Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Chính sách phát triển mạng lưới thông tin khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 102 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ







CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC




Chuyên ngành: Chính sách Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.70
Khóa học: 2007-2010





NGƯỜI THỰC HIỆN: Trịnh Vũ Hồng Nga
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. Vũ Cao Đàm



HÀ NỘI - 2010




1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ







CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC




Chuyên ngành: Chính sách Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.70
Khóa học: 2007-2010




NGƯỜI THỰC HIỆN: Trịnh Vũ Hồng Nga
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. Vũ Cao Đàm



HÀ NỘI - 2010





4
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 7
1.1. Một số khái niệm liên quan 7
1.1.1. Khái niệm về thông tin và thông tin KH&CN phục vụ nông
nghiệp nông thôn 7
1.1.2. Khái niệm về hoạt động thông tin KH&CN 12
1.1.3. Khái niệm về mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông
nghiệp nông thôn 17
1.2. Vai trò của thông tin KH&CN đối với nông nghiệp nông thôn 20
1.3. Kinh nghiệm các nước về công tác phát triển mạng lưới thông tin
KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn 23
1.3.1. Mạng thông tin nông thôn tại Ấn Độ 23
1.3.2. Mạng thông tin về Phát triển nông thôn tại Băng la đét 26
Kết luận chương 1 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG MẠNG LƯỚI THÔNG TIN KH&CN
PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TẠI MỘT SỐ TỈNH PHÍA
BẮC 32
2.1. Thực trạng chính sách thông tin KH&CN 32
2.2. Thực trạng mạng lưới cung cấp thông tin KH&CN phục vụ nông
nghệp nông thôn và miền núi 34
2.2.1. Mô hình cung cấp thông tin KH&CN phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn và miền núi 34
2.2.2. Thực trạng mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp
nông thôn ở một tỉnh phía Bắc từ năm 1990 đến nay 40
2.2.2.1. Đặc điểm của nông thôn các tỉnh phía Bắc 40
2.2.2.2. Hiện trạng mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp
nông thôn miền Bắc hiện nay 42
2.3. Phân tích, đánh giá thực trạng mạng lưới thông tin KH&CN phục

5

vụ nông nghiệp nông thôn các tỉnh phía Bắc trong thời kỳ hội nhập 57
Kết luận Chương 2 62
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN MẠNG LƯỚI
THÔNG TIN KH&CN PHỤC VỤ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN CÁC
TỈNH PHÍA BẮC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 64
3.1. Định hướng, quan điểm chính sách phát triển mạng lưới thông tin
KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn 64
3.1.1. Định hướng, chiến lược phát triển thông tin KH&CN trong
giai đoạn 2015 64
3.1.2. Quan điểm chính sách phát triển mạng lưới thông tin KH&CN
phục vụ nông nghiệp nông thôn 65
3.2. Đề xuất chính sách phát triển mạng lưới thông tin KH&CN phục
vụ nông nghiệp nông thôn 69
3.2.1. Chính sách tạo nguồn và phát triển nguồn tin KH&CN phục
vụ nông nghiệp nông thôn 72
3.2.2. Chính sách liên kết và mở rộng khả năng khai thác thông tin
KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn 73
3.2.3. Chính sách phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin
KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn 74
3.2.4. Chính sách đào tạo nguồn nhân lực 75
3.2.5. Chính sách sở hữu thông tin 76
3.3. Giải pháp thực hiện 77
Kết luận Chương 3. 82
KHUYẾN NGHỊ 85
KẾT LUẬN 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


3
KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT

Viết tắt
Tên đầy đủ
CNTT
Công nghệ thông tin
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CSDL
Cơ sở dữ liệu
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐTNCSHCM
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
ICT
Công nghệ thông tin và truyền thông
KH&CN
Khoa học và công nghệ
KHKT
Khoa học kỹ thuật
KTQT
Kinh tế quốc tế
QPPL
Quy phạm pháp luật
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TBKT
Tiến bộ kỹ thuật
TT-TV
Thông tin – Thư viện
TW
Trung ương

UBND
Ủy ban nhân dân
VISTA
Vietnam Information for Science and Technology
Advance – Thông tin Khoa học và công nghệ tiên tiến
Việt Nam
XHCN
Xã hội chủ nghĩa


6
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là nòng cốt dẫn tới sự
hình thành xã hội thông tin, trong đó thông tin đóng vai trò quyết định trong
sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Thông tin khoa học và công nghệ đã
trở thành một trong những nguồn lực phát triển quan trọng của mỗi quốc gia.
Sự phân biệt giàu – nghèo hiện đang là vấn đề nan giải của cả nhân loại, song
ở một chừng mực nhất định thế giới đang phải đối mặt với sự phân biệt
nghiêm trọng hơn, khó khắc phục hơn, đó là sự phân biệt về thông tin. Trên
quy mô toàn cầu cũng như trong mỗi quốc gia, mỗi địa phương, ở đâu cũng
có sự phân biệt giữa một nhóm người có thông tin và nhóm người không có
thông tin. Ngày nay, bị tước bỏ hoặc không có cơ hội truy cập, sử dụng thông
tin đồng nghĩa với việc bị đặt sang bên lề của sự phát triển.
Nông nghiệp và nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ
phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế.
Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước,
đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả nước. Mặt khác, khu vực nông thôn hiện
có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên: hơn 7 triệu ha đất
canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của

Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt
tiêu ). Nông nghiệp nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp
các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Bộ mặt nông
nghiệp nông thôn Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều đổi mới, từ
chỗ bị thiếu ăn, phải nhập khẩu gạo, đến nay đã và đang xuất khẩu gạo đứng
thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế,
yếu kém, mà nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn, vốn
đầu tư cho khu vực này vẫn thấp (chiếm 11% - 12% tổng đầu tư toàn xã hội);
sản phẩm nông nghiệp lại chủ yếu thiên về số lượng, chứ chưa nâng cao về
chất lượng, giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động và hiệu quả sản

