu tiên mang tính chất tổng quát nhất là luận

án tiến sĩ quốc gia của Humbert Vũ Văn Cương (1964), trong luận án của mình tác
giả đã mô tả chi tiết và tỉ mỉ các quần xã nước mặn, nước lợ ở vùng Sài gòn – Vũng
tàu và các yếu tố đất. Sau đó Nguyễn Văn Thôn và Lâm Bỉnh Lợi đã cho xuất bản
cuốn “Rừng ngập nước Việt Nam” năm 1972, tác phẩm chủ yếu tập trung vào việc
phân loại và lâm học.
Năm 1970 luận án PTS Sinh học của Phan Nguyên Hồng về “ Đặc điểm sinh
thái, phân bố của hệ thực vật, thảm thực vật ven biển miền Bắc Việt Nam” và một
số bài báo liên quan đã trình bày rất đầy đủ các tính chất của RNM ở phía Bắc Việt
Nam. Từ năm 1978 đến nay Phan Nguyên Hồng đã chủ trì rất nhiều dự án trọng
điểm của nhà nước về hệ sinh thái RNM và thu được nhiều kết quả ban đầu phục vụ
cho sản xuất lâm ngư vùng ven biển. Hội thảo khoa học lần thứ I về hệ sinh thái
RNM (1984) với 28 báo cáo đã đánh dấu một bước phát triển mới về nghiên cứu
lĩnh vực này. Lần đầu tiên những kết quả nghiên cứu của nhiều cán bộ Việt Nam
được giới thiệu với các nhà khoa học quốc tế.
Sau này các tác phẩm về RNM được đề câp ngày càng nhiều như: RNM của
Phạm Hoàng Hộ (1960), Nghiên cứu sơ bộ khu hệ thực vật ven biển miền Bắc Việt
Nam (Phan Nguyên Hồng, 1977); Hệ thực vật ngập mặn Việt Nam trong mối quan
hệ với các nước khác ở Đông Nam Á do Phan Nguyên Hồng và Hoàng Thị Sản viết
năm 1990. Một số đặc điểm sinh thái các loài trong chi Mắm do Mai Sĩ Tuấn và
Phan Nguyên Hồng viết năm. Rừng ngập nước Việt Nam (Nguyễn Văn Thôn, Lâm
Bỉnh Lợi, 1972); Đặc điểm của RNM vùng cửa sông Cửu Long (Phan Nguyên
Hồng, 1984); Tính chất và sự phân bố của RNM Việt Nam (P.N.Hồng, 1984); RNM
12

Việt Nam (Phan Nguyên Hồng,1988); RNM, tập I: Tiềm năng và sử dụng (Phan
Nguyên Hồng, Nguyễn Bội Quỳnh, Nguyễn Hoàng Trí, 1987)….
Từ năm 1972 tới nay, trong nhiều hội thảo khu vực và quốc tế đă có rất nhiều
báo cáo của các nhà nghiên cứu về RNM và luận án phó tiến sỹ, tiến sỹ sinh học về
RNM đặc biệt là những nghiên cứu của Phan Nguyên Hồng. Chính vì vậy Giải
thưởng Cosmos được trao cho ông vào năm 2008– Người Việt Nam đầu tiên được

nhận giải thưởng Cosmos - như một sự ghi nhận của bạn bè quốc tế đối với vị giáo
sư đã dành cả đời nghiên cứu về rừng ngập mặn Việt Nam và ông được mọi người
biết đến với những cái tên thân thuộc “Giáo sư của những cánh RNM”.
Nền tảng về RNM đã được Giáo sư Phan Nguyên Hồng và Cộng sự khai thác
và nghiên cứu rất cụ thể, tuy nhiên ngày nay với áp lực về dân số, sức ép về kinh tế,
các hệ sinh thái RNM ở nhiều nước đã và đang bị khai thác quá mức và bị phá hủy
đồng loạt cho nên diện tích RNM đã và đang bị thu hẹp, tài nguyên đất suy giảm
nhanh chóng. Vì vậy vấn đề đặt ra lúc này cho các nhà nghiên cứu và toàn thể cộng
đồng là phải có kế hoạch tìm hiểu, đánh giá và bảo tồn những giá trị của RNM để
chúng mãi mãi là nguồn tài nguyên quý giá đối với con người và quốc gia.
1.3. Nghiên cứu về các yếu tố địa lý
Những nghiên cứu về hệ thực vật là một phần cơ bản để phân loại chúng, tuy
nhiên một yếu tố quan trọng để đánh giá sự đa dạng của một hệ thực vật đó là
nghiên cứu về các yếu tố địa lý.
Gagnepain là người đầu tiên sắp xếp các nhóm phân loại, tổng hợp các chi,
loài, họ thực vật và phân tích các khía cạnh về mặt địa lý thực vật và tính đặc hữu
của chúng trong hai tác phẩm “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông Dương”
(1926) và “Giới thiệu về hệ thực vật Đông Dương” (1944). Ông đã chia hệ thực vật
Đông Dương thành 5 yếu tố.
Yếu tố Trung Quốc
33,8%
Yếu tố nhập nội và phân bố rộng
20,8%
13

