Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Nghiên cứu biến đổi sử dụng đất phục vụ phát triển sinh kế bền vững khu vực xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 89 trang )

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN



Nguyễn Hoàng Hoa



NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI SỬ DỤNG ĐẤT PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
SINH KẾ BỀN VỮNG KHU VỰC XÃ TẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




Hà Nội – Năm 2012

ii


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN





Nguyễn Hoàng Hoa


NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI SỬ DỤNG ĐẤT PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
SINH KẾ BỀN VỮNG KHU VỰC XÃ TẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Sử dụng và Bảo vệ Tài nguyên Môi trường
Mã số: 60 85 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN CỰ



Hà Nội – Năm 2012
1


Mục lục
Danh mục các hình vẽ, đồ thị 3
Danh mục các bảng biểu 4
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt 4
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 7
3. Phạm vi nghiên cứu 7
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 7
5. Cơ sở dữ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Cấu trúc luận văn 14
Chƣơng 1 – TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 15
1.1. Tổng quan về nghiên cứu biến đổi sử dụng đất 15
1.2. Tổng quan về nghiên cứu sinh kế bền vững 17
1.3. Tổng quan về mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh kế 20
1.4. Tổng quan các công trình nghiên cứu tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành
phố Hà Nội 24
Chƣơng 2 – ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ
DỤNG ĐẤT GIAI ĐOẠN 1993 – 2010 TẠI XÃ TẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 27
2.1. Đặc điểm khu vực nghiên cứu 27
2.2. Hiện trạng sử dụng đất tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nộinăm
1993, 2005, 2010 35
2.3. Biến động sử dụng đất tại xã Tản Lĩnh giai đoạn 1993 - 2010 43
Chƣơng 3 –MỐI QUAN HỆ GIỮA BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ SINH KẾ CỦA NGƢỜI DÂN TẠI XÃ TẢN LĨNH, HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI 49
3.1. Hƣớng nghiên cứu mối quan hệ kinh tế xã hội sử dụng kết hợp giữa mô hình
phân tích nhân tố và không gian hóa bằng hệ thống thông tin địa lý (GIS) 49
2

3.2. Ứng dụng phân tích thành phần chính và hệ thông tin địa lý (GIS) trong
nghiên cứu mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông nghiệp và sinh kế của
ngƣời dân tại xã Tản Lĩnh 51
3.3. Đánh giá kết quả phân tích và ý nghĩa 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
PHỤ LỤC 75























3

Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Hình 1.1. Khung sinh kế bền vững
19

Hình 2.1. Bản đồ hành chính xã Tản Lĩnh
28
Hình 2.2. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 1993
38
Hình 2.3. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 2005
39
Hình 2.4. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 2010
40
Hình 2.5. Bản đồ biến động sử dụng đất xã Tản Lĩnh giai đoạn 1993 – 2005
45
Hình 2.6. Bản đồ biến động sử dụng đất xã Tản Lĩnh giai đoạn 2005 - 2010
46
Hình 3.1. Biểu đồ thống kêsố hộ tham gia các loại hình sinh kế năm 2005 và
2011 theo tỷ lệ %
52
Hình 3.2. Biểu đồ thống kê số hộ có nguồn thu nhậptừ các loại hình sinh kế
năm 2005 và 2011 theo tỷ lệ %
53
Hình 3.3. Đồ thị Scree plot
58
Hình 3.4. Đồ thị giá trị các biến trong ma trận thành phần sau khi quay
Varimax
60
Hình 3.5. Đồ thị biểu diễn sự phân bố các giá trị nhân tố
62
Hình 3.6. Bản đồ giá trị nhân tố của thành phần chính “Sinh kế nông nghiệp
mới”
64
Hình 3.7. Bản đồ giá trị nhân tố của thành phần chính “Sinh kế nông nghiệp
truyền thống”

65














4

Danh mục các bảng biểu

Bảng 2.1.Cơ cấu kinh tế các ngành của xã Tản Lĩnh
34
Bảng 2.2. Bảng mô tả dữ liệu ảnh Landsat
36
Bảng 2.3. Diện tích và cơ cấu các loại đất xã Tản Lĩnh năm 1993
37
Bảng 2.4. Diện tích và cơ cấu các loại đất xã Tản Lĩnh năm 2005
37
Bảng 2.5. Diện tích và cơ cấu các loại đất xã Tản Lĩnh năm 2010
41
Bảng 2.6. Bảng biến động diện tích các loại hình sử dụng đất 1993-2010

43
Bảng 3.1. Bảng mô tả định tính các biến
54
Bảng 3.2. Bảng mô tả định lƣợng các biến
55
Bảng 3.3. Ma trận tƣơng quan giữa các biến
56
Bảng 3.4. Kết quả kiểm tra KMO và Bartlett
56
Bảng 3.5. Tính cộng đồng (Communalities) của các biến
57
Bảng 3.6. Giải thích phƣơng sai tổng thể (Total Variance Explained)
58
Bảng 3.7. Ma trận thành phần
59
Bảng 3.8. Bảng kết quả giá trị nhân tố của từng trƣờng hợp trong PCA
63














5

Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
PCA
Principal Component Analysis – Phân tích trục thành phần chính
GIS
Geographic Information System – Hệ thông tin địa lý
KMO
Thống kê Kaiser-Meyer-Olkin



















6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xƣa tới nay, cuộc sống con ngƣời luôn gắn liền với đất đai. Việc khai thác
sử dụng đất đai không chỉ đem lại nơi ở, thức ăn cho con ngƣời mà còn rất nhiều
nguồn lợi quý giá khác. Tuy nhiên, một thực tế có thể dễ dàng nhận thấy là diện tích
đất đai có thể sử dụng thƣờng không đổi, thậm chí có xu hƣớng suy giảm, trong khi
đó, dân số lại không ngừng tăng lên, hay nói cách khác là càng ngày càng thiếu đất
đai để phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của con ngƣời. Thực tế này bắt buộc
con ngƣời phải tìm ra những chính sách, biện pháp thay đổi sinh kế sao cho vừa duy
trì và nâng cao cuộc sống, đồng thời vừa đảm bảo đƣợc nguồn tài nguyên đất đai.
Tại Việt Nam, một nƣớc có nền sản xuất nông nghiệp chiếm ƣu thế, câu nói
“Tấc đất, tấc vàng” vốn không còn xa lạ với mỗi ngƣời dân. Đất đai cũng chính là
yếu tố khởi đầu trong trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và công cuộc Đổi mới
nói chung – một cuộc cải cách kinh tế xã hội có ý nghĩa quan trọng nhất đối với
Việt Nam từ lúc thành lập tới nay. Với những chính sách cải cách do chính phủ đề
ra qua từng thời kỳ, quá trình sử dụng đất đai của ngƣời dân cũng dần dần thay đổi
cùng với sự biến đổi về sinh kế. Cũng nằm trong xu hƣớng phát triển đó, xã Tản
Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, đã và đang diễn ra những sự thay đổi trong
sử dụng đất và sinh kế của ngƣời dân, đặc biệt từ sau khi Luật đất đai 1993 và Luật
đất đai mới năm 2003 ra đời. Cụ thể, khác với trƣớc đây, bên cạnh loại hình sử dụng
đất chủ yếu là trồng lúa, hoa màu; nơi đây đã xuất hiện thêm loại hình mới là trồng
cỏ (phục vụ nuôi bò sữa), và sinh kế của ngƣời dân cũng phát triển thêm rất nhiều
phƣơng thức mới nhƣ nuôi bò sữa hay thu mua sản phẩm sữa.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về những sự thay đổi nói trên tại Việt Nam nói
chung và xã Tản Lĩnh nói riêng chỉ diễn ra tách biệt trong từng vấn đề sử dụng đất
hoặc sinh kế mà ít có sự quan tâm tới mối quan hệ giữa chúng. Điều này dẫn đến
những kết quả đánh giá thiếu chính xác, ảnh hƣởng tới việc đƣa ra những chiến lƣợc
sinh kế phù hợp, bền vững cả về lợi ích kinh tế xã hội và tài nguyên thiên nhiên.
7