7
xuất còn thấp; sản lượng nông sản tuy tăng nhưng chi phí đầu vào vẫn tăng
cao (chi phí cho sản xuất 1ha lúa tăng từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng), trong khi
giá các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế lại giảm. Trình độ dân trí
của một bộ phận nông dân (nhất là vùng sâu, vùng xa) chưa được cải thiện,
đời sống, xã hội nông thôn mặc dù có sự chuyển biến song chưa mạnh và
không đồng đều. Tình trạng đó dẫn đến sự chênh lệch giữa khu vực thành thị
và nông thôn ngày càng lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Ngân
hàng thế giới (WB) (năm 2003) hệ số chênh lệch giữa thành thị và nông thôn
còn là 3,65 lần. Trong khi đó, các chính sách và biện pháp mà Nhà nước đã áp
dụng cho phát triển nông nghiệp những năm gần đây chưa tạo bước đột phá
mạnh.
Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đưa ra
các chương trình và giải pháp lớn, trong đó có nêu: " …Nhà nước có chính
sách đầu tư phát triển hệ thống thông tin nông nghiệp hiện đại; từng bước ứng
dụng công nghệ thông tin trong nông nghiệp và nông thôn;
Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, khóa
IX đã nêu: "… Chú trọng chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật và thành tựu
KH&CN cho nông nghiệp nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn";

Nghị quyết 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ rõ chủ trương
và giải pháp chủ yếu: "…Tập trung phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, tăng cường
sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các
vùng dân tộc và miền núi…";
Ngày 28/02/2001 Bộ Chính trị có đưa ra Chỉ thị 63-CT/TW về việc đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa
- hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn;
Đại hội X Đảng CSVN đã định: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn
đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

8
nghiệp, nông thôn".
Như vậy thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn là xu thế tất yếu
của con đường phát triển nông nghiệp ở nước ta theo hướng hiện đại, xóa dần
khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. Chỉ có tiến hành công nghiệp hóa
nông nghiệp nông thôn mới giải quyết được những vấn đề nan giải của nông
nghiệp, nông thôn nước nhà là: sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, sản phẩm
không đồng đều, chất lượng kém, năng suất thấp. Một trong những nguyên
nhân quan trọng gây ra vấn đề trên là do nông dân thiếu thông tin về thị
trường; thiếu kiến thức về khoa học và công nghệ, không được tiếp thu và cập
nhật với các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong trồng trọt và chăn nuôi, không có
các địa chỉ tin cậy để tư vấn .
Như vậy, để góp phần nâng cao dân trí và trình độ nhận thức của người
dân ở vùng nông thôn, và để người dân được tiếp cận với những kiến thức
khoa học chuyên ngành tiên tiến thì công tác thông tin KH&CN cho nông
nghiệp nông thôn phải được đẩy mạnh. Phải có sự chia sẻ, liên kết thông tin
đa chiều: theo chiều dọc giữa trung ương và địa phương, theo chiều ngang
giữa các tổ chức trong ngành, giữa các địa phương với nhau. Và để thực hiện

tốt được mục tiêu này thì cần phải có một chính sách đồng bộ phát triển mạng
lưới thông tin, đưa thông tin về với người dân vùng nông thôn, phục vụ sản
xuất nông nghiệp nông thôn. Vì vậy đề tài nghiên cứu "Chính sách phát triển
mạng lưới thông tin khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn
trong thời kỳ hội nhập" là đề tài có tính cấp thiết, đồng thời mang lại ý nghĩa
to lớn cho đời sống của người dân nông thôn nói riêng, cũng như cho nền
nông nghiệp nông thôn nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu:
Trong thời gian qua, đã có rất nhiều đề tài, dự án nghiên cứu về chính
sách thông tin KH&CN, hệ thống thông tin như: "Nghiên cứu mạng lưới
thông tin và quản lý Nhà nước đối với hoạt động thông tin ở các nước kinh tế
thị trường" (Tác giả: Nguyễn Hữu Hùng); "Chương trình và kế hoạch phát

9
triển thông tin KH&CN nước ta giai đoạn đến năm 2020" (Tác giả: Tạ Bá
Hưng); "Nghiên cứu xây dựng và phát triển hệ thống thông tin khoa học kỹ
thuật quốc gia" (Tác giả: Phạm Văn Vu); "Nghiên cứu xây dựng cơ chế tổ
chức và khai thác hiệu quả ngân hàng dữ liệu khoa học và công nghệ quốc gia
tại Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa" (Tác giả: Cao Minh Kiểm)… Tuy nhiên chưa có đề tài nào
đi sâu vào nghiên cứu, đề xuất chính sách phát triển mạng lưới thông tin khoa
học và công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu đề xuất chính sách phát triển mạng lưới thông tin KH&CN
phục vụ nông nghiệp nông thôn đảm bảo cơ chế trao đổi thông tin mở, đa
chiều, tiện dụng.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Nội dung: Nghiên cứu đề xuất chính sách phát triển mạng lưới thông
tin khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn của Bộ Khoa học
và Công nghệ.

Thời gian: từ năm 1990 đến nay.
Không gian: các tỉnh phía Bắc.
5. Mẫu khảo sát:
Khảo sát mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn
tại Cục Thông tin KH&CN Quốc gia; và một số trung tâm thông tin của địa
phương.
6. Vấn đề nghiên cứu:
- Mạng lưới thông tin KH&CN có ý nghĩa như thế nào trong quá trình
phát triển nông nghiệp nông thôn?
- Thực trạng mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông
thôn hiện nay ra sao?
- Cần có giải pháp chính sách gì để phát triển mạng lưới thông tin
KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn với cơ chế trao đổi thông tin mở, đa