Yếu tố Xích Kim - Himalaya
18,5%
Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác
15,0%
Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương

11,9%
Sau đó vào năm 1965, Pócs Tamás nhà thực vật học người Hungari đã dựa
vào 5.035 loài thực vật thu được ở miền bắc Việt Nam, để phân tích về mặt địa lý
thực vật và sinh thái học và ông đã đưa ra kết luận sau:
 Nhân tố di cư từ các vùng nhiệt đới: 55,27%
 Từ Malaysia - Indonesia 25,69%
 Từ Trung Quốc 12,89%
 Từ Ấn Độ và Himalaya 9,33%
 Từ các vùng nhiệt đới khác 7,36%
 Nhân tố bản địa đặc hữu 39,90%
 Của Việt Nam 32,55%
 Của Đông Dương 7,35%
 Nhân tố khác 4,83%
 Ôn đới 3,27%
 Thế giới 1,56%
Nhân tố nhập nội, trồng trọt 3,08%
Tổng 100%
Phân tích các bảng thống kê của F. Gagnepain và Pócs Tamás cùng những
bằng chứng cổ sinh vật học, Thái Văn Trừng (1999) cho rằng nên gộp khu hệ miền
Nam Trung Quốc với khu hệ miền Bắc Việt Nam thành một khu hợp nhất, gọi là
khu Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa hay khu hệ Việt Bắc – Hoa Nam. Từ đó, Thái
Văn Trừng cho rằng thành phần các yếu tố của khu hệ thực vật Việt Nam gồm:
14

Nhân tố di cư 30%
 Từ Malaysia - Indonesia 15%
 Từ Himalaya- Vân Nam – Quí Châu 10%
 Từ Ấn Độ - Miến Điện 14%
Nhân tố bản địa đặc hữu 50%
Các nhân tố khác 11%

 Nhiệt đới 7%
 Ôn đới 3%
 Thế giới 1%
Nhân tố nhập nội 3,08%
Tổng 100%
Căn cứ các thang phân loại của Pócs Tamás (1965), Ngô Chinh Dật (1993), Lê
Trần Chấn (1994) và trên cơ sở các công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Nghĩa
Thìn (1999) đã xây dựng thang phân loại các yếu tố địa lý thực vật cho hệ thực vật
Việt Nam và áp dụng cho việc sắp xếp các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa
lý. Thang phân loại này đã được tác giả chỉnh sửa, bổ sung theo Nguyễn Nghĩa Thì,
2004, các yếu tố địa lý cấu thành của một hệ thực vật bao gồm các nhóm sau:
1. Yếu tố toàn thế giới
2. Liên nhiệt đới
2.1. Nhiệt đới châu Á, châu Úc và châu Mỹ
2.2. Nhiệt đới châu Á, châu Phi và châu Mỹ
2.3. Nhiệt đới châu Á và Mỹ
3. Cổ nhiệt đới
3.1. Nhiệt đới châu Á - châu Úc
3.2. Nhiệt đới châu Á - châu Phi
15

4. Nhiệt đới châu Á (Inđô - Malêsia)
4.1. Đông Dương - Malesia
4.2. Đông Dương - Ấn Độ hay Lục địa châu Á nhiệt đới
4.3. Đông Dương-Himalaya hay lục địa Đông Nam Á (trừ Malêsia, Ấn
Độ)
4.4. Đông Dương - Nam Trung Quốc
4.5. Đông Dương
5. Ôn đới Bắc
5.1. Đông Á - Bắc Mỹ

5.2. Ôn đới cổ thế giới
5.3. Vùng ôn đới Địa Trung Hải, châu Âu, châu Á
5.4. Đông Á
6. Đặc hữu Việt Nam
6.1. Gần đặc hữu
7. Yếu tố cây trồng
8. Yếu tố không xác định: bao gồm các taxon không có đủ thông tin để xếp
vào một trong các yếu tố ở trên.
1.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật
Cây gỗ, cây thảo, cây dây leo, cây bì sinh là những từ ngữ rất thông dụng
trong đời sống nói chung và trong thực vật học nói riêng. Tuy nhiên không phải ai
cũng biết có sự khác biệt giữa dạng sống (life form) và dạng cây (habit), ở đó, dạng
sống được coi là một chuẩn trong nghiên cứu thực vật học, hình thái học thực vật
nói chung và đa dạng thực vật nói riêng. Dạng sống là kết quả quá trình thích nghi
lâu dài của sinh vật với môi trường sống. Đối với các sinh vật khác nhau thì môi
trường sống là khác nhau tạo nên sự đa dạng trong cấu trúc sống của sinh giới, ở
một mặt nào đó về hình thái của sinh vật trong môi trường thì đó là đa dạng về dạng
sống. Việc nghiên cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ chặt chẽ của các sinh vật
với điều kiện tự nhiên của từng vùng biểu hiện sự tác động của điều kiện sinh thái
16