Nhằm góp phần giải quyết vấn đề này, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ, học
viên đã lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu biến đổi sử dụng đất phục vụ phát triển sinh kế
bền vững khu vực xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu: Đánh giá mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông nghiệp và
sinh kế của ngƣời dân tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội, nhằm góp phần phục
vụ phát triển sinh kế bền vững tại đây.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
o Phân tích sự biến động sử dụng đất tại khu vực nghiên cứu giai đoạn
1993 - 2010 tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
o Xác định mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông nghiệp và sinh
kế của ngƣời dân tại xã Tản Lĩnh.
o Đánh giá về các loại hình sinh kế liên quan tới sử dụng đấtnôngnghiệp
tại xã Tản Lĩnh
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian:
Đề tài nghiên cứu đƣợc thực hiện tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố
Hà Nội.
- Phạm vi khoa học:
+ Đánh giá biến động sử dụng đất tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội giai
đoạn từ 1993 đến 2010.
+ Phân tích mối quan hệ giữa sử dụng đất nông nghiệp và sinh kế của ngƣời
dân xã TảnLĩnhnhằm đƣa ra đánh giá về hƣớng phát triển sinh kế.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Xác định mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông
nghiệp và sinh kế đểtừ đó đƣa ra những đánh giá phù hợp về phát triển sinh kế của
ngƣời dân.
- Ý nghĩa thực tiễn:Sử dụng phƣơng pháp phân tích thành phần chính kết hợp
với không gian hóa dữ liệu điều tra nông hộ để thể hiện mối quan hệ giữa sử dụng
8


đất nông nghiệp và sinh kế, nhằm phục vụ đánh giá phƣơng thức sinh kế gắn với
hoạt động nông nghiệp của ngƣời dân tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội.
5. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
 Cơ sở dữ liệu
- Kết quả điều tra 198 hộ gia đình trên toàn bộ 13 thôn của xã Tản Lĩnh,
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thuộc dự án “Tác động của biến đổi khí hậu đến
biến đổi sử dụng đất và thay đổi sinh kế cộng đồng ở đồng bằng sông Hồng”
(DANIDA) của Trung tâm quốc tế nghiên cứu biến đổi toàn cầu, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
- Số liệu thống kê kinh tế xã hội xã Tản Lĩnh năm 2008 và 2009.
- Ảnh vệ tinh Landsat các năm 1993, 2005, và 2010 tại khu vực nghiên cứu.
- Bản đồ nền xã Tản Lĩnh năm 2005
 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp 1: Phương pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia
của người dân
Phƣơng pháp điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của ngƣời dân
(Participatory Rural appraisal – PRA), sau đây sẽ gọi tắt là phƣơng pháp PRA, là
một phƣơng pháp hệ thống bán chính quy đƣợc tiến hành ở một địa điểm cụ thể bởi
một nhóm liên ngành và đƣợc thiết kế để thu thập đƣợc những thông tin cần thiết và
những giả thuyết cho sự phát triển nông thôn. Mục tiêu của phƣơng pháp này là xã
hội có thể chấp nhận, có hiệu quả kinh tế, và hệ sinh thái phát triển bền vững. PRA
giả định rằng sự tham gia tích cực của các cộng đồng địa phƣơng vào suốt các tiến
trình của các chƣơng trình/ đề án phát triển nông thôn là yếu tố quyết định sự thành
công. Các đặc điểm của PRA bao gồm: sự bỏ qua tối ƣu (tránh những chi tiết và độ
chính xác không cần thiết cũng nhƣ việc thu thập quá nhiều số liệu không thật sự
cần cho mục đích của PRA), tính đa dạng của phân tích hay tam giác (tam giác
đƣợc xây dựng trong mối liên hệ với cơ cấu nhóm công tác, các nguồn thông tin về
con ngƣời, địa điểm… và phối hợp các kỹ thuật), nhóm liên ngành, tính phối hợp
các kỹ thuật, tính linh hoạt và không bắt buộc, sự tham gia của cộng đồng, và cân

bằng định kiến [23].
9

Các kỹ thuật đánh giá nhanh nông thôn với sự tham gia của ngƣời dân có thể
đƣợc lựa chọn và áp dụng để phù hợp với các giai đoạn khác nhau hoặc là của
khuyến nông, nghiên cứu hay các chƣơng trình phát triển chung, từ giai đoạn đánh
giá những nhu cầu ban đầu, đến theo dõi đánh giá và cuối cùng là giai đoạn áp dụng
thực hiện của bất kỳ một đề án nào. Cụ thể, trong đề tài này, PRA đƣợc sử dụng
trong giai đoạn đầu của dự án “Tác động của biến đổi khí hậu đến biến đổi sử dụng
đất và thay đổi sinh kế cộng đồng ở đồng bằng sông Hồng” (DANIDA) của Trung
tâm quốc tế nghiên cứu biến đổi toàn cầu, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong đó, trình
tự tiến hành theo các bƣớc chính:
- Chọn điểm và thông qua các thủ tục, cho phép của chính quyền địa phƣơng
- Tiền trạm điểm để khảo sát
- Điều tra chọn mẫu để thu thập thông tin: không gian, thời gian (giai đoạn
2005 – 2011), đặc điểm kinh tế - xã hội.
- Tổng hợp số liệu và phân tích các vấn đề phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu.
Trong đó, trong giai đoạn điều tra chọn mẫu, riêng tại xã Tản Lĩnh, số hộ
mẫu đƣợc lựa chọn tại 13 thôn trung bình là 15 hộ/thôn với tổng số là 198 hộ, dựa
trên danh sách cử tri bầu cử hội đồng nhân dân cấp xã năm 2011 và theo phƣơng
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên.
- Phương pháp 2: Phương pháp khảo sát thực địa
Việc khảo sát thực địa đƣợc thực hiện vào tháng 4/2011 và tháng 9/2012
nhằm mục đích kiểm chứng các mẫu giải đoán, kiểm tra độ chính xác của các yếu tố
địa lý của khu vực, độ chính xác của các ranh giới sử dụng đất, bổ sung các yếu tố
địa vật đặc trƣng hay các yếu tố kinh tế - văn hóa - xã hội mà không thể đoán nhận
đƣợc ở trong phòng. Tuyến thực địa đƣợc thực hiện dọc theo trục đƣờng giao thông
chính xuyên qua xã Tản Lĩnh. Việc cập nhật hiện trạng và biến động sử dụng đất
năm 1993, 2005 và 2010 đƣợc kết hợp giữa khảo sát thực địa, đo GPS xác định
điểm và ranh giới khu vực và lấy thông tin từ cán bộ, ngƣời dân địa phƣơng. Dựa

vào kết quả đo vẽ ngoài thực địa và bản đồ nền xã Tản Lĩnh năm 2005, bản đồ hiện
trạng sử dụng đất các năm 1993, 2005 và 2010 đƣợc đối chiếu, kiểm tra độ chính
xác và hiệu chỉnh thành bản đồ hoàn chỉnh.
10

