Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Tác động của chính sách khoa học và công nghệ tới bảo hộ sáng chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 112 trang )

1

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 6
1.2. Ý nghĩa lý luận 7
1.3. Ý nghĩa thực tiễn 7
2. Lịch sử nghiên cứu 7
3. Mục tiêu nghiên cứu 9
4. Mẫu khảo sát 9
5. Phạm vi nghiên cứu 10
5.1. Phạm vi thời gian 10
5.2. Phạm vi không gian 10
5.3. Phạm vi nội dung 10
6. Vấn đề nghiên cứu 10
7. Giả thuyết nghiên cứu 10
8. Luận cứ chứng minh luận điểm 11
8.1. Luận cứ lý thuyết 11
8.2. Luận cứ thực tiễn 11
9. Phương pháp nghiên cứu 11
10. Kết cấu luận văn 12
PHẦN NỘI DUNG 13
CHƯƠNG 1. 13
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 13
1. 1. Tổng quan về sáng chế 13
1.1.1. Khái niệm sáng chế 13
1.1.2. Mối quan hệ giữa sáng tạo, sáng chế và phát triển công nghệ 16
1. 2. Tổng quan về bảo hộ sáng chế 17
1.2.1. Khái niệm bảo hộ sáng chế 17
1.2.2. Xác lập quyền đối với sáng chế 19


1.2.3. Khai thác thương mại đối với sáng chế 21
1.2.4. Thực thi quyền đối với sáng chế 21
1.3. Tổng quan về chính sách, chính sách Khoa học và Công nghệ của Việt Nam 23
1.3.1. Khái niệm chính sách 23
1.3.2. Chính sách Khoa học và Công nghệ 24
1.3.3. Mối quan hệ giữa chính sách Khoa học và Công nghệ và bảo hộ sáng chế26
1.4. Tổng quan về phân tích tác động của chính sách 28
1.4.1. Tác động của chính sách 28
1.4.2. Phân tích chính sách 29
1.4.3. Phân tích tác động của chính sách 30
TÓM TẮT CHƯƠNG 1 31
CHƯƠNG 2. 32
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 32
2

CỦA VIỆT NAM TỚI BẢO HỘ SÁNG CHẾ 32
2.1. Tổng quan về chính sách Khoa học và Công nghệ của Việt Nam có tác động tới
bảo hộ sáng chế 32
2.1.1. Giai đoạn trước năm 2005 32
2.1.1. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 35
2.2. Tổng quan về hoạt động bảo hộ sáng chế ở Việt Nam 39
2.2.1. Giai đoạn trước năm 2005 39
2.2.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay 40
2.3. Tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ của Việt Nam tới bảo hộ sáng
chế 48
2.3.1. Tác động tới hoạt động sáng tạo 48
2.3.2. Tác động tới hoạt động xác lập quyền đối với sáng chế 67
2.3.3. Tác động tới hoạt động khai thác thương mại đối với sáng chế 74
2.3.4. Tác động tới hoạt động thực thi quyền đối với sáng chế 81
TÓM TẮT CHƯƠNG 2 84

CHƯƠNG 3. 87
TỔNG KẾT VÀ KHUYẾN NGHỊ 87
3.1. Tổng kết 87
3.1.1. Tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ tới hoạt động sáng tạo . 87
3.1.2. Tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ tới hoạt động xác lập
quyền đối với sáng chế 88
3.1.3. Tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ tới hoạt động khai thác
thương mại đối với sáng chế 89
3.1.4. Tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ tới hoạt động thực thi
quyền đối với sáng chế 90
3.2. Một số khuyến nghị 91
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho cộng đồng về sở hữu trí
tuệ 91
3.2.2. Phát triển chính sách sử dụng thông tin sáng chế để sáng tạo và khai thác
sáng chế 91
3.2.3. Đào tạo nhân lực về sáng chế và nâng cao năng lực các thẩm định viên 92
3.2.4. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ các nhà sáng chế 94
3.2.5. Ban hành chính sách quy định việc xác định quyền của tác giả và quyền của
chủ sở hữu kết quả nghiên cứu đối với sáng chế được tạo ra từ ngân sách nhà
nước 95
3.2.6. Ban hành quy chế về tổ chức, hoạt động của tổ chức tư vấn sở hữu trí tuệ
tại trường đại học 96
3.2.7. Tăng cường các chính sách cụ thể nhằm phát triển thị trường Khoa học và
Công nghệ 97
TÓM TẮT CHƯƠNG 3 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
DANH MỤC VĂN BẢN PHÁP LUẬT THAM KHẢO 102
PHỤ LỤC 106
3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
Nghĩa của từ viết tắt
GPHI
Giải pháp hữu ích
KDCN
Kiểu dáng công nghiệp
KH&CN
Khoa học và Công nghệ
NCKH
Nghiên cứu khoa học
NH
Nhãn hiệu
NSNN
Ngân sách nhà nước
R&D
Nghiên cứu và triển khai
SC
Sáng chế
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ
4

MỤC LỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng, Biểu đồ

Trang
Bảng 2.1: Đơn đăng ký nhãn hiệu, KDCN, sáng chế, GPHI năm 2000, 2005
và 2010
40
Bảng 2.2: Văn bằng cấp cho nhãn hiệu, KDCN, sáng chế, GPHI
qua các năm 2000, 2005 và 2010
41
Bảng 2.3: Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng
45
Bảng 2.4: Số lượng sáng chế, GPHI được cấp giấy chứng nhận chuyển giao
quyền sử dụng (2005-2010)
46
Bảng 2.5: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu
46
Bảng 2.6: Khiếu nại về việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp
47
Bảng 2.7: Khiếu nại về việc cấp văn bằng bảo hộ
48
Bảng 2.8: Số lượng đơn yêu cầu thẩm định tại Viện Sở hữu trí tuệ
48
Bảng 2.9: Phân bố sáng chế theo bảng phân loại sáng chế quốc tế
của tác giả Việt Nam từ 01.01.2000 đến 19.04.2011
50
Bảng 2.10: Số lượng đơn yêu cầu thẩm định tại Viện Sở hữu trí tuệ
83
Biểu đồ 2.1: Tỉ lệ nộp đơn đăng ký nhãn hiệu, KDCN, SC, GPHI
qua các năm 2000, 2005, 2010
40
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ văn bằng bảo hộ Nhãn hiệu, KDCN, SC, GPHI
qua các năm 2000, 2005, 2010

