Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện tại tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ





MAI THANH LONG




CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60-34-70
KHOÁ: 2007-2010










HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ







CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60-34-70
KHOÁ: 2007-2010


Người thực hiện: Mai Thanh Long
Hướng dẫn khoa học: TS. Hồ Ngọc Luật







HÀ NỘI - 2010


103

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY 5
TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 5
1.1. Hoạt động khoa học và công nghệ với tư cách là đối tượng quản lý 5
1.1.1. Khoa học 5
1.1.2. Công nghệ 6
1.1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ 7
1.1.4. Hoạt động khoa học và công nghệ 8
1.1.5. Chính sách khoa học và công nghệ 10
1.1.6. Chính sách khoa học và công nghệ ở Việt Nam 18
1.1.7. Tiến bộ khoa học và công nghệ 21
1.2. Quan điểm và xu hướng trong chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ hiện nay 22
1.3. Chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ tại các tỉnh/thành phố
23
1.3.1. Vai trò của tiến bộ khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế -
xã hội 23

1.3.2. Chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ của Nhà nước
và các địa phương trong giai đoạn hiện nay 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TIẾN BỘ KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH 31
2.1. Khái quát tỉnh Nam Định 31
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, xã hội 31
2.1.2. Các tiềm năng phát triển của tỉnh 33
2.1.3. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong
giai đoạn 2006-2010 34

104
2.1.4. Những vấn đề khoa học và công nghệ cần hướng tới phục vụ phát
triển KT-XH 38
2.2. Thực trạng chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa
bàn huyện 39
2.2.1. Chức năng của các cơ quan thực hiện chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện 39
2.3.1.1. Chức năng của Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư 39
2.3.1.2. Chức năng của Trung tâm Khuyến công 40
2.3.1.3. Chức năng của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ
41
2.2.2. Những vấn đề chung về cơ sở chính sách áp dụng đối với các
Trung tâm 41
2.2.3 Thực trạng cơ chế chính sách thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao tiến
bộ khoa học và công nghệ đối với trên địa bàn huyện hiện nay
43
2.2.4. Thực trạng chính sách nhằm thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn huyện hiện nay
52
2.3.4.1. Về tổ chức: Nhìn chung tổ chức biên chế hoạt động của hệ thống

khuyến nông, khuyến công, và trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN
chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng.
53
2.3.4.2. Về hỗ trợ kinh phí ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ ở
các mô hình :
53
2.3. Thực trạng của công tác chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ trên địa bàn huyện 55
2.3.1. Đặc điểm của các loại hình chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ trên địa bàn huyện 55
2.3.2. Thực trạng về chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ trên địa bàn huyện giai đoạn 2006-2010 57
2.3.2.1. Lựa chọn tiến bộ Khoa học và Công nghệ 57

105
2.3.2.2. Các yếu tố đảm bảo thành công xây dựng mô hình chuyển giao,
ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ 58
2.3.2.3 Các nhiệm vụ đã được triển khai tại các huyện trên địa bàn tỉnh
Nam Định 59
2.3.3. Đánh giá hoạt động chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ trên địa bàn huyện 62
2.3.3.1. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp: 63
2.3.3.2. Trong hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 68
2.3.4. Đánh giá về năng lực và hiệu quả hoạt động chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ trên địa bàn huyện 69
2.3.4.1. Những thuận lợi 69
2.3.4.2. Những khó khăn và hạn chế 70
2.4. Đánh giá thuận lợi, khó khăn và hạn chế về cơ chế chính sách của Nhà
nước và của một số Bộ, Ngành đối với hoạt động chuyển giao công nghệ,
ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất và đời sống 71

2.4.1. Những thuận lợi 71
2.4.2. Những khó khăn 72
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY TIẾN BỘ KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH
79
3.1. Bối cảnh của giai đoạn phát triển 79
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước 79
3.1.2. Định hướng và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
Nam Định đến năm 2020 82
3.1.3. Định hướng và các mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ,
chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ chương
trình kinh tế trọng điểm của tỉnh Nam Định 84
3.2. Quan điểm, nguyên tắc và cơ sở xây dựng các chính sách 86
3.2.1. Quan điểm và nguyên tắc 86
3.2.2. Các cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn 87