- Phương pháp 3: Phương pháp viễn thám và GIS
Với dữ liệu là ảnh vệ tinh độ phân giải trung bình Landsat, quá trình phân
loại ảnh dựa theo phƣơng pháp phân loại có giám sát (supervised classification) với
thuật toán phân loại hợp lý tối đa (Maximum Likelihood) sử dụng phần mềm Envi
4.7. Phân loại theo phƣơng pháp này coi số liệu thống kê của mỗi lớp trong mỗi
kênh ảnh đƣợc phân tán một cách thông thƣờng và phƣơng pháp này có tính đến
khả năng một pixel thuộc một lớp nhất định. Nếu nhƣ không chọn một ngƣỡng xác
suất thì sẽ phải phân loại tất cả các pixel. Mỗi pixel đƣợc gán cho một lớp có độ xác
suất cao nhất (maximum likelihood). Phƣơng pháp này cho rằng các band phổ có sự
phân bố chuẩn và các pixel sẽ đƣợc phân loại vào lớp mà nó có xác suất cao nhất.
Việc tính toán không chỉ dựa vào giá trị khoảng cách mà còn dựa vào cả xu thế biến
thiên độ xám trong mỗi lớp. Đây là một phƣơng pháp phân loại khá chính xác
nhƣng đòi hỏi nhiều thời gian tính toán và phụ thuộc vào sự phân bố chuẩn của dữ
liệu.
Việc giải đoán ảnh dựa trên hai nhóm chính là các yếu tố ảnh và các yếu tố
địa kỹ thuật:
- Các yếu tố ảnh (photo elements): gồm tôn ảnh (tone), hoa văn ảnh( texture),
kiểu mẫu ( Pattern), hình dạng (Shape); kích thƣớc (Size); bóng râm( Shadow); vị
trí (Site); màu (Colour).
Trong đó, tôn ảnh là dấu hiệu quan trọng để xác định đối tƣợng. Sự khác biệt
của tôn ảnh phụ thuộc vào nhiều tính chất khác nhau của đối tƣợng. Những khu vực
ngập nƣớc nhƣ hồ, biển, sông phản xạ ánh sáng rất yếu, nên sẽ có màu đen trên ảnh.
Những nơi canh tác nông nghiệp nhƣ ruộng lúa nƣớc có màu xám trên ảnh. Tôn ảnh
chỉ thị đặc điểm về thành phần vật chất và độ ẩm của đất đá. Cách phân loại tôn ảnh
mang tính chất tƣơng đối, nên chỉ có thể so sánh đối chiếu tôn ảnh của một loạt ảnh

chụp trong cùng một điều kiện. Nói chung tôn ảnh sáng có liên quan với các vùng
đất đá hạt thôi, thoát nƣớc tốt. Tôn ảnh sẫm liên quan tới các vùng đất đá hạt mịn,
thoát nƣớc kém.
Ngoài ra, màu của đối tƣợng trên ảnh màu giả (FCC) cũng là yếu tố quan
trọng, giúp cho ngƣời giải đoán có thể phân biệt nhiều đối tƣợng có đặc điểm tôn
11

ảnh tƣơng tự nhƣ nhau trên ảnh đen trắng. Tổ hợp màu giả thông dụng trong ảnh
Landsat là xanh lơ (blue), xanh lục (green) và đỏ (red) thể hiện các nhóm yếu tố cơ
bản là: thực vật từ màu hồng đến màu đỏ, nƣớc xanh lơ nhạt đến xanh lơ xẫm; đất
trống, đá lộ có màu trắng. Ngoài ra, một số đối tƣợng khác cũng có màu đặc biệt: đô
thị màu xanh lơ, đất trồng màu có cây vụ đông các loại màu hồng đến màu vàng.
Ngoài 3 tổ hợp màu giả đã nêu trên, rất nhiều tổ hợp màu giả khác có thể tạo ra
bằng phƣơng pháp quang học ( dùng các tấm lọc màu) hoặc bằng kỹ thuật xử lý ảnh
số để phục vụ cho giải đoán ảnh.
- Các yếu tố địa kỹ thuật ( Geotechnical elements): gồm địa hình, thực vật,
hiện trạng sử dụng đất, mạng lƣới sông suối, hệ thống các khe nứt lớn và các yếu tố
dạng tuyến, và sự tổ hợp các yếu tố giải đoán. Trong đó, địa hình cho phép phân
biệt sơ bộ các yếu tố trên ảnh, từ đó định hƣớng rất rõ trong phân tích. Sự phân bố
của một kiểu thảm thực vật và đặc điểm của nó (mật độ tán che, sinh khối ) là một
dấu hiệu quan trọng để phân biệt đối tƣợng.Hiện trạng sử dụng đất cung cấp những
thông tin quan trọng để xác định các đối tƣợng (Ví dụ: lúa một vụ- vùng bồi cao,
lúa hai vụ - vùng thấp thƣờng xuyên vừa đủ nƣớc- đó là các đồng bằng phù sa).
Mạng lƣới sông suối có quan hệ rất mật thiết với dạng cấu hình, độ dốc, lớp vỏ
phong hóa, nền thạch học, đồng thời nó cũng cho biết đặc điểm cấu trúc địa chất
của khu vực.Những thông số của hệ thống khe nứt cần đƣợc xem xét đến là hƣớng,
mật độ, hình dạng, độ lớn, giúp xác định và phân biệt rất nhiều đối tƣợng, đồng thời
cũng là thông số để đánh giá đối tƣợng. Ngoài ra, trong quá trình giải đoán, bên
cạnh việc phân tích các yếu tố riêng lẻ còn xem xét đến sự tập hợp trong không gian
của từng nhóm yếu tố. Sự tập hợp đó có thể tạo nên một dạng hay một kiểu địa

hình, từ đó giúp ngƣời giải đoán có thể hiệu chỉnh, loại bỏ những sai sót và nâng
cao độ chính xác.
Trình tự phân loại ảnh gồm các bƣớc sau:
Bước 1: Xác định số loại thông tin cần phân chia trong khu vực, các loại cần
đƣợc định nghĩa rõ ràng về mặt chỉ tiêu, các chỉ tiêu này cần đƣợc lựa chọn có tính
đến đặc thù của dữ liệu ảnh vệ tinh ( thời gian thu nhận ảnh, độ phân giải không
gian, phổ…)
12