41
Biểu đồ 2.3: Số lượng đơn đăng ký sáng chế từ năm 1981 tới 2010
42
Biểu đồ 2.4: Số lượng Bằng sáng chế từ năm 1981 tới 2010
43
Biểu đồ 2.5: Số lượng đơn đăng ký giải pháp hữu ích từ năm 1990 tới 2010
44
Biểu đồ 2.6: Số lượng Bằng giải pháp hữu ích từ năm 1990 tới 2010
44
Biểu đồ 2.7: Số khiếu nại việc vi phạm quyền đối với SC&GPHI
47
Biểu đồ 2.8: Số khiếu nại việc cấp văn bằng bảo hộ SC&GPHI
48
Biểu đồ 2.9: Số lượng sáng chế được tạo ra phân theo chủ thể
52
Biểu đồ 2.10: Số lượng bằng độc quyền sáng chế được cấp phân theo chủ
52
5

thể
Biểu đồ 2.11: Số lượng GPHI được tạo ra phân theo chủ thể
53
Biểu đồ 2.12: Số lượng bằng độc quyền GPHI được cấp phân theo chủ thể
53
Biểu đồ 2.13: Số khiếu nại việc vi phạm quyền đối với SC&GPHI
82
Biểu đồ 2.14: Số khiếu nại việc cấp văn bằng bảo hộ SC&GPHI
82
6


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hộ SC là một hoạt động từ lâu đã được các quốc gia quan tâm bởi lẽ SC là
hoạt động mang tính sáng tạo cao và có giá trị thiết thực, tác động trực tiếp tới sự phát
triển của nền kinh tế. Một quốc gia không thể hùng mạnh nếu không có KH&CN phát
triển, nói cách khác nếu không đẩy mạnh hoạt động sáng tạo kỹ thuật. Do đó, bảo hộ
SC trở thành một vấn đề quan tâm đặc biệt của các nhà hoạch định chính sách KH&CN
của một quốc gia.
Cũng như các đối tượng khác của SHTT, việc bảo hộ SC nghĩa là thông qua sự
thừa nhận của pháp luật đối với SC cụ thể mà pháp luật bảo đảm các điều kiện để chủ
thể có thể thực thi các quyền của mình và ngăn chặn, xử lý mọi hành vi sử dụng quyền
nêu trên từ người thứ ba nếu không được phép của chủ thể quyền. Hệ thống bảo hộ độc
quyền SC không chỉ mang lại những lợi ích riêng cho chủ thể, mà còn mang lại cho xã
hội những lợi ích không nhỏ. Song song với nguyên tắc độc quyền, hệ thống bảo hộ SC
còn được xây dựng trên một nguyên tắc quan trọng thứ hai là nguyên tắc bộc lộ SC.
Điều ấy có nghĩa là xã hội không phải mất công sức và thời gian, chi phí cho việc tìm
kiếm lại những công nghệ đã được tìm ra rồi, mà hơn thế, còn dựa trên đó để sáng tạo
ra những công nghệ mới. Cơ chế bảo hộ SC có một ý nghĩa quan trọng đối với việc
khuyến khích hoạt động sáng tạo kỹ thuật. Một chính sách KH&CN tốt là một chính
sách vừa đảm bảo được hoạt động bảo hộ đối với SC, vừa thúc đẩy được kinh tế của
quốc gia phát triển với tiềm lực hiện có, thông qua các hoạt động thương mại hóa đối
với SC được bảo hộ.
Bối cảnh đất nước hiện nay là một quốc gia đang phát triển trong thời kỳ hội
nhập quốc tế sâu rộng. Với vai trò là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), Việt Nam không thể không tuân thủ các nguyên tắc chung của cộng đồng này
về SHTT, trong đó bảo hộ SC là một hoạt động được các quốc gia đặc biệt quan tâm
bởi đó là hoạt động tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới sự phát triển KH&CN nói riêng và
phát triển kinh tế nói chung. Tuy nhiên, là một quốc gia đang phát triển, yêu cầu về
7


phát triển kinh tế - xã hội cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng và bức thiết. Vậy,
Việt Nam lựa chọn chính sách KH&CN như thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa tôn
trọng và đảm bảo thực thi quyền SHTT? Các chính sách KH&CN hiện nay tác động
như thế nào tới bảo hộ SC của người Việt? Nói như Thủ tưởng Ôn Gia Bảo của Trung
Quốc: “Kinh tế coi SHTT là khả năng cạnh tranh. Nhà khoa học coi SHTT là sức sáng
tạo. Xã hội coi SHTT là sức sống. Cạnh tranh trong thế giới hôm nay và tương lai là
cạnh tranh về quyền SHTT”, thì Việt Nam nên lựa chọn hướng chính sách KH&CN
như thế nào để tác động có hiệu quả tới việc bảo hộ SC, từ đó tăng sức cạnh tranh trong
môi trường cạnh tranh bây giờ? Đây là những lý do khiến tác giả tiến hành đề tài
nghiên cứu này về tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ SC. Nghiên cứu chính
là tiền đề để có thể giúp trả lời những câu hỏi đặt ra cho Việt Nam như trên.
1.2. Ý nghĩa lý luận
- Tổng quan về bảo hộ SC và các chính sách KH&CN của Việt Nam hiện nay
liên quan tới bảo hộ SC;
- Cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa chính sách KH&CN và bảo hộ SC;
- Chỉ ra tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ SC của Việt Nam hiện nay.
1.3. Ý nghĩa thực tiễn
- Phản ánh những ưu điểm và hạn chế từ chính sách KH&CN tới bảo hộ SC của
Việt Nam hiện nay;
- Nâng cao nhận thức về ý nghĩa của việc bảo hộ SC và vai trò của chính sách
KH&CN đối với hoạt động này;
- Đưa ra một số khuyến nghị đối với chính sách KH&CN nhằm nâng cao hiệu
quả bảo hộ SC của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu
Tài sản trí tuệ là một loại tài sản quý của loài người nên từ lâu việc bảo hộ loại
tài sản này đã được các quốc gia quan tâm và thể hiện bằng những chính sách cụ thể.
Tại Việt Nam, đánh dấu mốc lớn trong việc bảo hộ này là sự ra đời của Luật SHTT
Việt Nam vào năm 2005. Các chuyên gia luật cũng như các nhà quản lý, các nhà
nghiên cứu ở Việt Nam đã thường xuyên quan tâm tới việc xem xét hiệu quả bảo hộ