106
3.3. Định hướng chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa
bàn huyện tại tỉnh Nam Định trong giai đoạn phát triển hiện nay 89
3.3.1. Chính sách tổ chức và hỗ trợ nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động cho các Trung tâm 89
3.3.2. Chính sách thúc đẩy phát triển tiềm lực KH&CN trên địa bàn
huyện 89
3.3.3. Chính sách thúc đẩy chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ trên địa bàn huyện 91
3.3.4. Chính sách về các nguồn lực khác 92
KẾT LUẬN 97

107


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


KH&CN
Khoa học và Công nghệ
KHCS
Khoa học chính sách
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KT-XH
Kinh tế - Xã hội
NN&PTNT
Nông nghiệp và phat triển nông thôn
UBND
Ủy ban nhân dân
SHTT
Sở hữu trí tuệ



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ


TT
Tên sơ đồ
Trang
1
Sơ đồ 1. Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu KH và
Phát triển CN


10
2
Sơ đồ 2: Mô hình về chính sách

11
3
Sơ đồ 3: Mô hình Chính sách KH&CN

13




1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Kết luận Hội nghị lần thứ 6 ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về phát triển khoa học
và công nghệ (KH&CN) đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm đến 2010, trong đó có nêu:
“Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
nhằm nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, lạc hậu, tăng năng
suất lao động, hiệu quả kinh doanh, nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng
cao đời sống nhân dân và sức mạnh quốc phòng - an ninh. Chú trọng chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và thành tựu KH&CN cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn.”
1

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông
thôn thời kỳ 2001 - 2010 đã nhấn mạnh: "Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng

và chuyển giao KH&CN cho sản xuất, coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất
để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn".
2

Tuy nhiên, trong tình hình thực tế của xã hội Việt Nam, nhất là trong điều
kiện kinh tế - xã hội (KT-XH) tại các địa phương còn chưa thực sự phát triển, thì
“Chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện còn đang là vấn đề
mới”. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ quản lý KH&CN cấp huyện, chính sách thúc
đẩy chuyển giao, ứng dụng tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện đang là một vấn
đề ngay bản thân Bộ KH&CN cũng đang trong quá trình chỉ đạo thực hiện, rút
kinh nghiệm và từng bước hoàn thiện.
Tại các địa phương, việc xây dựng chính sách thúc đẩy chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện của các tỉnh còn nhiều khó khăn, phức
tạp và hiệu quả không cao.
Tại tỉnh Nam Định, vấn đề đưa ra chính sách thúc đẩy chuyển giao, ứng
dụng tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện hiện nay còn có một số vấn đề được
đặt ra:
- Nhận thức của cán bộ lãnh đạo cấp huyện về vai trò, vị trí, cũng như tầm


1
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), trang 4
2
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, trang 3

2
quan trọng của tiến bộ KH&CN trong việc phát triển KT-XH chưa đầy đủ.
- Tiềm lực địa phương để thực hiện nhiệm vụ ứng dụng tiến bộ KH&CN
cấp huyện rất hạn chế.
- Hoạt động ứng dụng tiến bộ KH&CN tại địa bàn huyện phát triển chưa