Bước 2: Tuyển chọn các đặc trƣng bao gồm các đặc trƣng về phổ của đối
tƣợng (ảnh đa phổ), biến động về thời gian (ảnh đa thời gian) hoặc cấu trúc cụ thể
của đối tƣợng nhằm thiết lập tiêu chuẩn cho phép phân biệt giữa các loại quan tâm
(xử lý riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau ).
Bước 3: Chọn vùng mẫu trên ảnh bao gồm dữ liệu tƣơng ứng với vùng mẫu
đƣợc khảo sát thực địa hoặc từ những dữ liệu cần thiết đƣợc lựa chọn dựa trên bƣớc
1 và bƣớc 2. Các số liệu đƣợc lấy trên cơ sở vùng mẫu có ý nghĩa quyết định trong
việc thành lập các chỉ tiêu và luật quyết định trong phân loại, từ đó chọn thuật toán
thích hợp là thuật toán hợp lý tối đa của phƣơng pháp có giám định, còn gọi là phân
loại giám sát.
Bước 4: Ƣớc tính thống kê vùng mẫu nhằm xác định các giá trị tƣơng ứng
với loại phổ trong không gian đặc trƣng của đối tƣợng quan tâm, từ đó áp dụng
nhiều phƣơng pháp phân loại khác nhau ứng với vùng mẫu và so sánh kết quả đạt
đƣợc nhằm tìm thuật toán tối ƣu cho cho kết quả phân loại.
Bước 5: Thực hiện phân loại, các pixel sẽ đƣợc phân tuần tự vào các loại
tƣơng ứng đã xác định.
Bước 6: Ảnh sau khi phân loại đƣợc làm trơn bởi các thuật toán lọc, đây là
giai đoạn hậu xử lý sau khi phân loại.
Bước 7: Kiểm tra phân loại để đánh giá độ chính xác và mức độ tin cậy của
ảnh sau khi phân loại. Kết quả phân loại đƣợc kiểm tra bằng cách so sánh ảnh phân
loại với dữ liệu tham khảo đã có (bản đồ nền xã Tản Lĩnh năm 2005 và dữ liệu đo

GPS ngoài thực địa).
Bản đồ hiện trạng sử dụng đất xã Tản Lĩnh năm 1993, 2005 và 2010 sẽ đƣợc
sử dụng làm đầu vào cho công đoạn thành lập bản đồ biến động sử dụng đất trong
phần mềm Arcgis desktop10.0. Để tạo ra đƣợc bản đồ biến động sử dụng đất thì đề
tài đã sử dụng công cụ Intersect (giao nhau giữa các đối tƣợng trên hai lớp khác
nhau tạo thành nhiều đối tƣợng mới nhỏ hơn có tất cả các thuộc tính của 2 layer).
- Phương pháp 4: Phương pháp phân tích nhân tố
Phân tích nhân tố là mô hình toán học cho phép đƣa số lƣợng lớn chỉ tiêu
quan trắc về một số các nhân tố mà chỉ bị mất mát một phần những thông tin ban
13

đầu. Các nhân tố là những tổ hợp tuyến tính của các chỉ tiêu quan trắc. Trên cơ sở
các nhân tố này, ta có thể tính đƣợc các chỉ số tổng hợp mang thông tin khái quát
mới về chất [1].
Phân tích nhân tố đƣợc sử dụng trong các trƣờng hợp sau:
- Nhận diện các khía cạnh hay nhân tố giải thích đƣợc các liên hệ tƣơng quan
trong một tập hợp biến.
- Nhận diện một tập hợp gồm 1 số lƣợng biến mới tƣơng đối ít không có
tƣơng quan với nhau để thay thế tập hợp biến gốc có tƣơng quan với nhau nhằm
thực hiện phân tích đa biến tiếp theo.
- Để chọn ra một tập hợp con gồm các biến nổi trội từ một tập hợp nhiều
biến nhằm sử dụng trong các phân tích đa biến kế tiếp.
Trong đề tài này, phƣơng pháp phân tích nhân tố đƣợc sử dụng là phân tích
trục thành phần chính (Principal Component Analysis – PCA). PCA là công cụ
phân tích nhân tố sử dụng với mục đích giảm dữ liệu. Thuật toán PCA tìm kiếm sự
kết hợp tuyến tính giữa các biến mà phƣơng sai của chúng đạt cực đại. Sau đó, loại
bỏ phƣơng sai này ra khỏi mô hình và cố gắng tìm kiếm sự kết hợp tuyến tính thứ
hai để có thể giải thích tối đa phần còn lại của phƣơng sai và quá trình tiếp tục đƣợc
thực hiện tới khi tất cả các phƣơng sai đƣợc loại trừ hết. Đây đƣợc gọi là phƣơng
pháp trục thành phần chính và kết quả là các nhân tố trực giao (do vậy không có

quan hệ).
Hiển thị PCA đƣợc thực hiện với mục đích giảm số lƣợng lớn các biến gốc
sẵn có (lớn hơn 150 biến) xuống một số lƣợng ít hơn các nhân tố cho mục đích mô
hình và giải đoán. Do số lƣợng trƣờng hợp trong cơ sở dữ liệu này nhỏ (N=13), nên
chỉ một số biến giới hạn đƣợc sử dụng trong phép PCA mang lại kết quả có ý nghĩa.
Nói cách khác, “chỉ cần tính cộng đồng (communalities) cao, số lƣợng các nhân tố
dự kiến tƣơng đối nhỏ, và mô hình lỗi thấp (một điều kiện thƣờng đi với tính cộng
đồng cao), các nhà nghiên cứu và đánh giá không nên quá quan tâm về kích thƣớc
mẫu nhỏ [25], hay “dữ liệu mạnh trong phân tích nhân tố có nghĩa là tính cộng đồng
mang tính thống nhất cao, mà không có tải trọng chéo, cộng thêm một số tải trọng
biến mạnh trên mỗi nhân tố [15]. Đề tài đã thực hiện qua nhiều lần thử chứng tỏ để
14