10
chiều, tiện dụng.
7. Giả thuyết nghiên cứu:
- Mạng lưới thông tin KH&CN có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển nông thôn nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Về
phương diện sản xuất: thông qua các mạng lưới thông tin, người nông dân có
cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến giúp nâng cao năng suất lao
động. Đồng thời người nông dân còn có được các địa chỉ tư vấn cần thiết theo
chuyên ngành sản xuất; rộng hơn nữa người dân còn có thể với tới thị trường
KH&CN toàn quốc. Về mặt xã hội: thông tin KH&CN giúp nâng cao dân trí,
từng bước xóa bỏ những tập tục lạc hậu, những quan niệm sai lệch, phi khoa
học trong cuộc sống thường ngày.
- Từ năm 1990 đến năm 2002: Mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ
nông nghiệp nông thôn chưa đủ năng lực để kiểm soát tốt các nguồn thông tin
trong nước, nội dung còn thiếu nhiều mảng. Chưa đồng bộ trong công tác tin
học hóa, việc khai thác tin mất nhiều công sức, không hiệu quả. Từ năm 2002

đến nay: Mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn đã
được tin học hóa nhưng còn hạn chế trong việc trao đổi, liên kết thông tin,
chưa tạo ra kênh chuyển giao thông tin có hiệu quả.
- Đề xuất giải pháp chính sách: Nhà nước cần đưa ra nhóm chính sách
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo nhân lực, phát triển hạ tầng, … nhằm
thiết lập một cổng thông tin KH&CN để phát triển, liên kết thành mạng lưới
nhằm đảm bảo cơ chế trao đổi thông tin mở, đa chiều có hiệu quả, tiện dụng.
8. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp khảo sát
9. Dự kiến luận cứ:
- Luận cứ lý thuyết:
+ Cơ sở thông tin học. Đoàn Phan Tân. Hà Nội, 1998

11
+ Thông tin: Từ lý luận tới thực tiễn. Nguyễn Hữu Hùng. Hà Nội, 2005.
- Luận cứ thực tiễn:
+ Nghị định số 159/2004/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động thông tin
KH&CN,
+ Luật KH&CN; Luật Chuyển giao công nghệ, các văn bản Chính phủ về
KH&CN,
+ Báo cáo: "Mô hình cung cấp thông tin KH&CN cho nông nghiệp nông thôn
của Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia cho tỉnh Ninh Bình tại 4 xã:
Đồng Phong, Khánh Nhạc, Ninh Phong, Yên Thắng",
+ Một số báo cáo, số liệu điều tra tại Trung tâm thông tin KH&CN các tỉnh.
10. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và khuyến nghị, luận văn có các
chương sau đây:
Chương 1. Cơ sở lý luận.

Chương 2. Thực trạng mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông
nghiệp nông thôn tại một số tỉnh phía Bắc.
Chương 3. Đề xuất chính sách phát triển mạng lưới thông tin KH&CN
phục vụ nông nghiệp nông thôn các tỉnh phía Bắc trong thời kỳ hội nhập.

12

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số khái niệm liên quan:
1.1.1. Khái niệm về thông tin và thông tin KH&CN:
a) Khái niệm thông tin:
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên
cần đến thông tin. Ngày nay, với sự bùng nổ thông tin, thông tin càng trở
thành một trong những nhu cầu sống còn của con người và khái niệm "thông
tin" đang trở thành khái niệm cơ bản của nhiều khoa học. Thông tin là một
hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Nhưng không phải ngay từ đầu thông
tin đã được con người nhận thức ở cấp độ khái niệm. Lần đầu tiên thông tin
được con người chú ý nghiên cứu về mặt ý nghĩa xã hội của nó và được đề
cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Theo
cách hiểu kinh điển thì thông tin chính là những cái mới khác với những điều
đã biết. Và thông tin đã trở thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu, trực tiếp của
điều khiển học, của lý thuyết thông tin và tin học. Từ đó có rất nhiều định
nghĩa về thông tin. Nhìn chung, những định nghĩa đó đều cố gắng tiếp cận với
bản chất của thông tin nhưng chỉ từ những góc độ, phương diện nhất định nào
đó của nó. Có thể xem xét thông tin từ góc độ phân biệt các loại thông tin như
thông tin kinh tế, thông tin khoa học - kỹ thuật, thông tin văn hoá - xã hội…
Để làm rõ bản chất chung nhất của thông tin chúng ta sẽ tiếp cận với một số
định nghĩa khác nhau về thông tin như sau:
- Theo định nghĩa thông thường: thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện,
ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình

thành trong quá trình giao tiếp: một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ
người khác thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng
dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung
quanh.
- Trên quan điểm triết học: thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã

13
hội (thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh…hay nói rộng hơn
bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác quan của con người.
- Trên quan điểm của lý thuyết thông tin: thông tin là sự loại trừ tính
bất định của hiện tượng ngẫu nhiên.
Trong thời đại thông tin hiện nay, để có thể làm chủ được thông tin,
khai thác và sử dụng nó một cách có hiệu quả, chúng ta ngoài việc hiểu cái
bản chất chung nhất của thông tin, đó là: "Cái đa dạng được phản ánh", thì
việc tìm hiểu các đặc điểm, thuộc tính của nó mới chính là mục tiêu để nắm
bắt, làm chủ và khai thác thông tin.
b) Một số thuộc tính cơ bản của thông tin:
* Chất lượng thông tin:
- Thông tin phải xác thực và đúng đắn (phù hợp với thực tế). Độ tin cậy
được tăng lên nếu thông tin được kiểm tra bằng các phương tiện độc lập.
- Thông tin phải được cập nhật đầy đủ và chính xác.
- Thông tin phải dễ hiểu tức là người nhận có thể lĩnh hội được.
- Thông tin có chất lượng thấp là những thông tin sai lạc hoặc bị bóp
méo, trái ngược với các thông tin khác, trình bày nghèo nàn, khó lĩnh hội…
*Giá trị thông tin:
- Theo nghiên cứu gần đây, có 4 yếu tố đem lại giá trị thông tin là :
Tính chính xác; Phạm vi bao quát của nội dung; Tính cập nhật; Tần số sử
dụng.
- Trên bình diện tổng quát: thông tin có giá trị là những thông tin có
tính chất riêng biệt (làm thông tin phù hợp với yêu cầu của người sử dụng) và

thông tin có tính chất dự báo (cho phép lựa chọn một quyết định trong nhiều
khả năng cho phép).
- Trên ý nghĩa rộng hơn: giá trị thông tin nằm trong quyền lực tổ chức
của nó – thông tin phản ánh cái xác định, trật tự trong các mối quan hệ của tổ
chức, thông tin có giá trị cao làm môi trường tốt lên và đưa ra được những
quyết định đối phó được với sự thay đổi của hoàn cảnh.