đồng đều. Số lượng tiến bộ KH&CN triển khai không nhiều, hiệu quả không
cao. Trình tự thủ tục đưa các ứng dụng tiến bộ KH&CN vào ứng dụng trên địa
bàn huyện còn phức tạp, phải qua nhiều khâu.
- Việc triển khai chuyển giao những tiến bộ KH&CN trong sản xuất nông
nghiệp cho nông dân đã được các cơ quan chuyên môn của huyện tích cực thực
hiện, tuy nhiên hiệu quả về ứng dụng chưa sâu rộng, chủ yếu dựa vào ngân sách
nhà nước về sự nghiệp KH&CN, chưa huy động được các nguồn vốn từ bên
ngoài của các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động KH&CN.
- Chính sách, cơ chế phân cấp, phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra trong công
tác quản lý, triển khai tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện chưa thật sự mang lại
hiệu quả như mong muốn.
Trong Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Nam Định đến năm
2020, mục tiêu tổng quát trong phát triển KT-XH của tỉnh là: “Phấn đấu duy trì
tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển
và phát triển bền vững. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động, Nâng cao rõ rệt chất lượng giáo dục đào tạo và nguồn nhân lực. Phát
triển văn hoá xã hội đồng bộ với tăng trưởng kinh tế. Xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, ”.
3

Trong bối cảnh đó, đề tài: Chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa
bàn huyện tại tỉnh Nam Định đã được lựa chọn để nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển KT-XH trên địa bàn huyện, thành phố của tỉnh Nam Định trong sự
nghiệp CNH, HĐH.
Đây là một đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, và hy
vọng rằng sẽ có được những đóng góp thiết thực cho việc hoạch định các chính
sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện ở các địa phương nói chung,
cũng như ở Nam Định nói riêng đồng thời tạo ra tiền đề phát triển KT-XH ở địa
phương.



3
Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Nam Định đến năm 2020, trang 8

3
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Trong thực tế, đã có nhiều chính sách được đưa ra nhằm thúc đẩy tiến bộ
KH&CN tại các ngành và các địa phương.
Tuy nhiên lý thuyết về chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn
huyện là một vấn đề còn khá mới mẻ và cũng chưa có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề này.
Tại tỉnh Nam Định vấn đề này lần đầu tiên được đặt ra và tiến hành
nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện ở tỉnh Nam
Định.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn huyện tại
tỉnh Nam Định
- Địa bàn nghiên cứu bao gồm 9 huyện và thành phố Nam Định (Vụ Bản,
ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng, Xuân Trường, Hải Hậu, Giao Thuỷ,
Mỹ Lộc và thành phố Nam Định).
5. Mẫu khảo sát
- Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân, các Sở thuộc UBND tỉnh Nam Định;
- Uỷ ban nhân dân các huyện;
- Các tổ chức KH&CN trên địa bàn;
- Các chủ trang trại, hộ nông dân;
- Các doanh nghiệp trên địa bàn.
6. Vấn đề nghiên cứu
- Tư tưởng của chính sách: Phân tích và đánh giá chính sách thúc đẩy tiến

bộ KH&CN trên địa bàn huyện ở tỉnh Nam Định. Làm thế nào để mọi người,
mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp sẵn sàng, mong muốn chấp nhận, tìm
kiếm cơ hội để có thể áp dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN vào hoạt động sản
xuất kinh doanh.
- Sử dụng biện pháp nào để thực hiện chính sách đó:
+ Xây dựng các biện pháp để thực hiện chính sách thúc đẩy tiến bộ
KH&CN trên địa bàn huyện ở tỉnh Nam Định.

4
+ Xem xét, lựa chọn các biện pháp phù hợp và hiệu quả từ biện pháp nâng
cao nhận thức, tăng cường mối quan hệ, phối kết hợp, đến biện pháp hành chính,
tổ chức, con người, bố trí các nguồn lực, để tăng cường các khâu hỗ trợ, điều
tiết các mối quan hệ xã hội (về mặt lợi ích);
+ Hỗ trợ tài chính để tạo sự thu hút hiệu quả; khen thưởng, tôn vinh để
nâng cao giá trị xã hội, tạo uy tín trong cộng đồng; hoặc hỗ trợ các dịch vụ cần
thiết, như SHTT, thông tin KH&CN,
7. Giả thuyết nghiên cứu
Xây dựng, định hướng chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN trên địa bàn
huyện ở tỉnh Nam Định là tiền đề cho việc: phát hiện, ứng dụng, nhân rộng các
tiến bộ KH&CN trong sản xuất đem lại hiệu quả KT-XH.
8. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề
tài bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: được sử dụng trong quá trình thu thập,
tìm kiếm các cơ sở lý luận; tổng hợp, và phân tích các nguồn tư liệu, số liệu sẵn
có về chính sách thúc đẩy tiến bộ KH&CN.
- Phương pháp nghiên cứu hiện trường - điền dã - là các phương pháp
được sử dụng trong quá trình nghiên cứu hiện trạng các tiến bộ KH&CN đã
được ứng dụng và triển khai tại địa bàn huyện;
- Các phương pháp phân tích hệ thống và phân tích tổng hợp - được sử