có một ma trận với tƣơng quan không quá tồi, mỗi một lần phân tích không nhiều
hơn 6 hoặc 7 biến. Có thể nói là dị thƣờng trong ma trận tƣơng quan nảy sinh khi
hai hoặc nhiều biến trong mô hình đƣợc loại bỏ hoàn toàn.
Mức độ đầy đủ của mẫu theo thống kê Kaiser-Meyer-Olkin (KMO) đƣợc sử
dụng trong việc chọn biến. KMO giúp việc đoán liệu dữ liệu thể hiện có là nhân tố
không, trên cơ sở các quan hệ và bán quan hệ. KMO có giá trị từ 0 đến 1. SPSS tính
KMO tập hợp theo từng KMO cho mỗi biến thành phần trong PCA. Theo tác giả
Jullie Pallant [24], KMO tập hợp cần phải lớn hơn hoặc bằng 0.6 mới nên đƣa vào
phân tích nhân tố, kể cả PCA. Mỗi KMO đơn lẻ đƣợc sử dụng để xác định biến nào
có thể loại ra trong quá trình phân tích, những KMO nhỏ nhất đƣợc loại trƣớc, sau
đó chạy lại PCA đến khi KMO tập hợp đạt yêu cầu.Sau khi đã ép đƣợc theo yêu cầu
và chấp nhận giải pháp cuối cùng, cần phải quyết định những nhân tố nào nên đƣợc
giữ lại trong phân tích. Ví dụ trong luật Kaiser, tiêu chí đƣợc sử dụng là các thành
phần đƣợc giữ lại cần phải có giá trị eigen lớn hơn 1. Điều quan trọng là khả năng
hiểu đƣợc của các nhân tố. Nói cách khác, các thành phần đƣợc giữ lại cần phải có ý
nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu.Cuối cùng, các nhân tố trong bảng đƣợc đƣa ra
Excel và lƣu dƣới dạng DBF (khuôn dạng của dBASE IV). Dữ liệu kết quả đƣợc

nhập vào ArcGIS. Việc kết hợp giữa các lớp thông tin địa lý và bảng số liệu giúp
hiển thị lại kết quả của PCA theo không gian. Hiển thị này đƣợc trình bày trên nền
mầu đồ giải với màu lạnh khi nhân tố nhỏ hơn 0 và màu nóng khi giá trị cao. Mỗi
thành phần đƣợc thể hiện trên bản đồ bằng công cụ ArcGis.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn bao gồm 3 phần chính. Trong đó, chƣơng đầu tiên tổng quan các
vấn đề lý luận chung về biến đổi sử dụng đất, sinh kế bền vững, mối quan hệ giữa
biến đổi sử dụng đất và sinh kế, đồng thời tổng quan lại các công trình nghiên cứu
đƣợc thực hiện tại xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Chƣơng tiếp theo
nêu các đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội tại khu vực nghiên cứu và phân tích biến
động sử dụng đất giai đoạn 1993 – 2010 tại đây. Chƣơng cuối phân tích mối quan
hệ giữa biến đổi sử dụng đất nông nghiệp và sinh kế của ngƣời dân tại xã Tản Lĩnh,
từ đó nêu những đánh giá về các loại hình sinh kế nông nghiệp liên quan.
15

Chương 1 – TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan vềnghiên cứu biến đổi sử dụng đất
Thực tế, sử dụng đất thƣờng đƣợc hiểu đơn giản là các hoạt động làm thay
đổi bề mặt trái đất của con ngƣời. Trong khi đó, khái niệm của quá trình chuyển đổi
sử dụng đất đề cập đến bất kỳ sự thay đổi trong hệ thống sử dụng đất từ một trạng
thái này sang một trạng thái khác[20].Theo các tác giả Eric F. Lambin, Patrick
Meyfroidt[20], sử dụng đất hiện nay diễn ra theo hai xu hƣớng: thứ nhất là các quá
trình thay đổi dần dần ở quy mô rộng lớn vàthứ hai là sự chuyển đổi đột ngột để
ứng phó với các sự kiện quan trọng ở cấp cộng đồng địa phƣơng hoặc cá nhân. Quá
trình biến đổi sử dụng đất có liên quan tới sự thay đổi trong sự cung cấp hàng hóa
và dịch vụ sinh thái mà xã hội con ngƣời phụ thuộc. Sự đa dạng lớn trong bối cảnh
địa lý và lịch sử có liên quan tới biến đổi sử dụng đất và rất nhiều sự phức tạp trong
cả hai hệ thống sinh thái và xã hội.
Theo các tác giả Eric F. Lambin, Patrick Meyfroidt [20], hai động lực cơ bản

ảnh hƣởng tới quyết định sử dụng đất nói chung là: (i) động lực sinh thái – xã hội;
và (ii) các động lực kinh tế - xã hội. Trong đó, động lực sinh thái – xã hội là động
lực nội sinh (gồm: sự phát triển có giới hạn của nguồn tài nguyên thiên nhiên và chu
kỳ thích ứng; sự thiếu hụt đất đai và thâm canh nông nghiệp; điều chỉnh sử dụng
đất), mang tính địa phƣơng, xuất hiện khi dòng hàng hóa và dịch vụ đƣợc cung cấp
bởi các hệ sinh thái tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng, khiến chúng buộc phải làm
chậm hoặc thậm chí đảo ngƣợc sự biến đổi sử dụng đất. Động lực kinh tế - xã hội là
các động lực ngoại sinh (gồm: sự hiện đại hóa kinh tế, thuê đất và tiếp cận thị
trƣờng, chế độ sở hữu đất đai, thƣơng mại toàn cầu, sự phổ biến của các ý tƣởng
bảo vệ môi trƣờng toàn cầu), bắt nguồn từ cấp độ tổ chức cao hơn, từ khu vực lân
cận, hoặc từ các cuộc cải cách địa phƣơng, dẫn đến sự chuyển dịch từ mở rộng sử
dụng đất sang phục hồi hệ sinh thái tự nhiên ở quy mô quốc gia.
Liên quan tới biến đổi sử dụng đất, dựa trên 320 nguồn tài liệu từ sách báo,
tạp chí trong các lĩnh vực kỹ thuật, vật lý, khoa học xã hội, có những từ “sử dụng
đất”, “biến đổi sử dụng đất”, “biến đổi lớp phủ và sử dụng đất” hoặc “biến đổi lớp
16

phủ đất” trong tiêu đề hoặc từ khóa (có sự giới hạn đối với một khái niệm rộng lớn
hơn của các lĩnh vực có sự tham gia của phƣơng pháp tiếp cận quản lý nhân chủng
học/môi trƣờng kết hợp với các chủ đề nhƣ: cải cách đất đai, quyền sử dụng đất,
quản lý đất đai và quyền sở hữu, tái định cƣ, và quan điểm cộng đồng về đất đai),
các tác giả B. McCusker và E.R.Carrđã tổng kết lại 4 xu hƣớng nghiên cứu
chính[22]:
- Nguyên nhân của sự biến đổi sử dụng đất thƣờng đƣợc cho là do kết hợp lại
các động lực đƣợc xác định một cách rộng rãi .
-Việc nghiên cứu về nguyên nhân của sự thay đổi hƣớng tới tiếp cận các
động lực biến đổi mang tính toàn cầu hoặc khu vực.
- Biến đổi sử dụng đất thƣờng đƣợc coi nhƣ là kết quả của các quá trình khác
(chính trị, kinh tế, môi trƣờng), đóng vai trò nhƣ một điều kiện cho những quá trình
ở quy mô địa phƣơng và toàn cầu, thay vì là một quá trình đƣợc thành lập bởi mối