14
* Giá thành của thông tin:
Giá thành của thông tin phụ thuộc 2 yếu tố:
- Lao động trí tuệ: bao gồm việc hình thành ra thông tin và xử lý nội
dung thông tin hay còn gọi là việc tạo nên giá trị của thông tin.
- Các yếu tố vật chất: đó là các phương tiện xử lý và lưu trữ thông tin,
các phương tiện truyền tin.
Đối với các yếu tố vật chất việc định giá thường dễ dàng theo giá thị
trường. Thông tin có thể trở thành hàng hoá khi được lặp lại với số lượng lớn
và được ghi ra trên các phương tiện vật chất phổ biến. Ngược lại có những
thông tin thuần khiết và người sáng tạo ra thông tin có quyền sở hữu chúng và
được đảm bảo bằng pháp luật (Luật SHTT).
c) Các hình thức thông tin:
Thông tin KH&CN cũng như các thông tin khác được thu thập từ 2
nguồn gồm: nguồn tin KH&CN nội sinh và nguồn tin KH&CN được nhập từ
nước ngoài (dưới các hình thức khác nhau).
- Nguồn tin KH&CN nội sinh:
Trong một đất nước, nguồn tin nội sinh được sản sinh dựa trên sức lực
trí tuệ và vật chất của một quốc gia. Cơ quan thông tin KH&CN thuộc sở hữu
Nhà nước được cấp kinh phí để thu thập, quản lý đầy đủ các dạng nguồn tin
KH&CN nội sinh và tạo lập các nguồn tin nội sinh phù hợp với chức năng và
diện phục vụ của mình. Các cơ quan hữu quan cần có những giải pháp thích
hợp đế thực hiện việc lưu chiểu đặc biệt là đối với tài liệu nội sinh được số

hóa trên các mạng thông tin.
Các nguồn tin KH&CN nội sinh rất đa dạng, bao gồm các loại sau:
Sách, Báo, tạp chí, tài liệu chép tay, Luận án khoa học; Báo cáo kết quả
nghiên cứu và phát triển KH&CN; Tư liệu và số liệu điều tra cơ bản; Báo cáo
các đoàn tham quan, khảo sát; Tài liệu hội nghị, hội thảo về KH&CN, các
hình thức lưu trữ qua phim, nhạc, truyền khẩu
- Nguồn tin KH&CN được nhập từ nước ngoài:

15
Nguồn tin KH&CN được nhập từ nước ngoài theo các hình thức khác
nhau như mua (chủ yếu bằng ngân sách Nhà nước), trao đổi, biếu tặng
Đối với kế hoạch mua nguồn tin nước ngoài, việc phát triển nguồn tin
cần được thực hiện theo một số nguyên tắc cơ bản là:
+ Xác định rõ nguồn tài liệu nào đáp ứng đúng nhu cầu trong nước;
+ Kết hợp chặt chẽ kế hoạch bổ sung giữa các cơ quan trong toàn hệ
thống;
+ Kết hợp chặt chẽ giữa công tác bổ sung với công tác hợp tác quốc tế
về thông tin KH&CN, cùng với khả năng khai thác trên mạng thông tin;
+ Chú trọng tới yêu cầu về tính có hệ thống, tính liên tục của nguồn bổ
sung;
+ Chú trọng phát triển nguồn tin số hóa để nâng cao khả năng khai thác
chung, tiết kiệm chi phí luân chuyển, bảo quản và lưu trữ.
Các nguồn thông tin quốc gia phải được thu thập, xử lý và lưu trữ dưới
dạng các CSDL để có thể đưa ra phục vụ một cách nhanh nhất. Việc xây dựng
hạ tầng cơ sở thông tin phải coi là điểm đột phá trong hoạt động thông tin
KH&CN để phục vụ phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế-xã hội của đất
nước. Các cơ quan thông tin KH&CN cần được trang bị các thiết bị mạnh để
có thể kết nối với các mạng khác trong các ngành kinh tế của đất nước và truy
cập được tới các nguồn tin trên Internet. Nhà nước nghiên cứu ban hành các
chính sách bưu cước đối với các loại ấn phẩm và giảm cước viễn thông truy

cập vào các cơ sở dữ liệu quốc gia và truy cập vào Intemet không vì mục đích
lợi nhuận. Đẩy mạnh việc chia sẻ thông tin trong toàn hệ thống. Cần có các
quy định và thỏa thuận về việc cho mượn tài liệu giữa các thư viện trong toàn
hệ thống.
d) Các hình thức mang thông tin:
Các hình thức mang thông tin cơ bản bao gồm:
- Tài liệu văn bản: đó là các sách, bài tạp chí, tài liệu hội nghị, hội thảo
khoa học, các bản mô tả thiêt bị, công nghệ (catalô sản phẩm), đặc biệt là các