dụng trong quá trình tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin liên quan tới đối tượng
nghiên cứu của đề tài.
9. Kết cấu luận văn
Toàn bộ nội dung của đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị
sẽ được trình bày trong 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ
Chương 2: Thực trạng chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công nghệ
trên địa bàn huyện tại tỉnh Nam Định
Chương 3: Định hướng chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ trên địa bàn huyện tại tỉnh Nam Định

5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1. Hoạt động khoa học và công nghệ với tư cách là đối tượng quản lý
1.1.1. Khoa học
Khoa học là một khái niệm rộng lớn được xem xét dưới nhiều góc độ
khác nhau từ đó có những nhìn nhận khác nhau, nhưng mọi cách nhìn nhận đều
coi khoa học là một hệ thống tri thức của nhân loại về tự nhiên, xã hội mà con
người được tích luỹ trong quá trình lịch sử.
Theo UNESCO khoa học là "Hệ thống các tri thức về mọi loại quy luật của
vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư
duy”.
4
Hệ thống tri thức ở đây là hệ thống khoa học, khác với tri thức kinh
nghiệm.
Theo luật KH&CN năm 2000 "Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện
tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”;
5


Khoa học được hiểu là một hoạt động xã hội nhằm tìm tòi, phát hiện quy
luật của sự vật và hiện tượng và sự vận dụng các quy luật ấy để sáng tạo các
nguyên lý, các giải pháp tác động vào các sự vật, hiện tượng nhằm biến đổi
trạng thái của chúng. Khoa học ngày nay đã trở thành một hoạt động nghề
nghiệp của một cộng đồng xã hội, đó là một dạng lao động xã hội đặc biệt, với
một đặc điểm khó tìm thấy trong một hoạt động xã hội khác. Đó là việc tìm
kiếm những điều chưa biết và phải chịu nhiều rủi ro trong quá trình tìm kiếm.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có hai khía cạnh khác nhau: Khoa học là
"hệ thống tri thức" mang tính chất quy luật với vai trò nhiệm vụ của nó bao gồm
hai chức năng, nhận thức và cải tạo thế giới. Mặt khác khoa học cũng được coi
là một "hệ thống thiết chế", một hệ thống hoạt động. Khi nói đến quản lý khoa
học, ta thường chú ý tới khía cạnh thiết chế của khoa học, khoa học với tư cách
là một hoạt động xã hội của loài người, và mục tiêu của quản lý là làm cho nó
phát triển đúng hướng, mang lại hiệu quả tốt nhất cho sự phát triển và nhu cầu
của xã hội.


4
Vũ Cao Đàm, Phương pháp luận Nghiên cứu Khoa học ghiên cứu Khoa học, NXBGD, 2009, sđd trang 12

5
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2000).