quan hệ quyền lực địa phƣơng, khu vực, và quốc gia.
- Các tài liệu có xu hƣớng hƣớng tới nghiên cứu các hộ gia đình (sử dụng
phƣơng pháp tiếp cận hệ thống – gợi nhắc phƣơng pháp tiếp cận văn hóa sinh thái
tới tƣơng tác con ngƣời - môi trƣờng) và kết quả mô hình hóa.
Trong đó, đáng lƣu ý là các tác giả đã nhận thấy các vấn đề sau:
- Xu hƣớng trong lý thuyết biến đổi sử dụng đất chỉ dừng lại ở xác định động
lực và mô hình hóa kết quả dựa trên những gì tìm đƣợc, mà ít khi đi sâu vào nguyên
nhân tại sao lại là những động lực này làm biến đổi sử dụng đất và cách chúng xây
dựng mang tính xã hội nhƣ thế nào.
- Tuy lý thuyết biến đổi sử dụng đất theo hƣớng kết quả mô hình hóa phần
nào đáp ứng nhu cầu thực tế cho việc ra chính sách với các kịch bản biến đổi nhƣng
vẫn có sự hạn chế bởi các mô hình này không thể nắm bắt đƣợc sự phức tạp của các
động lực dẫn đến những thay đổi về đối tƣợng quan sát, và nhƣ vậy, việc thực hiện
những mô hình phức tạp nhất bị giới hạn. Thậm chí, việc lập mô hình hóa dữ liệu
ngay cả trong trƣờng hợp chỉ có một động lực điều khiển quá trình biến đổi sử dụng
đất cũng không hiệu quả khi có nhiều thay đổi đƣợc quan sát theo kinh nghiệm, vì
chúng bắt đầu ở quy mô sai của quá trình xã hội.
17

1.2. Tổng quan về nghiên cứu sinh kế bền vững
1.2.1. Khái niệm sinh kế và sinh kế bền vững
Liên quan tới lý thuyết về biến đổi sử dụng đất, sinh kế thƣờng đƣợc hiểu là
“khả năng, tài sản (sự dự trữ, nguồn tài nguyên, quyền đòi hỏi và tiếp cận) và các
hoạt động cần thiết cho phƣơng tiện sinh hoạt” [11, 12, 14, 18, 27]. Theo Ellis [18]
ghi chú, những định nghĩa sinh kế này đã chuyển từ thu nhập đơn thuần tới một
xem xét toàn diện hơn về cách thức kiếm sống của con ngƣời.
Trên cơ sở đó, khái niệm sinh kế bền vững cũng đƣợc đƣợc hình thành (từ ý
tƣởng đƣợc đề xuất bởi Ủy ban Brundtland về Môi trƣờng và Phát triển tới sự đề
cập cụ thể trong nội dung Agenda 21 tại Hội nghị về Môi trƣờng và Phát triển của
Liên hợp quốc 1992 hay định nghĩa tổng hợp của Robert Chambers và Gordon

Conway trong bài “Sustainable Rural Livelihoods: Practical concepts for the 21
st

Century”)và hoàn thiện (với công trình nghiên cứu sinh kế bền vững của Viện
Nghiên cứu Phát triển (Institute for Development Studies - IDS) tại Đại học Sussex,
Brighton, UK, và kết quả nghiên cứu về áp dụng khái niệm và phƣơng pháp tiếp cận
sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế của Anh (the British Department for
International Development - DFID)với hai đặc trƣng cần thiết, cần đƣợc đảm bảo
đồng thời:
- Khả năng có thể đƣơng đầu với và phục hồi sau những áp lực và cú sốc và
duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản hiện tại cũng nhƣ trong tƣơng lai,
- Không làm hủy hoại nguồn tài nguyên tự nhiên.
1.2.2. Đặc điểm phương pháp tiếp cận sinh kế bền vững của DFID
Khái niệmvề sinh kế và sinh kế bền vững trên đã dẫn đến một số phƣơng
pháp tiếp cận sinh kế tập trung chặt chẽ vào truy cập các loại tài sản của ngƣời dân.
Phụ thuộc vào các tổ chức sử dụng, khái niệm này đƣợc dùng chủ yếu nhƣ khung
(hoặc công cụ) phân tích trong lập kế hoạch chƣơng trình và đánh giá hoặc nhƣ một
chƣơng trình. Tuy nhiên, giữa các phƣơng pháp có 3 đặc trƣng cơ bản chung: (i)
trọng tâm là sinh kế của ngƣời nghèo; (ii)thay vì lấy đầu vào là một ngành cụ thể
nhƣ nông nghiệp, nƣớc hoặc y tế nhƣ các phƣơng pháp thông thƣờng, cách tiếp cận
này bắt đầu với sự phân tích các hệ thống sinh kế hiện tại của ngƣời dân để xác định
18

sự can thiệp thích hợp; (iii) phƣơng pháp sinh kế bền vững chú trọng tới ngƣời tham
gia trong xác định và thực hiện các hoạt động phù hợp [21].
Trong các phƣơng pháp tiếp cận sinh kế bền vững, phƣơng pháp đƣợc phát
triển tại DFID từ năm 1998có trọng tâm là khung sinh kế bền vững - một cấu trúc
phân tích để tạo điều kiện cho một sự hiểu biết rộng lớn và mang tính hệ thống của
các yếu tố khác nhau có tác dụng hạn chế hoặc tăng cƣờng cơ hội sinh kế và để chỉ
ra cách chúng liên quan với nhau [21].

Cũng theo Lasse Krantz [21], phƣơng pháp của DFID giúp tăng cƣờng hiệu
quả của các cơ quan, tổ chức thực hiện trong giảm nghèo theo hai cách:
- Bằng cách lồng ghép một loạt các nguyên tắc chính, trong đó xác định các
hoạt động phát triển tập trung vào đói nghèo nên lấy trọng tâm là con ngƣời, có khả
năng đáp ứng và sự tham gia, đa cấp độ, thực hiện quan hệ đối tác, bền vững và linh
động.
- Bằng cách áp dụng một quan điểm toàn diện trong chƣơng trình các hoạt
động hỗ trợ để đảm bảo chúng tƣơng ứng với các vấn đề hoặc lĩnh vực liên quan
trực tiếp để cải thiện sinh kế ngƣời nghèo.
Với khung sinh kế bền vững, phƣơng pháp này đƣợc DFID sử dụng để nhận
biết, thiết kế và đánh giá những sáng kiến mới (dự án hoặc chƣơng trình), để đánh
giá lại các hoạt động đã có, nhằm thông báo ý kiến và thảo luận chiến lƣợc, và dùng
trong nghiên cứu. Phƣơng pháp tiếp cận sinh kế bền vững của DFID không phải là
một khung chƣơng trình với các bƣớc khác nhau cần đƣợc thực hiện khi lập kế
hoạch cho những chƣơng trình sinh kế bền vững rời rạc, mà nó thể hiện cách suy
nghĩ mới về đói nghèo, tập trung vào sinh kế của ngƣời nghèo để nhận biết các vấn
đề hoặc khu vực cần đƣợc đề cập tới trong một tình huống cụ thể để giảm đói
nghèo[21].
* Khung sinh kế bền vững của DFID
Khung sinh kế bền vững đƣợc DFID xây dựng với các nhân tố: khung hoàn
cảnh dễ bị tổn thƣơng, tài sản sinh kế, cấu trúc chuyển đổi và quá trình thực hiện,
các chiến lƣợc sinh kế và kết quả.Trong đó, bối cảnh dễ bị tổn thương là môi trƣờng
19