8

các đối tượng SHTT nói chung nhằm nâng cao hiệu quả và hoàn thiện cơ chế bảo hộ.
Tuy nhiên, các nghiên cứu, thảo luận mới chỉ tập trung vào việc đặt vấn đề về một số
khó khăn, vướng mắc trong thực thi quyền, sự chồng chéo giữa các cơ quan Nhà nước
liên quan tới việc thực thi quyền, chứ chưa thực sự đi sâu vào giải quyết vấn đề. Cụ thể
hơn, mới chỉ có một số bài báo của một số tác giả đề cập những bất cập từ cơ chế quản
lý đến hiệu quả thực thi quyền đối với nhãn hiệu – tên thương mại, nhãn hiệu – chỉ dẫn
địa lý, quyền tác giả đối với phần mềm máy tính, quyền tác giả và quyền liên quan
trong môi trường kỹ thuật số và các khó khăn trong xử lý các xâm phạm liên quan.
SC là một đối tượng quan trọng của SHTT. Hiện nay ở Việt Nam mới bàn nhiều
tới việc quy định đối tượng bảo hộ dưới dạng SC. Điển hình có:
+ Bài viết “Quy định mới về đối tượng của SC - lợi bất cập hại” - Nguồn: Tạp
chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử, đăng trên

+ Toạ đàm “Yêu cầu bảo hộ dạng sử dụng” do Cục SHTT phối hợp với Tổ chức
SHTT thế giới (WIPO) (6-7/5/2008).
Bên cạnh đó, thương mại hóa SC cũng là vấn đề được quan tâm. Nổi bật có hội
thảo “Thương mại hóa SC” do Cục SHTT phối hợp với Cơ quan SC châu Âu (EPO)
phối hợp tổ chức (26-27/5/2008).
Thực tế, tác giả chưa cập nhật được bài nghiên cứu đã công bố nào bàn cụ thể
về hiệu quả bảo hộ quyền đối với SC ở Việt Nam và cũng chưa có nghiên cứu cụ thể
nào về việc nâng cao hiệu quả bảo hộ SC thông qua việc phân tích tác động của chính
sách KH&CN.
Bản thân tác giả đã có bài nghiên cứu “Một số bất cập trong giai đoạn thẩm
định đơn SC tại Việt Nam” (5/2008) và một đề tài nghiên cứu “Đánh giá sự tác động
của cơ chế quản lý đến hiệu quả bảo hộ và thực thi quyền đối với SC (Nghiên cứu
trường hợp các SC trong lĩnh vực dược phẩm)” (6/2011). Trong đề tài nghiên cứu này,
tác giả đặt ra vấn đề nghiên cứu là “Chính sách KH&CN và chính sách quản lý dược
phẩm của Việt Nam từ năm 2005 tới nay đã tác động như thế nào tới hiệu quả bảo hộ

và thực thi quyền đối với sáng chế dược phẩm?” và đã chứng minh được giả thuyết
9

nghiên cứu rằng: Các chính sách KH&CN và chính sách quản lý dược phẩm của Việt
Nam từ năm 2005 tới nay đã:
- Tác động chưa thực sự tích cực đối với hoạt động sáng tạo và xác lập quyền đối
với sáng chế: khuyến khích hoạt động nghiên cứu & triển khai nhưng số lượng
sáng chế dược phẩm của người Việt Nam đã đăng ký và được cấp bằng còn hạn
chế;
- Tác động chưa tích cực đối với hoạt động thương mại hóa quyền đối với sáng
chế: chưa có sáng chế dược phẩm nào được chuyển giao quyền sử dụng tại Việt
Nam; và có thể có tác động ngoại biên âm tính là tạo hiểu nhầm cho người tiêu
dùng rằng chính hoạt động bảo hộ sáng chế là nguyên nhân cơ bản đẩy giá thuốc
lên cao;
- Tác động tích cực đối với hoạt động thực thi quyền đối với sáng chế trong thời
điểm hiện tại: chưa có vụ tranh chấp, kiện tụng nào liên quan tới sáng chế dược
phẩm diễn ra từ năm 2005 tới nay.
Do đó, việc chỉ ra tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ SC và đề xuất
các giải pháp đối với chính sách KH&CN nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ SC của Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay là một hướng đi mới của đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ sáng chế của Việt Nam
hiện nay.
4. Mẫu khảo sát
Để khảo sát tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ SC của Việt Nam từ
năm 2005 đến nay, luận văn đã lựa chọn các mẫu khảo sát sau:
- Các phòng chuyên môn của Cục SHTT: Phòng Đăng ký, Phòng Sáng chế,
Phòng pháp chế và chính sách, Phòng thực thi và giải quyết khiếu nại;
- Các cơ quan hỗ trợ: Trung tâm thông tin và Trung tâm Hỗ trợ và Tư vấn của
Cục SHTT;

- Viện SHTT.
10

5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi thời gian
Thời gian nghiên cứu tiến hành đánh giá tác động của chính sách KH&CN tới
bảo hộ SC của Việt Nam từ năm 2005 đến nay.
5.2. Phạm vi không gian
Không gian nghiên cứu: Việt Nam.
5.3. Phạm vi nội dung
Tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ sáng chế của Việt Nam từ năm
2005 đến nay.
6. Vấn đề nghiên cứu
Chính sách KH&CN của Việt Nam từ năm 2005 đến nay tác động như thế nào
tới bảo hộ sáng chế?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Chính sách KH&CN của Việt Nam từ năm 2005 đến nay đã về cơ bản có những
tác động tích cực tới bảo hộ sáng chế:
- Đối với hoạt động sáng tạo: thúc đẩy hoạt động sáng tạo;
- Đối với hoạt động xác lập quyền: tăng số lượng đơn SC, giảm số lượng đơn
SC bị từ chối trong giai đoạn thẩm định hình thức;
- Đối với hoạt động thương mại hóa: bước đầu tạo môi trường pháp lý và thực
tiễn cho thương mại hóa SC, gia tăng số lượng SC được khai thác thương mại;
- Đối với hoạt động thực thi quyền: số lượng các vụ tranh chấp liên quan tới SC
có dấu hiệu giảm từ năm 2006 đến nay.
Tuy nhiên các tác động tích cực này chưa thực sự được phát huy triệt để, do đó
vẫn có những hạn chế của tác động, thậm chí có thể biến thành các tác động ngoại biên
âm tính:
11