16
sách phổ biến kỹ thuật mới, các cẩm nang, tra cứu, tài liệu hướng dẫn, có
thể được đọc trực tiếp trên máy tính hoặc in, sao ra giấy để đọc lại khi có yêu
cầu.
- Tài liệu nghe nhìn, tài liệu đa phương tiện (multimedia): Các phim
KH&CN giới thiệu và phổ biến các kỹ thuật tiến bộ, kỹ thuật nuôi trồng, chế
biến, chăm sóc, bảo quản nông lâm, thủy sản. Các tài liệu đồ họa, âm thanh,
tiếng nói nhạc có thể được xem trực tiếp tại Trung tâm thông tin KHCN
của xã hoặc mượn về xem tại nhà, thôn bản cụ thể trên các phương tiện điện
tử gia dụng (TV, đầu đọc VCD/DVD, ).
- Tài liệu điện tử trực tuyến: việc kết nối Internet cho phép truy cập và
khai thác các nguồn tin điện tử trực tuyến trên mạng Internet, nhất là các tin
tức thời sự trong nước và thế giới, các thông tin về giá cả, thị trường hữu
quan, tin tức tuyển sinh của con em trong xã. Đặc biệt Bản tin điện tử Nông
nghiệp nông thôn đổi mới trên mạng VISTA và các bản tin về giá cả nông sản
trên mạng Agroviet rất thiết thực với bà con.
- Tài liệu "sống": đó là thông tin về các chuyên gia, các tổ chức tư vấn,
chuyển giao công nghệ. Người dân có thể tra cứu trong CSDL chuyên gia để
biết và liên hệ trực tiếp với các nhà khoa học, các chuyên gia (nguồn tài liệu
"sống") để được giải đáp thắc mắc, được tư vấn về những vấn đề chuyển giao
công nghệ hoặc áp dụng kỹ thuật mới.

e) Thông tin Khoa học và Công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn:
Thông tin khoa học và công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn được
hiểu là các thông tin về các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, tin tức, tri thức khoa học
và công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp được tạo lập, quản lý và sử dụng
nhằm mục đích cung cấp cho người dùng tin ở nông thôn bao gồm người trực
tiếp sản xuất nông nghiệp, người quản lý nông nghiệp nông thôn, và các bên
hữu quan.
Thông tin KH&CN vừa là nguồn lực của phát triển, vừa là của cải và
tài sản của xã hội. Bước sang thời kỳ hậu công nghiệp, từ những năm 70 của

17
thế kỷ XX, hoạt động thông tin vừa là lĩnh vực hoạt động khoa học, vừa là bộ
phận của ngành kinh tế dịch vụ. Như vậy, sản phẩm và dịch vụ của ngành
thông tin là một dạng hàng hóa đặc biệt với đầy đủ các tiêu thức về giá trị và
giá trị sử dụng.
Hoạt động thông tin mang tính xã hội sâu sắc và cần tích cực đóng góp
vào quá trình cải biến xã hội. Trong cuộc "Cách mạng thông tin", con người
bao giờ cũng là nhân tố quan trọng nhất. Thông tin phải trở thành một bộ
phận của ý thức xã hội, là yếu tố tổ chức để tập hợp các lực lượng trong xã
hội mà trong đó người lãnh đạo, cán bộ KH&CN, các nhà quản lý kinh tế phải
là lực lượng nòng cốt trong việc sản xuất ra thông tin, khai thác và sử dụng
thông tin trong hoạt động thực tiễn. Sự phát triển của khoa học, công nghệ và
kinh tế của nước ta cần phải gắn liền với sự phát triển của các nước trên thế
giới, đặc biệt là các nước trong khu vực. Việc tổ chức kiểm soát các nguồn tin
trong nước, nắm bắt các thông tin nước ngoài phù hợp, đẩy nhanh quá trình
làm giàu vốn tài nguyên thông tin đất nước, khai thác tốt và có lựa chọn các
sản phẩm thông tin bằng nhiều phương thức và kênh khác nhau là một nhiệm
vụ phức tạp đối với mọi quốc gia.
Trong chính sách kinh tế - xã hội cần dành vị trí xứng đáng cho vấn đề
thông tin KH&CN. Giải quyết vấn đề thông tin phải được coi là một trong

những mục tiêu chiến lược của Nhà nước. Nói một cách khác là phải xây
dựng một chính sách về thông tin tư liệu KH&CN, chính sách đó phải là một
bộ phận hợp thành của chính sách kinh tế - xã hội.
1.1.2. Khái niệm về hoạt động thông tin KH&CN:
“Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ" là hoạt động nghiệp vụ
về tìm kiếm, thu thập, xử lý, lưu trữ, phổ biến thông tin khoa học và công
nghệ; các hoạt động khác có liên quan trực tiếp và phục vụ cho các hoạt động
nghiệp vụ thông tin khoa học và công nghệ
1
.
Trong thực tiễn của thế giới có một số mô hình khác nhau về tổ chức



1
Nghị định 159/2004/NĐ-CP Về hoạt động thông tin khoa học và công nghệ

18
hoạt động thông tin KH&CN phụ thuộc vào tính chất sở hữu và vai trò điều
chỉnh của nhà nước đối với các cơ quan thông tin KH&CN phụ thuộc vào tính
chất sở hữu và vai trò điều chỉnh của nhà nước đối với các cơ quan thông tin
KH&CN.
Nói chung, đối với các nước đang phát triển hoặc những nước có nền
kinh tế thị trường chưa được phát triển, hoạt động thông tin KH&CN thường
nằm dưới sự kiểm soát toàn diện của nhà nước và được định hướng tới việc
phục vụ cho những nhu cầu thông tin trong khu vực quản lý nhà nước, đảm
bảo an ninh và nâng cao dân trí.
Xét về mặt sở hữu, có 3 loại hình tổ chức sau đây đối với các cơ quan
thông tin KH&CN:
- Các cơ quan thông tin nhà nước ;

- Các cơ quan thông tin tập thể (chính xác hơn là cơ quan thông tin
công cộng hoặc phi thương mại);
- Các cơ quan thông tin tư nhân.
Tương quan và cơ cấu tổ chức giữa các loại hình tổ chức thông tin trên
đây rất khác nhau theo từng nước và theo từng lĩnh vực hoạt động. Các cơ
quan thông tin thuộc sở hữu nhà nước có thể tồn tại hai loại chính sau đây:
- Cơ quan thông tin được nhà nước tài trợ toàn phần hoặc một phần bao
gồm:
Những cơ quan thông tin nằm trong hệ thống các cơ quan và chính
quyền quản lý nhà nước, những thư viện công cộng quốc gia mà không coi và
không thực hiện các dịch vụ thông tin có thu phí như một hoạt động kinh tế
riêng biệt (ví dụ Thư viện quốc hội của Hoa Kỳ, các Thư viện quốc gia ở các
nước, các Trung tâm phân tích thông tin trong các cơ quan Chính phủ);
Những cơ quan thông tin có thực hiện một phần những dịch vụ thông
tin có thu như một hoạt động kinh tế độc lập (ví dụ, ở nước Nga phần lớn các
cơ quan thông tin toàn Liên bang như: Viện Thông tin KH&KT toàn Nga
(VINITI), Trung tâm thông tin KH&KT toàn Nga (VNTIX), Thư viện KHKT