Hình 1.1. Khung sinh kế bền vững [17]
bên ngoài mà trong đó con ngƣời tồn tại. Sinh kế con ngƣời và các tài sản sẵn có
của họ về cơ bản bị ảnh hƣởng bởi những xu hƣớng, cú sốc hoặc tính mùa vụ -
những điều mà họ hạn chế đƣợc hoặc không thể kiểm soát đƣợc. Trong bối cảnh
này, cấu trúc chuyển đổi và quá trình thực hiện (bao gồm các cơ quan, tổ chức,

chính sách và pháp luật) có tác động quyết định tới cách tiếp cận (với các loại tài
sản sinh kế, chiến lƣợc sinh kế, tới các cơ quan ra quyết định và các nguồn ảnh
hƣởng), tới sự trao đổi giữa các loại vốn khác nhau, tới sự hoàn trả (kinh tế và các
hình thức khác) cho bất kỳ chiến lƣợc sinh kế nào. Thông qua các hoạt động và
chọn lựa, ngƣời dân sẽ đạt đƣợc mục tiêu sinh kế của họ với những kết quả sinh kế
tƣơng ứng [17].
Nhân tố quan trọng, đóng vai trò trung tâm của khung sinh kế bền vữnglàtài
sản sinh kếvới 5 loại vốn: con người (kỹ năng, kiến thức, năng lực để lao động, và
sức khỏe tốt), tự nhiên(nguồn tài nguyên thiên nhiên), tài chính (chủ yếu là tiền mặt
và các khoản tài chính tƣơng đƣơng, mang tính sẵn có hoặc đƣợc cung cấp thƣờng
xuyên),vật chất (cơ sở hạ tầng cơ bản và công cụ sản xuất hàng hóa cần thiết để hỗ
20

trợ sinh kế), xã hội(các mạng lƣới và các mối liên kết với nhau, tính đoàn hội của
các nhóm chính thức; và mối quan hệ dựa trên sự tin tƣởng, sự trao đổi và ảnh
hƣởng lẫn nhau)[17]. Trong đó, đất đai đƣợc coi là vốn tự nhiên, “các cơ sở tài
nguyên thiên nhiên (đất, nƣớc, cây xanh) mang lại sản phẩm đƣợc sử dụng bởi loài
ngƣời cho sự sống còn của họ”, mặc dù một cánh đồng đƣợc cải thiện cũng có thể
hiểu dƣới tiêu đề của vốn vật chất, loại vốn thƣờng bao gồm “các tài sản đƣợc đƣa
vào sự tồn tại bởi quá trình sản xuất kinh tế” [18]. Về mặt hình học, 5 loại tài sản
này đƣợc mô tả nhƣ một hình ngũ giác để nhấn mạnh mối liên kết của chúng và
thực tế là sinh kế phụ thuộc vào sự kết hợp của rất nhiều loại tài sản. Vì vậy, một
phần quan trọng trong phân tích là tìm ra cách tiếp cận của ngƣời dân với các loại
tài sản khác nhauvà khả năng của họ để đƣa các tài sản vào sử dụng hiệu quả.
1.3. Tổng quan về mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh kế
1.3.1. Trên thế giới
Mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh kế thƣờng đƣợc nghiên cứu
theo hƣớng một chiều, tức là nhân tố này đóng vai trò tác động, gây ra sự thay đổi
cho nhân tố kia, mà ít có sự quan tâm tới tác động ngƣợc lại, thậm chí chúng còn
đƣợc nghiên cứu riêng biệt, không có mối liên quan với nhau. Kết quả nghiên cứu

của các tác giả B. McCusker và E.R. Carr [22] là minh chứng rõ ràng và cụ thể cho
điều này. Cụ thể, trong số 209 tài liệu tham khảo đƣợc xác định có liên quan tới
sinh kế chỉ có 5% (12) giải quyết biến đổi sử dụng đất (tập trung vào các quá trình
của sự biến đổi, không phải khái niệm rộng rãi về đất nhƣ đầu vào của hệ thống sinh
kế) trong các bối cảnh sinh kế và 11% (35) trong số 320 nguồn tài liệu về biến đổi
sử dụng đất có tham chiếu cụ thể tới khái niệm sinh kế bất kỳ. Hệ quả của hƣớng
nghiên cứu này đƣợc các tác giả B. McCusker và E.R. Carr đƣa ra:
- Bằng cách coi thay đổi sử dụng đất nhƣ là kết quả của một vài động lực
chính trị, kinh tế, môi trƣờng, các tài liệu sử dụng đất đã vô tình che khuất câu
chuyện làm thế nào và tại sao con ngƣời tƣơng tác với môi trƣờng của họ theo
những cách nhất định và lý do tại sao kết quả từ cùng một hành động trong không
gian hoặc quy mô có thể khác nhau nhiều nhƣ vậy.
21

- Lý thuyết sinh kế xử lý các mối liên kết giữa sinh kế, đặc biệt là đa dạng
hóa, và sử dụng đất nhƣ là một trong những nguyên nhân và tác động. Cách xử lý
này xuất hiện khi thay đổi trong sinh kế dẫn tới biến đổi trong sử dụng đấttheo hai
cách. Đầu tiên, lý thuyết sinh kế có xu hƣớng xử lý biến đổi sử dụng đất nhƣ một
đầu vào đối với sinh kế của hộ gia đình hoặc là một kết quả của sự đa dạng hóa, trừ
trƣờng hợp các lực ngoại sinh nhƣ biến đổi khí hậu, thay đổi kinh tế hoặc can thiệp
của chính sách chính phủ. Do đó, sinh kế thƣờng đƣợc ƣu tiên trong mối quan hệ
sinh kế - sử dụng đất, với yếu tố phía sau (sử dụng đất) đƣợc coi nhƣ một cơ hội
hoặc hạn chế yếu tố phía trƣớc (sinh kế) thông qua những phản hồi. Thứ hai, các
vấn đề của xã hội và quyền lực thƣờng đƣợc đƣa vào các cuộc thảo luận của mối
quan hệ sử dụng đất và sinh kế trong điều kiện truy cập vào vốn vật chất và tự nhiên
thông qua các mạng lƣới của vốn xã hội. Ở đây, vốn xã hội đƣợc coi nhƣ có một vai
trò định hình trong sử dụng đất với ít sự xem xét hơn về các cách thức sử dụng đất
có thể ảnh hƣởng tới vốn xã hội, ngoại trừ trong điều kiện thiếu đất hoặc xung đột
về việc tiếp cận với các nguồn lực.
Trƣớc thực tế nghiên cứu này, các tác giả đã đề xuất ý tƣởng kết nối giữa sử