- Đối với hoạt động sáng tạo: số lượng sáng tạo chưa tương xứng với tiềm năng
hiện có, có thể biến hoạt động sáng tạo trở thành hoạt động mang tính phong trào hình
thức;
- Đối với hoạt động xác lập quyền: số lượng của người nộp đơn Việt Nam vẫn
còn rất hạn chế; có nhiều vướng mắc trong xác lập quyền đối với các SC được tạo ra từ
nguồn NSNN;
- Đối với hoạt động thương mại hóa: chưa tạo được cơ sở pháp lý rõ ràng và
điều kiện vật chất cần để phát triển hoạt động thương mại hóa đối với SC; nhà nước
không kiểm soát được các hoạt động thương mại hóa đối với SC;
- Đối với hoạt động thực thi quyền: biện pháp hành chính và các quy định xử lý
hành vi xâm phạm quyền đối với SC tỏ ra chưa hiệu quả trong việc thực thi quyền đối
với SC.
8. Luận cứ chứng minh luận điểm
8.1. Luận cứ lý thuyết
- Các lý thuyết về chính sách, phân tích tác động của chính sách, sáng chế, bảo
hộ SC
- Mối quan hệ biện chứng giữa SC và phát triển công nghệ, giữa bảo hộ SC và
chính sách KH&CN.
8.2. Luận cứ thực tiễn
- Các văn bản chính sách KH&CN của Việt Nam liên quan tới bảo hộ SC;
- Số liệu đơn và văn bằng bảo hộ SC, GPHI tại Việt Nam từ năm 2005 đến nay;
- Số liệu về các hoạt động khai thác thương mại đối với SC, GPHI từ năm 2005
đến nay;
- Số liệu về các vụ tranh chấp, kiện tụng liên quan tới SC, GPHI tại Việt Nam từ
năm 2005 đến nay;
9. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả nghiên cứu các văn bản pháp luật và
các nghiên cứu có liên quan tới đề tài.
12


- Phương pháp thống kê: Tác giả thống kê số liệu về hoạt động bảo hộ SC ở
Việt Nam từ năm 2005 đến nay và các số liệu khác làm cơ sở thực tiễn để chứng minh
giả thuyết nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, mô hình hóa: Trong quá trình phân tích để chứng minh
giả thuyết nghiên cứu, tác giả tiến hành các so sánh và mô hình hóa các số liệu thành
các biểu đồ cho thấy rõ hơn xu hướng phát triển cũng như mối quan hệ giữa các đối
tượng được biểu thị qua số liệu.
- Phương pháp chuyên gia:
+ Đối tương phỏng vấn: Tác giả luận văn tiến hành phỏng vấn sâu chuyên gia,
nhà quản lý trong lĩnh vực hoạch định chính sách, sở hữu trí tuệ, nhằm thu thập các
thông tin về tác động của chính sách KH&CN tới bảo hộ sáng chế.
+ Cách phỏng vấn: gửi trước yêu cầu phỏng vấn bằng văn bản, tác giả Luận văn
trực tiếp nghe và trao đổi với người được hỏi. Đảm bảo tính khuyết danh của người trả
lời theo đúng quy định.
10. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
còn có phần nội dung bao gồm các chương sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận của Luận văn
Chương 2. Đánh giá tác động của chính sách Khoa học và Công nghệ của Việt
Nam tới bảo hộ sáng chế
Chương 3. Tổng kết và khuyến nghị


13

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1. 1. Tổng quan về sáng chế

1.1.1. Khái niệm sáng chế
Hầu hết luật SC của các nước trên thế giới không định nghĩa khái niệm SC,
nhưng SC được hiểu chung là một ý tưởng của tác giả SC cho phép giải quyết trên thực
tế một vấn đề cụ thể trong lĩnh vực công nghệ. SC thường liên quan đến sản phẩm (cơ
cấu, chất) và quy trình (phương pháp).
Theo Tổ chức SHTT thế giới: “SC nghĩa là một giải pháp cho một vấn đề cụ
thể trong lĩnh vực công nghệ. SC có thể liên quan tới một sản phẩm hay một quy trình”
[7, tr. 7].
Theo Luật SHTT Việt Nam năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (dưới đây
gọi tắt là Luật SHTT Việt Nam): “SC là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc
quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự
nhiên.” (Khoản 12, Điều 4, Luật SHTT Việt Nam)
Như vậy, qua định nghĩa này, ta thấy đặc trưng của SC để phân biệt với những
dạng sản phẩm sáng tạo trí tuệ khác của con người đó chính là đặc tính kỹ thuật.
“Đặc tính kỹ thuật” được coi là thuộc tính của SC. Hầu như chưa có một định
nghĩa cuối cùng cho khái niệm “đặc tính kỹ thuật”. Theo cách hiểu thông dụng nhất,
một đối tượng được coi là có đặc tính kỹ thuật khi đáp ứng các tiêu chí sau:
i. là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người;
ii. có vận dụng các quy luật tự nhiên và phù hợp với các nguyên lý khoa học;
iii. có sử dụng tài nguyên thiên nhiên hoặc có tác động đến tài nguyên thiên
nhiên;
iv. thỏa mãn một/một số nhu cầu vật chất/tinh thần của con người.
14

Vì các lý do thuần túy quy ước liên quan đến kỹ thuật thể hiện nội dung của SC
khi thiết lập hồ sơ yêu cầu cấp Bằng độc quyền SC cũng như để đối chiếu SC nằm
trong chế độ bảo hộ với các đối tượng khác, người ta phân chia SC thành ba dạng:
1) SC dạng vật thể
2) SC dạng chất thể
3) SC dạng quy trình

SC dạng vật thể
SC dạng vật thể bao gồm: tất cả các loại đồ vật, dụng cụ, máy móc, linh kiện
máy móc, vật dụng hàng ngày, mà óc sáng tạo của con người tạo nên bằng cách biến
đổi, sắp xếp lại, phối hợp các vật thể hoặc chất thể có sẵn trong tự nhiên nhằm giải
quyết một nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra hoặc nhằm đạt được mục đích nhất định nào
đó.
Đặc trưng của SC dạng vật thể là tồn tại trong SC đó mối quan hệ về hình dạng,
vị trí, kích thước, vật liệu giữa các bộ phận/thành phần của vật thể và sự thống nhất của
mối tương quan đó với chức năng kỹ thuật/công dụng của vật thể thông qua phương
thức đạt được chức năng, công dụng đó.
Ví dụ về SC vật thể: để bổ sung cho những
hạn chế của vật dụng cắt, dụng cụ hai lưỡi cắt đã
được ra đời và đó chính là SC tên “cái kéo” được
ra đời:
Hình bên:
1) H1: dao – dụng cụ cắt một lưỡi
2) H2: kéo – dụng cụ cắt hai lưỡi