6
1.1.2. Công nghệ
Thuật ngữ Công nghệ có xuất xứ từ hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ:
“techno” - có nghĩa là tài năng, nghệ thuật, kỹ thuật, sự khéo léo và “logy” - có
nghĩa là lời lẽ, ngôn từ, cách diễn đạt, học thuyết. Theo đó, "công nghệ" được
hiểu theo hai nghĩa: Công nghệ là "khoa học làm", khoa học ứng dụng, nhằm

vận dụng các qui luật tự nhiên, các nguyên lý khoa học để đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần của con người; Công nghệ là các phương tiện kỹ thuật, là sự
thể hiện vật chất hoá các tri thức khoa học ứng dụng vào thực tiễn.
Theo định nghĩa của Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương (Economic and Social Commission for Asian and the Pacific -
ESCAP) đưa ra: ”Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật
dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị,
phương pháp sử dụng trong sản xuất chế tạo, dịch vụ, quản lý, thông tin”
-
6
.
Định nghĩa này không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản xuất chế
tạo ra các sản phẩm cụ thể, mà nó mở rộng khái niệm công nghệ ra các lĩnh vực
dịch vụ và quản lý. Do vậy, nó được coi là một bước ngoặt trong lịch sử quan
niệm về công nghệ. Cũng như trong điều 3 “Luật chuyển giao công nghệ” đã ghi
rõ: ”Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không
kèm công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”
7
.
Theo thống nhất của các Tổ chức Quốc tế về công nghiệp và theo Từ
điển Bách khoa Việt Nam thì công nghệ được thể hiện trong bốn thành
phần:
- Phần kỹ thuật: Phần cứng của công nghệ bao gồm máy móc, dụng
cụ, nhà xưởng…
- Phần con người: Bao gồm kỹ năng tay nghề của đội ngũ nhân lực để
vận hành, điều khiển và quản lý dây chuyền thiết bị.
- Phần thông tin: Bao gồm tư liệu, dữ liệu, bản mô tả sáng chế, bí
quyết kỹ thuật.
- Phần tổ chức: Bao gồm các hoạt động về phân bổ nguồn lực, tạo lập
mạng lưới sản xuất, tuyển dụng và khuyến khích nhân lực…



6
Đặng Duy Thịnh, Chính sách khoa học và công nghệ quốc gia, bài giảng chuyên đề, Hà Nội 1998.

7
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật chuyển giao công nghệ (2006).

7
Một luận điểm chung quan trọng được rút ra từ những quan điểm hiện tại
về công nghệ là: khoa học và kỹ thuật là yếu tố nền tảng của công nghệ, còn
quản lý là yếu tố gắn kết các yếu tố của công nghệ thành một hệ thống và có ý
nghĩa quyết định đến sự triển khai và thành bại của công nghệ.
1.1.3. Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ
Khoa học có thể xem như là sự tìm kiếm các quy tắc chế ngự các hiện
tượng tự nhiên không tính đến sự áp dụng khả dĩ đối với cuộc sống con người.
Với ý nghĩa như vậy, khoa học đơn giản chỉ là sự thay đổi tri thức đã có trực tiếp
một cách có lợi cho đời sống con người hoặc quá trình sản xuất hàng hoá. Vì
vậy công nghệ đóng góp vào sự phát triển, trong khi đó khoa học lại có thể tạo
ra tiến bộ công nghệ. Công nghệ thâm nhập vào tất cả các nền văn hoá, xã hội và
các cá nhân bằng tính hữu dụng của nó. Thậm chí, nếu công nghệ được tạo ra
một cách hoàn toàn khoa học, nó vẫn là công nghệ chứ không phải là khoa học.
Cơ sở của các công nghệ thuở ban đầu được phát triển qua kinh nghiệm
theo nguyên tắc vận dụng, mò mẫm đã không giải thích được bằng việc áp dụng
tri thức khoa học cho đến mãi sau này. Theo cách đó, công nghệ đã trở thành sự
kích thích phát triển khoa học. Những chuẩn bị lớn lao về công nghệ đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự ra đời của nhiều thành tựu trong khoa học ngày nay.
Việc thấu hiểu các nền tảng khoa học trong những lĩnh vực rất xa nhau
như khoa học hạt nhân, hàng không, giải phẫu tim và sinh học tế bào,… phụ
thuộc rất nhiều vào cái có sẵn của công nghệ để tiến hành các nghiên cứu cần