dụng đất và sinh kế theo hƣớng hợp tác sản xuất, tức là coi sử dụng đất và sinh kế là
những biểu hiện khác nhau của các quá trình xã hội mà theo đó các cá nhân và các
nhóm hiểu các thách thức thƣờng ngày trong cuộc sống của họ, các dạng vốn khác
nhau sẵn có để họ thƣơng lƣợng với thử thách, và các chiến lƣợc mà họ có thể tiến
hành. Ở đây, sử dụng đất và sinh kế đều đóng vai trò quyết định trong xác định các
vấn đề và đề ra chiến lƣợc giải quyết các vấn đề đó [22]. Các tác giả đã cố gắng
thách thức những giả định tồn tại giữa các cộng đồng về cách sử dụng đất và sinh kế
có liên quan, và trình bày một cấu trúc thay thế của mối liên hệ này, mà nó có thể
phục vụ nhƣ một hƣớng dẫn cho nghiên cứu tƣơng lai và chuẩn mực cho các cuộc
thảo luận tiếp theo. Tóm lại, hƣớng nghiên cứu này tuy còn cần nhiều kiểm chứng
thực tế (bởi với mỗi khu vực lại có những đặc trƣng riêng về tự nhiên, kinh tế, xã
hội), nhƣng đã chỉ ra một hƣớng mới, có tiềm năng trong phân tích mối tƣơng tác
giữa sử dụng đất và sinh kế.
22

1.3.2. Tại Việt Nam
Nhƣ trên đã phân tích, các nghiên cứu tại Việt Nam cũng theo xu hƣớng tập
trung phân tích một yếu tố là sử dụng đất hoặc sinh kế, mà ít quan tâm tới mối liên
hệ qua lại giữa chúng. Để có thể phân tích đƣợc mối quan hệ này, bên cạnh khả
năng có thể coi sử dụng đất và sinh kế nhƣ biểu hiện của quá trình xã hội, yếu tố
thời gian và không gian cũng cần đƣợc xem xét, bởi sự biến đổi nói chung diễn ra
liên tục theo thời gian, và tại những vị trí, khu vực khác nhau thì các yếu tố lại có sự
ảnh hƣởng lẫn nhau theo những cách khác biệt.
Tại Việt Nam, một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi quan trọng
trong nền kinh tế xã hội nói chung cũng nhƣ biến đổi sử dụng đất và sinh kế ngƣời
dân tại nông thôn nói riêng là thời kỳ Đổi mới. Cuộc cải cách kinh tế này tại Việt
Nam chính thức bắt đầu với các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Đại hội đã thừa nhận một số sai lầm trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
đƣa ra những cải cách và định hƣớng để từng bƣớc xoá bỏ những sai lầm và hƣớng
tới sự tự do hoá nền kinh tế. Thời kỳ Đổi mới giúp tăng năng suất quốc gia, kích

thích đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng đất nƣớc. Các thành
phần nổi bật nhất của cuộc cải cách là: (1) bãi bỏ chăn nuôi tập thể; (2) cải cách giá
nông nghiệp; (3) thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao;
(4) chính sách thu hút đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức;
(5) sự phân quyền của chính sách tài chính; (6) sự đẩy mạnh các doanh nghiệp vừa
và nhỏ; (7) cải cách quyền sử dụng đất; (8) thành lập thị trƣờng đất đai[28]. Theo
tác giả Trần Thị Quế [26], quá trình cải cách diễn ra với những đặc trƣng sau: (i) bắt
đầu trong lĩnh vực nông nghiệp; (ii) xuất phát từ các yêu cầu của nông dân (quá
trình từ dƣới lên); (iii) mangđặc trƣng kinh tế, đáp ứng lợi ích kinh tế của ngƣời
dân; (iv) trải qua một quá trình dần dần, bắt đầu với yếu tố quan trọng nhất của sản
xuất nông nghiệplà đất đai, sau đó đến một sự thay đổi trong hệ thống quản lý đất
đai mà theo sau là các thay đổi thể chế khác; (v) diễn ra chậm nhƣng toàn diện.
Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang tăng trƣởng rất nhanh, và đƣợc xem là một
quốc gia thành công trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trƣờng. Việc thực hiện một loạt các cải cách căn bản năm
23

2000 bao gồm Luật Doanh nghiệp mới; Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài sửa đổi và việc ký
kết Hiệp định thƣơng mại song phƣơng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vào năm 2000
(thực hiện năm 2001) là những bằng chứng cho thấy môi trƣờng đầu tƣ đã đƣợc cải
thiện. Điều này cho phép Việt Nam có đƣợc tăng trƣởng kinh tế nhanh trong những
năm gần đây. Thêm vào đó, một loạt các chỉ số xã hội đã minh hoạ cho những cải
thiện đáng kể trong đời sống con ngƣời Việt Nam [6].
Nhƣ vậy, để có thể tìm hiểu mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh
kế của ngƣời dân tại nông thôn Việt Nam, Đổi mới chính là xuất phát điểm cơ bản.
Trong đó, các chính sách đất đai đóng vai trò quan trọng bởi nhƣ trên đã nêu, cuộc
cải cách kinh tế nói chung và cải cách nông nghiệp nói riêng bắt đầu từ đất đai. “Đất
đai và các chính sách liên quan đến đất đai có tác động trực tiếp đến đời sống của
ngƣời dân thông qua những ảnh hƣởng đến việc sở hữu đất đai; quy mô và sự manh
mún ruộng đất; sử dụng đất; thị trƣờng tín dụng và thị trƣờng đất đai; thị trƣờng các

yếu tố đầu vào và sản phẩm đầu ra và phát triển công nghệ”[6]. Bên cạnh đó, cuộc
cải cách mang đặc trƣng từ dƣới lên, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tế cần thay đổi
của ngƣời nông dân nên vai trò của họtrong quyết định sử dụng đất đai cũng là một
yếu tố không thể phủ nhận đƣợc. Ví dụ, trong các điều kiện để tiến hành sử dụng
đất linh hoạt, tính chủ động của ngƣời nông dân có vai trò quyết định. Ngƣời nông
dân phải có những điều kiện cần thiết để nhận thức và có thể thay đổi kiểu sử dụng
đất. Điều này chịu tác động bởi chính sách của Chính phủ và cả nguồn tài chính,
trình độ kỹ thuật, khả năng nhận thức, trình độ chuyên môn của các nông hộ[6].
Kết luận:
Qua phần tổng quan chung về từng vấn đề cũng nhƣ mối quan hệ giữa biến
đổi sử dụng đất và sinh kế, một số kết luận sau có thể đƣợc rút ra:
- Việc xác định mối quan hệ giữa biến đổi sử dụng đất và sinh kế diễn ra theo
xu hƣớng một chiều (yếu tố này là hệ quả của yếu tố kia) hay hai chiều (hai yếu tố
đều đóng vai trò quan trọng chi phối lẫn nhau) khá phức tạp. Những nghiên cứu
hiện nay, đặc biệt là trong lý thuyết sinh kế, diễn ra theo xu hƣớng thay đổi trong
sinh kế dẫn tới biến đổi sử dụng đất, mà ít có sự xem xét trƣờng hợp ngƣợc lại, trừ
một vài trƣờng hợp nhƣ thiếu đất hay xung đột trong tiếp cận các nguồn lực.Hƣớng

×