đến từng loài thực vật. Nghiên cứu về phổ dạng sống chính là tìm hiểu bản chất sinh
thái của hệ thực vật.
Người nghiên cứu về phổ dạng sống mà cho tới nay những nghiên cứu đó
được nhiều người biết đến và dung nhiều nhất phải kể tới Raunkiær - nhà thực vật
học người Đan Mạch, ông được biết đến là người đầu tiên đưa ra khái niệm về các
dạng sống và tiến hành đánh giá sự đa dạng của các khu hệ thực vật ở các vùng
miền khác nhau và toàn thế giới thông qua tổ hợp dạng sống của tất cả các loài cây
trong đó, được gọi là phổ dạng sống (SB = Spectrum Biology). Lần đầu tiên ông
đưa ra các khái niệm này là năm 1904 tại tuyển tập tạp chí thực vật Tidsskrift, bản

mô tả đầy đủ sau đó được xuất bản cùng năm bằng tiếng Pháp. Ông tiếp tục mô tả tỉ
mỉ, chi tiết hơn và năm 1907 cho xuất bản bằng tiếng Đan Mạch. Bản thảo đầu tiên
và phiên bản năm 1907 rất lâu sau đó mới được xuất bản bằng tiếng Anh bởi các
cộng sự của ông. Mấu chốt để sắp xếp các nhóm dạng sống mà ông đưa ra chính là
xem thời kì khó khăn cho sự sống (do lạnh hay khô hay cả hai) loài đó tồn tại dưới
dạng sống nào: chỉ là hạt nghỉ hay còn có cả chồi, nếu có chồi thì chồi nằm ở vị trí
nào so với mặt đất, có được bảo vệ hay không Thang phân loại này gồm 6 dạng
sống cơ bản [38]
1. Cây chồi trên (Phanerophytes) - Ph: gồm những cây có chồi trong mùa khó
khăn nằm cách mặt đất từ 25cm trở lên.
a) Cây chồi trên to (Megaphanerophytes) - Mg: là cây gỗ hay dây leo gỗ cao
từ 25m trở lên.
b) Cây chồi trên nhỡ (Mesophanerophytes) - Me: gồm những cây gỗ hay dây
leo gỗ từ 8 - 25m.
c) Cây chồi trên nhỏ (Microphanerophytes) - Mi: là cây gỗ nhỏ, cây bụi, dây
leo gỗ, có thân cây hóa gỗ, cao từ 2 - 8m.
d) Cây chồi trên lùn (Nanophanerophytes) - Na: gồm cây gỗ lùn, cây bụi hay
cây nửa bụi, dây leo gỗ nhỏ, có thân cây hóa gỗ, cao từ 25 - 200cm.
17

e) Cây bì sinh (Epiphytes) - Ep: gồm các loài cây bì sinh sống lâu năm trên
thân, cành cây gỗ, trên vách đá.
f) Cây mọng nước (Succulentes) - Suc
g) Dây leo gỗ (Lianophanerophytes) – Lp : gồm các loài dây leo thân hoá gỗ.
h) Cây chồi trên thân thảo (Herbo-phanerophytes) – Hp : những cây chồi trên
không có chất gỗ, thân thảo sống nhiều năm.
2. Cây chồi sát đất (Chamaephytes) - Ch: gồm những cây có chồi trong mùa
khó khăn cách mặt đất dưới 25cm, mùa đông được lớp tuyết hay lá khô bao phủ
chống lạnh hay chống khô.



1. Phanerophyte (Chồi trên); 2-3. Chamaephytes (Chồi sát đất); 4. Hemicryptophyte
(Chồi nửa ẩn); 5-6. Geophytes (cryptophytes, chồi ẩn trong đất); 7. Helophyte (chồi
bám bùn); 8-9. Hydrophytes (chồi trong nước); Các dạng sống Therophyte (cây một
năm), Aerophyte (cây khí sinh) và Epiphyte (cây bì sinh hay phụ sinh) không được
thể hiện.
3. Cây chồi nửa ẩn (Hemicryptophytes) - Hm: gồm những cây có chồi trong
mùa khó khăn nằm sát mặt đất (ngang mặt) được lá khô che phủ bảo vệ, thường các
loài này có thân nửa nằm dưới đất, nửa trên mặt đất.

×