thiết. Kỷ nguyên đương đại đã chứng kiến sự tăng trưởng phi thường của các
ngành công nghệ dựa trên khoa học. Ở đây công nghệ đi sau khoa học, ngược lại
với quá trình trước kia.
Ngày nay có thể phân biệt hai cách tiếp cận cơ bản đối với sự liên kết của
khoa học và công nghệ.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, người ta tìm kiếm các cơ hội công nghệ mới
nhen lên từ các phát triển trong khoa học.
Theo cách tiếp cận thứ hai, sự triển khai giải pháp công nghệ có tính cách
tân nhằm đáp ứng một nhu cầu KT-XH sẽ kích thích các nghiên cứu khoa học cơ
bản. Như vậy, khoa học và công nghệ trở nên gắn bó khăng khít với nhau và
đảm trách vai trò dẫn dắt trong phát triển các ngành kinh tế hiện tại. Sự sóng đôi

8
khoa học và công nghệ đã dẫn tới những thành tựu đáng kể trong hai lĩnh vực
khoa học công nghệ.
Chỉ có công nghệ mới thực sự đóng góp cho sự phát triển, còn khoa học
chỉ có thể tạo ra tiến bộ công nghệ. Công nghệ được sử dụng hôm nay làm cho
ngày mai tốt đẹp hơn và khoa học hôm nay có thể là công nghệ của ngày mai.
Tuy nhiên khác với khoa học, công nghệ không công khai với mọi người.
1.1.4. Hoạt động khoa học và công nghệ
Hoạt động khoa học là hoạt động xã hội, là nhân tố cơ bản tạo ra sự phong
phú trong đời sống tinh thần, là nhân tố quyết định tạo ra sự giàu có về đời sống
vật chất cho xã hội loài người.
Hoạt động khoa học là lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp vì nó khám phá ra
các tri thức về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó sáng tạo ra các nguyên lý
giải pháp mới hay sáng tạo ra các mô hình kỹ thuật quản lý xã hội mới phục vụ
cho con người cải tạo thế giới, phát triển kinh tế xã hội, văn hóa.
Hoạt động khoa học tạo nên tính sáng tạo, tính mới, mang tính rủi ro cao
và đặc biệt vai trò cá nhân trong hoạt động khoa học rất lớn. Thực tiễn sản xuất,
hoạt động xã hội đặt ra nhiều vấn đề cho khoa học giải quyết và đòi hỏi khoa

học đưa ra những căn cứ, những nguyên lý giải pháp hay mô hình để phát triển
tri thức, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội phục vụ cho xã hội.
Hoạt động công nghệ là tất cả những hoạt động liên quan đến các quá
trình nghiên cứu - triển khai sản xuất và thị trường áp dụng công nghệ. Nội dung
chính của hoạt động công nghệ là biến các tri thức tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến thành những yếu tố của sản xuất nhằm nâng cao sức sản xuất
của xã hội và con người. Hoạt động công nghệ là hoạt động tạo ra và hoàn thiện
công nghệ mới, sản phẩm mới gồm các bước triển khai thực nghiệm và sản xuất
thử nghiệm.
Mục tiêu của hoạt động công nghệ là làm cho khoa học và kỹ thuật trở
thành một động lực lớn thúc đẩy nhanh quá trình phát triển KT-XH.
Theo UNESCO, ”hoạt động KH&CN có thể được định nghĩa như tất cả
các hoạt động có hệ thống liên quan chặt chẽ tới việc sản xuất, nâng cao, truyền
bá và ứng dụng các kiến thức KH&CN trong thực tiễn sản xuất và đời sống”.
-
8



8
Đặng Duy Thịnh, Chính sách khoa học và công nghệ quốc gia, bài giảng chuyên đề, Hà Nội 1998.