19
công cộng (GPNTP) ở Hoa Kỳ, như: Cơ quan thông tin kỹ thuật quốc gia -
NTIS, Thư viện Y học quốc gia NLM, ;
- Những cơ quan thông tin mà hoạt động thường xuyên của chúng
không được nhà nước tài trợ về ngân sách:
Hoạt động của các cơ quan này được thực hiện trên cơ sở tự trang trải
và tự cấp vốn, nhà nước chỉ đầu tư phần hạ tầng cơ sở ban đầu như: Trụ sở,
phương tiện làm việc, trang thiết bị, lương cơ bản Các cơ quan thông tin này
thường thuộc sở hữu tập thể được tổ chức rất đa dạng chúng thường là những
cơ cấu tổ chức trong các hiệp hội KH&CN, các hiệp hội nghề nghiệp, các
nghiệp đoàn những tổ chức loại này thuộc nhóm các cơ quan phi chính phủ .
Những cơ quan thông tin này có thể bao gồm các thể loại sau đây:

- Cơ quan thông tin được các tổ chức sinh ra chúng tài trợ toàn phần
hoặc một phần:
Những loại cơ quan thông tin này có thể thực hiện hoặc không thực
hiện các hoạt động kinh tế đối với các loại sản phẩm và dịch vụ thông tin của
mình;
- Cơ quan thông tin không được tài trợ bởi các tổ chức sinh ra chúng:
Đối với loại cơ quan này, ngoài tài sản ban đầu về trụ sở được tổ chức
cấp cho, chúng phải thực hiện hoạt động kinh tế đối với các dịch vụ và sản
phẩm thông tin trên cơ sở tự hoàn vốn và tự trang trải về kinh phí. Ví dụ về
loại cơ quan này là, cơ quan tóm tắt hóa học Hoa Kỳ (CAS), INSPEC, Trung
tâm Thông tin Khoa học và Kỹ thuật Quốc tế ở Moskva (MXNTI).
- Các cơ quan thông tin tư nhân:
Đây là những cơ quan thông tin được thành lập tại các hãng hoặc
những đơn vị cổ phần trên cơ sở tự huy động vốn đầu tư và tự trang trải về chi
phí.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, trong khi phát triển hoạt động
thông tin, không thể chỉ thuần tuý dựa trên những nguyên tắc của thị trường.
Điều này được giải thích ở chỗ, cho dù đến nay, nhiều nhà nghiên cứu khẳng

20
định tồn tại một thị trường thông tin nhưng nhu cầu về thông tin và khả năng
thanh toán của thị trường này không giản đơn như các thị trường vật thể vật
chất khác. Từ đây không thể nóng vội chuyển toàn bộ hoạt động thông tin
sang ngay tổ chức theo cơ chế thị trường. Điều đó có nghĩa là, nhà nước vẫn
sẽ giữ một vai trò quan trọng trong việc cấp vốn cho hoạt động thông tin.
Tuy nhiên, kinh nghiệm của nhiều nước cũng cho thấy, về một phương
diện khác, ngân sách của nhà nước dành cho hoạt động thông tin ngày càng
giảm đi theo tỷ lệ tương đối của chúng. Điều này có nghĩa rằng, bên cạnh
nguồn tài chính của nhà nước dành cho hoạt động thông tin cần phải tạo điều
kiện để đa dạng hóa nguồn vốn cho chúng. Từ đây đòi hỏi phải thay đổi cơ

chế mệnh lệnh cứng nhắc của nhà nước trong việc quản lý hoạt động thông tin
sang một chính sách thích ứng mềm mại hơn.
Nhiệm vụ của quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin trong môi
trường chuyển sang mô hình tổ chức hướng tới thị trường thể hiện ở những
nội dung sau đây:
- Bảo toàn và phát triển tính hợp lý và cân đối trong việc xây dựng cơ
sở hạ tầng thông tin quốc gia, đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế hướng
tới thị trường trong khi ngân sách của nhà nước dành cho hoạt động thông tin
ngày càng bị giảm sút, còn nguồn lực ngoài nhà nước được huy động cho hoạt
động này mới được bắt đầu và thực sự chưa đáng kể;
- Tạo lập những điều kiện về kinh tế và pháp lý để huy động được thêm
các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước dành cho hoạt động thông tin, từng
bước thay thế việc đầu tư cho các sản phẩm và dịch vụ thông tin bằng ngân
sách sang việc đầu tư từ các nguồn lực ngoài ngân sách, trước hết đối với các
lĩnh vực thông tin phục vụ cho các hoạt động kinh tế, đổi mới công nghệ, đầu
tư ;
- Tổ chức lại cơ cấu hạ tầng thông tin bằng cách đưa vào hệ thống
thông tin quốc gia những cơ cấu và thành phần thông tin ngoài nhà nước và
có chính sách để phát triển và phát huy các thành phần này trong chiến lược