SC dạng chất thể
SC dạng chất thể bao gồm tất cả các loại sản phẩm dạng vật chất còn lại (tức là
sau khi loại trừ các sản phẩm dạng vật thể nêu trên) do óc sáng tạo của con người tạo
ra: các hóa chất, vật liệu, thuốc chữa bệnh, đồ ăn, thức uống, cũng như SC dạng vật
thể, SC dạng chất thể là kết quả của việc biến đổi, sắp xếp lại, phối hợp, các chất thể
có sẵn trong tự nhiên nhằm một mục đích nhất định nào đó.
15

Đặc trưng của SC dạng chất thể là tồn tại trong SC đó mối tương quan về thành
phần, bản chất hóa học, cấu trúc của các loại vật chất (đơn chất, hợp chất, hỗn hợp

chất) hiện diện trong chất thể đó và sự thống nhất của sự hiện diện, mối tương quan đó
với chức năng/công dụng của chất thể đó.
Ví dụ về SC chất thể: một hợp chất
Paraxetamol có công thức cấu tạo:




SC dạng quy trình
SC dạng quy trình: bản thân loại SC này không phải là một đối tượng vật chất
cụ thể mà là một phương pháp – tức là một tập hợp theo trình tự các thao tác nhất định
- nhằm biến đổi đối tượng/trạng thái đó (tạo ra vật thể hoặc chất thể mới) hoặc nhằm
tạo ra một đối tượng, một trạng thái mới xác định một cách có chủ ý.
Ví dụ về SC dạng quy trình: nhằm tăng khả năng hấp thụ vào cơ thể chất dinh
dưỡng từ ngũ cốc, tác giả SC đã đề xuất phương pháp chế biến mầm ngũ cốc
Tuy nhiên, trong thực tế, cũng có thể thấy có một loại nữa của SC - có thể được
xếp vào loại thứ 4 của SC đó là: SC dạng sử dụng. Bản chất của nó là ở chỗ, khai thác
một vật thể/chất thể hoặc một quy trình kỹ thuật đã có sẵn (đã biết) nhưng với một
công/chức năng hoàn toàn mới lạ.
Thực tiễn tại Việt Nam đang xem xét loại SC này để xét xem có bảo hộ hay
không. Trong hai ngày 6-7/5/2008, tại Hà Nội, Cục SHTT phối hợp với Tổ chức SHTT
thế giới đã tổ chức Toạ đàm “Yêu cầu bảo hộ dạng sử dụng”. Hai chuyên gia của Tổ
chức SHTT thế giới đã tham dự và trình bày các báo cáo chuyên đề tại toạ đàm. Thực
chất, đối tượng này đã được bảo hộ tại Việt Nam từ năm 1982 theo Điều lệ về sáng
kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và SC. Tuy nhiên, vì liên quan nhiều đến
dược phẩm nên khi tính đến lợi ích phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quyền lợi
16

quốc gia (có tính đến việc áp dụng các điều khoản linh hoạt của TRIPS), đối tượng này
đã bị loại bỏ trong Luật SHTT Việt Nam năm 2005.

1.1.2. Mối quan hệ giữa sáng tạo, sáng chế và phát triển công nghệ
Theo cách tiếp cận hệ thống, có thể coi SC là đầu ra của hoạt động sáng tạo
trong lĩnh vực KH&CN, đồng thời là đầu vào của phát triển công nghệ. Như vậy, sự
phát triển của hệ thống công nghệ quốc gia chính là chuỗi tương tác giữa sáng tạo – SC
và phát triển công nghệ. Muốn hệ thống công nghệ quốc gia phát triển, chính phủ quốc
gia đó cần quan tâm, hỗ trợ và đầu tư cho chuỗi tương tác này, nhằm tạo ra một hiệu
quả tổng hợp cao nhất.
Ở đây, chuỗi tương tác này không phải là một đường thẳng đơn điệu mà là một
vòng xoáy với mỗi vòng xoáy sau là sự phát triển nối tiếp của vòng xoáy trước. Ta có
thể thấy chu trình sáng tạo trí tuệ qua hình vẽ sau:

Hoạt động sáng tạo càng được phát triển thì càng tạo ra nhiều SC mới và là điều
kiện cần để phát triển công nghệ. Mặt khác, thông tin SC mô tả chi tiết các giải pháp
công nghệ, là thành quả của các hoạt động sáng tạo và được các cơ quan SHCN quốc
gia và quốc tế công bố rộng rãi. Bản mô tả SC chứa đựng thông tin SC do người nộp
đơn đăng ký SC lập ra và được các cơ quan SHCN xem xét, yêu cầu người nộp đơn
chỉnh sửa lại theo các quy định bắt buộc, trong đó yêu cầu cần trình bày rõ ràng tình
trạng kỹ thuật hiện tại và chỉ ra những điểm mới khác biệt so với các giải pháp kỹ thuật
trước đó và cần nêu rõ yêu cầu bảo hộ. Theo thống kê của Tổ chức SHTT thế giới, số
đơn đăng ký SC nộp hằng năm của thế giới là khoảng một triệu rưỡi. Cho đến nay, ước



Bảo hộ
Khai thác để thu hồi
vốn đầu tư, thu lợi
nhuận để tái đầu tư
cho sáng tạo




Sáng tạo
17

tính có khoảng hơn 60 triệu SC đã được công bố trên toàn thế giới. Tại trung tâm
Thông tin (Cục SHTT Việt Nam) hiện đang lưu trữ khoảng 38 triệu bản mô tả SC. Hệ
thống bảo hộ quyền SHTT trong đó có bảo hộ SC đã làm cho các nhà sáng tạo chấp
nhận nghĩa vụ bộc lộ thông tin công nghệ mới để đổi lại việc họ có được một số độc
quyền khai thác thương mại thành quả đã được sáng tạo ra. Nhờ đó, công chúng được
phép tiếp cận các nguồn thông tin SC này trong phạm vi quốc gia và quốc tế thông qua
hệ thống công bố rộng rãi bằng các phương tiện internet, CD-ROM và Công báo SC,
làm cơ sở cho các nghiên cứu có liên quan. Các cơ quan SC quốc gia và quốc tế có
nghĩa vụ xây dựng cơ sở dữ liệu SC và cung cấp phương tiện truy cập miễn phí phục
vụ các nhu cầu tra cứu thông tin SC. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy,
các nhà nghiên cứu & triển khai công nghệ mới, các công ty hàng đầu trên thế giới đã
khai thác tích cực và sử dụng có hiệu quả nguồn thông tin SC như một công cụ hoạch
định chiến lược nghiên cứu, kinh doanh và xác định tiềm năng của đối tác trên thương
trường. Hiệu quả kinh tế lớn nhất từ hệ thống bảo hộ quyền SHTT là việc công bố
thông tin SC của các đối thủ cạnh tranh chứ không chỉ đơn thuần là các khoản thu có
được từ việc khai thác, sử dụng công nghệ được cấp văn bằng bảo hộ. Với tốc độ phát
triển nhanh chóng của công nghệ, kéo theo một số lượng lớn các SC luôn được cập
nhật vào nguồn thông tin SC là một nguồn tư liệu quý giá để các nhà nghiên cứu tiếp
tục sáng tạo, tạo ra những SC mới, quay trở lại phát triển công nghệ.
1. 2. Tổng quan về bảo hộ sáng chế
1.2.1. Khái niệm bảo hộ sáng chế
Cũng như các đối tượng SHTT khác, việc bảo hộ SC nghĩa là thông qua việc
thừa nhận của pháp luật đối với SC cụ thể mà pháp luật bảo đảm các điều kiện để chủ
thể có thể thực thi các quyền của mình và ngăn chặn, xử lý mọi hành vi sử dụng quyền
nêu trên từ người thứ ba nếu không được phép của chủ thể quyền này.
Việc thừa nhận quyền đối với SC được thực hiện bằng việc cấp một văn bằng

bảo hộ, có tên gọi riêng là Bằng độc quyền SC (bằng độc quyền SC). Để đạt được điều
này, trước hết SC đó phải được người có quyền đăng ký tiến hành các thủ tục đăng ký
với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
18

Văn bằng bảo hộ SC là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ
chức, cá nhân nhằm xác lập quyền SHCN đối với SC.


Phạm vi hiệu lực của văn bằng bảo hộ SC theo pháp luật Việt Nam:
- Phạm vi không gian: trên toàn lãnh thổ Việt Nam
- Phạm vi thời gian: có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết 20 năm kể từ
ngày nộp đơn (đối với Bằng độc quyền SC), có hiệu lực từ ngày cấp và kéo
dài đến hết 10 năm kể từ ngày nộp đơn (đối với Bằng độc quyền GPHI)
Mục đích hàng đầu của hệ thống pháp luật bảo hộ SC chính là thúc đẩy, kích
thích việc tạo ra và ứng dụng công nghệ mới. Nghĩa là thông qua việc bảo đảm các
điều kiện thuận lợi, ưu đãi cho những người tạo ra SC để họ yên tâm khai thác các đối
tượng đó, nhờ đó kích thích hoạt động đầu tư cho việc tạo ra các công nghệ mới. Để
đạt được mục đích đó, pháp luật đảm bảo người được cấp một bằng độc quyền sử
dụng, khai thác SC trong một thời gian nhất định. Trong thời gian đó, bất kỳ người thứ
ba nào khai thác SC mà không được phép của chủ thể bằng độc quyền SC đều bị coi là
xâm phạm độc quyền SC của chủ thể này và bị pháp luật xử lý. Trong thời gian độc
quyền, bất kỳ ai muốn sử dụng SC đều phải xin phép chủ bằng độc quyền SC và khi
được cho phép thường phải tuân thủ theo những điều kiện do chủ bằng độc quyền SC
áp đặt, trong đó có việc phải trả tiền cho việc khai thác SC.
Hệ thống pháp luật bảo hộ độc quyền SC không chỉ mang lại những lợi ích riêng
cho chủ bằng độc quyền SC, mà còn mang lại cho xã hội những lợi ích không nhỏ.
19

Song song với nguyên tắc độc quyền, hệ thống pháp luật bảo hộ độc quyền SC còn

được xây dựng trên một nguyên tắc quan trọng thứ hai là nguyên tắc công khai công
nghệ. Xã hội không phải mất công sức và thời gian, chi phí cho việc tìm kiếm lại
những công nghệ đã được tìm ra rồi (chức năng của thông tin SC). Cơ chế bảo hộ SC
có một ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến khích hoạt động sáng tạo kỹ thuật.
Như vậy, khi nói tới bảo hộ SC, người ta không chỉ ám chỉ tới việc cấp văn bằng
bảo hộ, mà quan trọng đó là việc quyền đối với SC được xác lập, được khai thác
thương mại (thu hồi những chi phí nghiên cứu đã tạo ra SC) và được thực thi quyền sở
hữu đó với SC. Thuật ngữ “bảo hộ SC” ở đây bao gồm tổng thể các hoạt động tương
tác hữu cơ với nhau như sau:
- Hoạt động sáng tạo
- Hoạt động xác lập quyền đối với SC
- Hoạt động khai thác thương mại đối với SC
- Hoạt động thực thi quyền đối với SC
1.2.2. Xác lập quyền đối với sáng chế
Một SC được bảo hộ nghĩa là một SC được Nhà nước thừa nhận là đối tượng sở
hữu của một chủ thế (cá nhân, tổ chức) nhất định. Việc thừa nhận như trên được thực
hiện (đánh dấu) bằng một Bằng độc quyền SC cấp cho chủ thể sở hữu SC đó.
Một SC muốn được cấp văn bằng bảo hộ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo
hộ đối với SC và không thuộc đối tượng bị loại trừ do pháp luật quốc gia quy định. Để
xác định xem SC đó có đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ hay không, chủ sở hữu SC cần
tiến hành các thủ tục đăng ký xác lập quyền đối với SC tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (ở Việt Nam là Cục SHTT).
Đối tượng bảo hộ
Để đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ SC, SC phải thuộc đối tượng được bảo hộ
SC. Đối tượng được bảo hộ SC do luật pháp quy định và thường được định nghĩa bằng
cách loại trừ các đối tượng không được được bảo hộ SC, nguyên tắc chung là việc bảo
hộ SC được dành cho các SC ở mọi lĩnh vực công nghệ.
20