21
phát triển thông tin nói chung;
- Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức và chức năng các cơ quan thông tin
nhà nước, thực hiện việc quản lý hoạt động chung một cách có hiệu quả.
Việc chuyển hoạt động thông tin KH&CN sang mô hình hướng tới thị
trường (chủ yếu từ ngân sách nhà nước chuyển sang ngân sách của các thành
phần ngoài nhà nước) đòi hỏi phải thực hiện theo từng bước mà trong đó mỗi
một bước đi cần phải xác định những lĩnh vực ưu tiên dựa trên những yêu cầu
sau đây:
- Đảm bảo giải quyết nhiệm vụ thông tin cho các nhiệm vụ của nhà

nước;
- Giải quyết những nhiệm vụ xã hội mà nhà nước phải có trách nhiệm
không thể chuyển sang cho các đơn vị ngoài nhà nước thực hiện;
- Đảm bảo sự hài hoà và phát triển cân đối toàn bộ hoạt động thông tin
như một cấu trúc chỉnh thể.
Chính sách của nhà nước trong lĩnh vực thông tin là cần thiết đối với
mọi quốc gia. Ứng với mỗi giai đoạn phát triển hoạt động thông tin cần có
những cơ chế điều chỉnh thích hợp, từ việc phát triển chủ yếu dựa vào ngân
sách nhà nước chuyển sang sự phát triển hỗn hợp trong đó bao gồm các thành
phần của nhà nước và ngoài nhà nước, cuối cùng tiến tới là nhiệm vụ của các
tổ chức và thiết chế xã hội. Những phương pháp điều hành hoạt động thông
tin trong môi trường như vậy dựa trên nguyên tắc sử dụng hợp lý nhất những
nguồn lực được huy động từ ngân sách nhà nước và thu hút đầu tư từ các
nguồn lực ngoài ngân sách với nhưững chính sách khuyến khích và ưu đãi cần
thiết.
Cần phải lưu ý rằng, xét về phương diện hiệu quả đầu tư hoạt động
thông tin không phải là lĩnh vực có lợi nhuận cao. Do vậy, chính sách của nhà
nước cần phải được thông thoáng, có sức hấp dẫn để giúp cho các thành phần
trong xã hội đầu tư vào lĩnh vực thông tin có thể tự trang trải kinh phí được.
Hoạt động thông tin trong các cơ quan nhà nước nhằm hướng tới giải

22
quyết các nhiệm vụ của cơ quan chính quyền và quản lý nhà nước mà trước
hết nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện:
- Công việc của bản thân chính các cơ quan chính quyền và quản lý của
nhà nước;
- Công việc của của các tổ chức nhà nước khác;
- Phát triển hoạt động KH&CN và phát triển các hoạt động kinh tế theo
những định hướng ưu tiên của nhà nước;
- Truy nhập rộng rãi tới thông tin đối với mọi người dân như một

phương thức để giải quyết thực hiện các nhiệm vụ xã hội.
1.1.3. Khái niệm về mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông
nghiệp nông thôn:
a) Khái niệm chung:
Mạng lưới thông tin là một tập hợp các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực thông tin bao gồm nhiều hình thức khác nhau, liên kết với nhau và cùng
chung một mục tiêu, một định hướng cho một đối tượng phục vụ. Như vậy
chúng ta có thể hiểu rằng mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp
nông thôn cũng sẽ là một tập hợp các tổ chức, gồm nhiều hình thức khác nhau
nhưng đều đạt mục tiêu là cung cấp được thông tin KH&CN đến tay những
người cần thông tin ở nông thôn với điều kiện cơ sở hạ tầng hiện có của họ.
Chúng ta đã biết, để cung cấp thông tin từ xưa đến nay có rất nhiều
hình thức đã được áp dụng như: ra hiệu, nói, vẽ, viết … và các bài viết trên
giấy, sách báo… đã từng là một hình thức phổ biến thông tin được sử dụng
rộng rãi, thông dụng trong suốt một thời gian dài, cho đến khi có máy tính ra
đời và đặc biệt là khi có sự ra đời và phổ biến của hệ thống internet thì việc
phổ biến thông tin đã chuyển sang một hình thức mới, đó là cung cấp và khai
thác thông tin thông qua máy tính kết nối với hệ thống internet. Hình thức này
đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và trở thành một nhu cầu không thể thiếu
đối với một xã hội phát triển bởi nhiều ưu điểm vượt trội như: nhanh chóng,
tiện dụng, chi phí thấp, tập hợp được nguồn tin phong phú của cả xã hội.

23
Hiện nay cùng với sự phát triển chung của xã hội, nông nghiệp nông
thôn Việt nam cũng có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên cũng còn có
nhiều khu vực do các điều kiện về tự nhiên không ưu đãi nên còn kém phát
triển, lạc hậu. Tới nay việc cung cấp thông tin cho khu vực nông nghiệp nông
thôn chủ yếu thông qua mấy hình thức như sau: Tivi, đài, báo, sách và hệ
thống Internet Trong đó các hình thức như tivi, đài, sách, báo vẫn đang rất
phổ biến và giúp ích rất nhiều cho các hoạt động về văn hóa, xã hội và cả các

hoạt động sản xuất, khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên với nhu cầu phát triển hiện
nay, việc cung cấp thông tin thông qua các hình thức truyền thống đã tỏ ra
kém đầy đủ, không theo kịp sự phát triển của khoa học, tính lưu trữ và phổ
biến kém… nên việc áp dụng công nghệ thông tin trong việc phổ biến thông
tin và đặc biệt là thông tin KH&CN là một nhu cầu cấp bách.
Internet đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của nông
nghiệp nông thôn, giúp nông dân có thể học hỏi cách làm ăn, tìm nơi tiêu thụ
sản phẩm từ những thông tin trên mạng để nâng cao giá trị cuộc sống. Ðưa
thông tin nông nghiệp nói chung và những thông tin khác giúp nông dân cải
thiện cuộc sống dựa trên nhu cầu của họ cũng giúp nông dân làm giàu lên từ
nông nghiệp. Qua những thông tin trên trang Web, người làm nông nghiệp có
cơ hội tiếp cận với nhiều tài liệu, ấn phẩm tham khảo trên các lĩnh vực khoa
học, kỹ thuật. Nhờ internet mà nhiều người nông dân đã giàu lên từ những mô
hình sản xuất mà họ học từ trên mạng, có cái nhìn nhạy bén hơn và mạnh dạn
hơn trong việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi tại địa phương,
nắm bắt được những kỹ thuật mới, giá cả thị trường, các mô hình sản xuất
giỏi đạt hiệu quả cao góp phần xóa đói, giảm nghèo ở địa phương. Theo Ngân
hàng thế giới (WB), ICT là một thành phần quan trọng trong việc loại trừ
nghèo đói trên thế giới, đặc biệt với hơn 75% dân số ở vùng nông nghiệp
nông thôn, trong đó 85% trực tiếp và gián tiếp trong sản xuất nông nghiệp; và
nhấn mạnh rằng các ứng dụng ICT trong công cuộc giảm nghèo phải thể hiện
được vai trò cần thiết trong nông nghiệp và các lĩnh vực liên quan như an ninh