Hiệp định TRIPS (Điều 27.2 và 27.3) đã chỉ rõ rằng các quốc gia thành viên có

thể loại trừ việc bảo hộ SC đối với một số loại SC nhất định, ví dụ những SC mà việc
khai thác thương mại sẽ trái với đạo đức hoặc trật tự xã hội, an ninh xã hội, cụ thể như:
vũ khí hủy diệt, bom nguyên tử,
Luật SHTT quy định các đối tượng sau không được bảo hộ với danh nghĩa SC:
Điều 59. Đối tượng không được bảo hộ với danh nghĩa SC
Các đối tượng sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa SC:
1. Phát minh, lý thuyết khoa học, phương pháp toán học;
2. Sơ đồ, kế hoạch, quy tắc và phương pháp để thực hiện các hoạt động trí óc,
huấn luyện vật nuôi, thực hiện trò chơi, kinh doanh; chương trình máy tính;
3. Cách thức thể hiện thông tin;
4. Giải pháp chỉ mang đặc tính thẩm mỹ;
5. Giống thực vật, giống động vật;
6. Quy trình sản xuất thực vật, động vật chủ yếu mang bản chất sinh học mà
không phải là quy trình vi sinh;
7. Phương pháp phòng ngừa, chẩn đoán và chữa bệnh cho người và động vật.
Tiêu chuẩn bảo hộ
Giống như các tiêu chuẩn bảo hộ của pháp luật về bảo hộ SC trên thế giới, Luật
SHTT Việt Nam Việt Nam, tại Điều 58.1 quy định rõ các điều kiện chung đối với SC
được bảo hộ là:
Điều 58. Điều kiện chung đối với SC được bảo hộ
1. SC được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền SC nếu đáp ứng các điều
kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có trình độ sáng tạo;
c) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
2. SC được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền GPHI nếu không phải là
hiểu biết thông thường và đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Có tính mới;
b) Có khả năng áp dụng công nghiệp.
21


Các điều kiện nêu trên liên quan đến bản chất và nội dung kỹ thuật của giải pháp
kỹ thuật yêu cầu bảo hộ đối với SC trong đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền. Điều 60.
61, 62 của Luật SHTT Việt Nam giải thích cụ thể về từng điều kiện này.
1.2.3. Khai thác thương mại đối với sáng chế
Về cơ bản, có hai cách thức khai thác thương mại đối với SC đã được cấp bằng
độc quyền SC mà chủ văn bằng độc quyền SC có thể thực hiện: Chuyển nhượng quyền
sở hữu (hay gọi theo cách thông dụng là bán SC) hay chuyển giao quyền sử dụng (hay
gọi là chuyển giao quyền sử dụng SC) của mình đối với SC đó cho bên có nhu cầu.
Chuyển nhượng quyền sở hữu đối với SC là việc chủ sở hữu SC chuyển giao
quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác (theo Điều 138, Luật SHTT Việt
Nam).
Chuyển giao quyền sử dụng đối với SC là việc chủ sở hữu SC cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng SC thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình (theo Điều 141, Luật
SHTT Việt Nam).
Ngoài ra, chính chủ sở hữu SC cũng có thể trở thành nhà sản xuất, có thể lập
một nhà máy hoặc ký hợp đồng giao thầu khoán việc sản xuất sản phẩm của mình cho
một phân xưởng nếu có thể (nghĩa là chủ sở hữu SC khai thác thương mại đối với SC
của mình bằng cách trực tiếp đem SC vào sản xuất). Bên cạnh đó, còn có các hình thức
khác khai thác thương mại đối với SC như: chủ sở hữu SC có thể dùng SC làm vốn góp
trong kinh doanh, vật bảo đảm đối với ngân hàng hay các quỹ mạo hiểm,
Như vậy, qua đây thấy rằng hoạt động thương mại quyền đối với SC giúp các
nhà SC, chủ sở hữu bằng độc quyền SC thu lại được chi phí cho quá trình tạo ra SC và
kiếm lợi nhuận.
1.2.4. Thực thi quyền đối với sáng chế
Thực thi quyền của chủ SHTT được hiểu là nhà nước và chủ sở hữu các đối
tượng quyền SHTT dùng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền SHTT, chống lại
mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền SHTT của mình.
Thông qua hoạt động thực thi quyền, quyền SHTT được đảm bảo thực thi, nghĩa
là các lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu văn bằng bảo hộ và các chủ thể có liên quan

22

khác được đảm bảo. Hoạt động này ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm quyền
đối với quyền SHTT đã được xác lập. Theo điều 126, Luật SHTT Việt Nam, hành vi
được coi là xâm phạm quyền đối với SC xảy ra trong 2 trường hợp:
- Sử dụng SC được bảo hộ trong thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ mà không
được phép của chủ sở hữu;
- Sử dụng SC mà không trả tiền đền bù theo quy định về quyền tạm thời quy định
tại Điều 131 (Quyền tạm thời đối với SC, KDCN, thiết kế bố trí) của Luật này.
Khi có dấu hiệu xâm phạm quyền đối với SC nói riêng, chủ thể quyền hoặc Nhà
nước có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ quyền như sau:
- Biện pháp tự bảo vệ: cho phép chủ thể quyền được tiến hành các biện pháp
trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ liên
quan đến đối tượng của quyền SHTT, ở đây là SC Biện pháp này xuất phát từ
nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của pháp luật Việt Nam, được ghi
nhận tại Điều 9, quyền tự bảo vệ tài sản tại điều 255, Bộ luật Dân sự và được cụ
thể hóa tại Điều 198, Luật SHTT.
- Biện pháp hành chính: được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng để
xử lý những hành vi xâm phạm quyền SHTT của cá nhân, tổ chức mà chưa đến
mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc cơ bản của việc xử lý vi phạm
hành chính liên quan đến quyền SHTT được quy định tại Mục 1, Chương XVII,
Luật SHTT, quy định riêng đối với các đối tượng SHCN như SC tại Nghị định
số 97/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy
định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực SHCN. Ưu điểm của biện pháp này là
nhanh chóng, đơn giản, ít tốn kém. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế liên quan
đến biện pháp này cần được xem xét như việc chồng chéo trách nhiệm của các
cơ quan thực thi quyền SHTT trong quá trình xử lý các xâm phạm.
- Biện pháp dân sự: được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của
chủ thể quyền hoặc tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, kể

cả khi hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện
pháp hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự,
23

thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự. Biện pháp này được quy định cụ thể tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004. Luật SHTT đã có một bước tiến bộ vượt bậc khi quy định về các căn cứ
xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền SHTT ở Điều 205.
- Biện pháp kiểm soát biên giới: thường được áp dụng bởi các cơ quan hành chính
mà thông thường là các cơ quan hải quan, nhằm ngăn ngừa các hành vi xâm
phạm quyền SHTT thông qua việc ngăn chặn các hàng hóa xâm phạm quyền tại
biên giới. Biện pháp này được quy định cụ thể tại Điều 216, 217, 218, 219 Luật
SHTT và Luật Hải quan năm 2001.
Khi có hành vi xâm phạm quyền, việc xác định biện pháp nào sẽ được áp dụng
để bảo vệ quyền sở hữu dựa vào hai yếu tố: một là sự lựa chọn của người bị xâm hại;
hai là tính chất, mức độ xâm phạm. Bên cạnh đó, dựa vào hành vi cũng như tính chất
và mức độ của hành vi xâm phạm, các cơ quan Nhà nước lựa chọn áp dụng các biện
pháp bảo vệ được pháp luật quy định.
1.3. Tổng quan về chính sách, chính sách Khoa học và Công nghệ của Việt Nam
1.3.1. Khái niệm chính sách
Có nhiều cách tiếp cận để xem xét khái niệm chính sách, trong đó đáng chú ý là
James E. Anderson
1
đã đưa ra định nghĩa: “Chính sách là quá trình hành động có mục
tiêu, mà một hoặc một số chủ thể theo đuổi để giải quyết những vấn đề mà họ quan
tâm”.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực
tế mà đề ra” [10, tr. 157].
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Chính sách là các chủ trương và các biện pháp

của một đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội” [12, tr. 369].
Tổng hợp từ nhiều cách tiếp cận, tác giả Vũ Cao Đàm trong nghiên cứu của
mình đã đưa ra 1 định nghĩa khá toàn diện về chính sách và đây là khái niệm được tác
giả chọn để sử dụng trong luận văn này: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được

1
James E. Anderson: Public Policymaking, Thomson Learning (Dec. 1983)
24

thể chế hoá, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự
ưu đãi một nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của nhóm này, định hướng
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát
triển của một hệ thống xã hội”. Cũng theo tác giả, nói về một quyết định chính sách có
thể hiểu như sau [4, tr. 26-27]:
- Chính sách là một tập hợp biện pháp. Đó có thể là một biện pháp kích thích
kinh tế, biện pháp động viên tinh thần, một biện pháp mệnh lệnh hành chính hoặc một
biện pháp ưu đãi đối với các cá nhân hoặc các nhóm xã hội.
- Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá dưới dạng các đạo luật,
pháp lệnh, sắc lệnh; các văn bản dưới luật, như nghị định, thông tư, chỉ thị của chính
phủ; hoặc các văn bản quy định nội bộ của các tổ chức (doanh nghiệp, trường học, .…)
- Chính sách phải tác động đến động cơ hoạt động của các cá nhân và nhóm xã
hội.
- Chính sách phải hướng động cơ của các cá nhân và nhóm xã hội nêu trên vào
một mục tiêu nào đó của hệ thống xã hội.
1.3.2. Chính sách Khoa học và Công nghệ
Tổ chức Văn hóa, Khoa học Kỹ thuật của Liên Hợp quốc (UNESCO) đưa ra
khái niệm: “Chính sách KH&CN là tập hợp các biện pháp lập pháp và hành pháp
được thực thi nhằm nâng cao, tổ chức và sử dụng tiềm lực KH&CN quốc gia với mục
tiêu đạt phát triển quốc gia và nâng cao vị thế quốc gia trên thế giới”.
Như vậy, chính sách KH&CN trước tiên đó là những quy tắc, nguyên tắc, quy

định của Nhà nước (hoặc của một cấp, một ngành, một địa phương…) được thể hiện
dưới hình thức Luật, Nghị định, Nghị quyết, Điều lệ hoặc một văn bản dưới luật có tính
pháp quy nhằm định hướng thúc đẩy sự phát triển KH&CN của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ…
Chính sách KH&CN có thể phân theo các hình thái:
- Có những chính sách mang tính chất của một chiến lược, một đường lối, chủ
trương chung (Đó là các Văn kiện của Đảng và Nhà nước về KH&CN);
25

- Có những chính sách vừa mang tính chỉ đạo tầm vĩ mô, vừa cụ thể hóa các vấn
đề phát triển KH&CN trong cả nước như chính sách KH&CN của Nhà nước;
- Có những chính sách phát triển KH&CN của từng vùng, từng lĩnh vực, từng vấn
đề cụ thể.
Chính sách KH&CN có thể phân theo thời gian:
- Chính sách KH&CN mang tính chiến lược dài hạn các chính sách dài hạn
thường có hiệu lực từ 10 đến 20 năm hoặc lâu hơn;
- Chính sách KH&CN trung hạn, các chính sách này thường có hiệu lực thực hiện
trong khoảng 5 đến 10 năm.
- Chính sách KH&CN ngắn hạn, thường có hiệu lực giải quyết một số vấn đề
mang tính cấp bách, cụ thể trong một thời gian nhất định, thường có hiệu lực
dưới 5 năm, có khi chỉ một đến vài năm.
Chính sách KH&CN không tồn tại một cách chung chung mà nó được thể hiện
tại một số nguồn chính sách do các cấp khác nhau ban hành. Đối với một quốc gia,
chính sách không thể chỉ được tuyên bố bằng lời, mà phải được thể hiện trên một loại
văn bản của Nhà nước, gọi chung là văn bản quy phạm pháp luật. Có thể thấy nguồn
của chính sách KH&CN tại Việt Nam như sau:
- Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ tại Điều 37: “Phát triển KH&CN là quốc sách
hàng đầu. KH&CN giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách KH&CN quốc gia; xây dựng
nền KH&CN tiên tiến; phát triển đồng bộ các ngành khoa học, nghiên cứu, tiếp thu

các thành tựu KH&CN của thế giới nhằm xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra
đường lối, chính sách và pháp luật, đổi mới công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất,
nâng cao trình độ quản lý, bảo đảm chất lượng và tốc độ phát triển của nền kinh tế;
góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.”
- Nghị quyết Đảng, Nghị quyết, ý kiến kết luận của Bộ Chính trị đưa ra định
hướng chính sách phát triển KH&CN. Để thực hiện các định hướng này cần phải
nghiên cứu và ban hành hàng loạt chính sách cụ thể có liên quan như chính sách đầu tư
cho nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, chính sách chuyển giao công nghệ,

×