24
lương thực và đời sống của người nông dân. ICT sẽ giúp người nghèo nói
chung và nông dân nghèo nói riêng rút ngắn "khoảng cách số", tạo khả năng
tiếp cận và chia sẻ "kiến thức, thông tin" về lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi và các vấn đề khác của phát triển
nông nghiệp nông thôn như giáo dục, đào tạo, dịch vụ và thương mại điện
tử

Trong hệ thống thông tin KH&CN ở nước ta, các tổ chức thông tin
KH&CN địa phương, đặc biệt là khu vực nông nghiệp nông thôn có một vị trí
đặc biệt bởi lẽ, các đơn vị này nằm trải khắp các địa bàn trong cả nước. Địa
phương là nơi có nhiều khó khăn, là nơi thiếu thông tin nhất. Người dùng tin
ở địa phương có nhiều yêu cầu tin rất đa dạng. Địa phương cũng chính là nơi
hình thành nhiều nguồn tin KH&CN nội sinh, phản ánh sát thực cuộc sống ở
cơ sở cũng như kết quả ứng dụng tiến bộ KH&CN về hầu hết các lĩnh vực. Từ
địa phương, chúng ta có thể thu thập tài liệu và tổ chức dòng tin từ dưới lên.
Do đó, địa phương chính là nơi rất cần được tăng cường công tác thông tin
KH&CN một cách toàn diện, bài bản.
b) Khái niệm về mạng lưới thông tin đa chiều:
Trong hệ thống thông tin nói chung, một cách tự nhiên ngay từ khi xuất
hiện: việc xây dựng, phát triển và tổ chức khai thác các ứng dụng, thông tin
luôn được triển khai theo hướng 1chiều, tức là việc xây dựng, phát triển cập
nhật, tổ chức khai thác chỉ do phía nhà quản lý cung cấp dịch vụ, chứ chưa
có sự tương tác, phản hồi và phát triển từ nhiều phía. Điều này một phần là do
nhận thức hạn chế, một phần là do nhu cầu cần đáp ứng chưa cao, khai thác
chưa hiệu quả… còn một lý do nữa là do nền tảng cơ sở vật chất ( phần cứng)
lúc đó chưa đáp ứng được yêu cầu thông tin.
Tuy nhiên, đến nay do sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật
và công nghệ, sự đòi hỏi phát triển của nhu cầu xã hội, đã nhiều năm nay, việc
xuất hiện ngày càng nhiều các mạng xã hội, mạng chia sẻ, lưu trữ thông tin cá
nhân … đã trở thành phổ biến thì việc hệ thống thông tin 1 chiều đã trở nên

25
lạc hậu, không đáp ứng với nhu cầu phát triển và thay vào đó là hệ thống
thông tin mở, kết nối đa chiều đang là đòi hỏi không thể thiếu.
Vậy thế nào là hệ thống thông tin đa chiều trong cung cấp, khai thác
thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn? Một cách chung nhất
chúng ta có thể hiểu: nó bao gồm một hệ thống mạng lưới kết nối các máy

tính trên diện rộng, dựa trên nền tảng công nghệ cao, giúp cho việc kết nối,
truy cập, khai thác, cập nhật … được thực hiện dễ dàng theo nhiều chiều, từ
trên xuống, từ dưới lên và chia sẻ ngang hàng… . Đi cùng với nó là hệ thống
phần mềm cho phép các thành viên tham gia hệ thống có thể truy cập từ bất
kỳ máy tính nào tới kết nối với hệ thống thông qua một tài khoản cá nhân để
xác định quyền truy cập. Quyền truy cập này sẽ quy định cụ thể phạm vi, mức
độ truy cập, khai thác cũng như khả năng có thể cập nhật, chỉnh sửa, thay đổi
thông tin. Với hệ thống này, việc khai thác, chia sẻ thông tin sẽ mang tính
cộng đồng, giúp cho thông tin luôn cập nhật, tận dụng được toàn bộ nguồn lực
của xã hội, không phải mất công cho nhiều nơi cùng cập nhật một nguồn tin,
đồng thời cho phép mọi thành viên có thể trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm
quý báu của mình cũng như cần sự giải đáp, thảo luận của cộng đồng tham gia
về vấn đề của mình. Trong mô hình này, cơ quan quản lý sẽ có trách nhiệm
quản lý việc vận hành ổn định của hệ thống, cấp phép cho các thành viên, cập
nhật, quy định phổ biến các thông tin chính thống, quản lý các nội dung được
hệ thống cập nhật đảm bảo tuân thủ pháp luật, cấp xác nhận cho các thông tin
chính xác, quản lý bản quyền cho các nguồn tin cần kinh doanh…
1.2. Vai trò của thông tin KH&CN đối với nông nghiệp nông thôn:
Không chỉ trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, phát triển
… vai trò của thông tin KH&CN mới được thừa nhận, mà vấn đề thông tin
KH&CN cho nông nghiệp nông thôn cũng không nằm ngoài vấn đề này. Tuy
nhiên, do đặc thù về trình độ phát triển của Việt Nam cũng như hạn chế trong
nhận thức nên vấn đề thông tin KH&CN cho nông nghiệp nông thôn đến nay
hầu như chưa được quan tâm một cách thích đáng. Không quá lời khi khẳng

×