9
Chính trong hoạt động KH&CN mà các kiến thức KH&CN được sản xuất
ra, được thu thập, truyền bá, được sửa đổi, thích nghi cho phù hợp với nhu cầu
và cho việc sử dụng, là nhân tố quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức. Hay nói
một cách khác hoạt động KH&CN là một đối tượng quản lý của chủ thể và là cơ
sở để hình thành hệ thống tổ chức KH&CN.
Theo Luật KH&CN, ”hoạt động KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ KH&CN, hoạt động phát huy sáng

kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát
triển khoa học và công nghệ”
9

Nghiên cứu khoa học (NCKH) là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện
tượng, sự vật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo các giải pháp nhằm ứng
dụng vào thực tiễn. Một trong các cách phân loại NCKH là phân loại theo tính
chất của sản phẩm nghiên cứu. Theo đó NCKH bao gồm nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng.
Phát triển công nghệ là hoạt động tiếp theo nhằm tạo ra và hoàn thiện
công nghệ mới, sản phẩm mới. Sản phẩm của hoạt động này mới chỉ là những
vật mẫu, hình mẫu có tính khả thi về kỹ thuật để áp dụng vào một điều kiện kinh
tế hoặc xã hội nào đó. Ngoài ra còn phải nghiên cứu những tính khả thi khác,
như khả thi về tài chính, về kinh tế, về môi trường, về xã hội và chính trị… Phát
triển công nghệ bao gồm triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm:
Triển khai thực nghiệm (còn gọi là triển khai trong phòng thí nghiệm -
Labô) là hoạt động ứng dụng kết quả NCKH để làm thực nghiệm nhằm tạo ra
công nghệ mới, sản phẩm mới. Loại hình triển khai này mới khẳng định kết quả
sao cho ra được sản phẩm, nhằm chứng minh về nguyên lý công nghệ, chưa
khẳng định được tính khả thi trong điều kiện sản xuất công nghiệp.
Sản xuất thử nghiệm (còn gọi là triển khai bán đại trà - Pilot) là hoạt động
ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm
hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời
sống. Đây là một dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết về hình mẫu trên



9
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2000


10
một quy mô nhất định, thường là quy mô áp dụng bán đại trà, trong nghiên cứu
thuộc lĩnh vực KHKT và KH&CN được gọi là quy mô bán công nghiệp.
Đặc điểm chung nhất của NCKH là tìm tòi những sự vật mà người nghiên
cứu chưa hề biết. Đặc điểm này dẫn đến hàng loạt các đặc điểm khác nhau của
NCKH mà người nghiên cứu cũng như người quản lý nghiên cứu cần phải quan
tâm khi xử lý những vấn đề cụ thể về mặt phương pháp luận về nghiên cứu và tổ
chức nghiên cứu. Các đặc tính cơ bản của nghiên cứu khoa học là tính mới, tính
kế thừa, khoa học sáng tạo, khách quan và khả thi. Sản phẩm khoa học công
nghệ mang tính thông tin. Mặt khác, trong nghiên cứu khoa học cũng có thể xảy
ra rủi ro, phi kinh tế.
Toàn bộ các loại hình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và mối
quan hệ giữa chúng được trình bày trong sơ đồ sau:

1.1.5. Chính sách khoa học và công nghệ
a. Khái niệm chính sách
Có nhiều cách tiếp cận để xem xét khái niệm chính sách:
- Theo Thomas R.Dye đã đưa ra định nghĩa về chính sách công: Chính
sách công là điều mà một chính phủ chọn để làm hoặc không làm.
- Theo Guy Peters thì định nghĩa: Chính sách công là toàn bộ hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống của công
dân.
Nghiên cứu cơ bản
thuần tuý
Nghiên cứu
cơ bản
Nghiên cứu cơ
bản định hướng
Nghiên cứu
nền tảng

Nghiên cứu
Chuyên đề
Triển khai thực nghiệm
(Labô)
Phát triển
Công nghệ
Sản xuất thử nghiệm
(Pilot)
Nghiên cứu
ứng dụng
Sơ đồ 1. Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu KH và Phát triển CN

11
- Theo James E.Anderson đưa ra định nghĩa: Chính sách là quá trình
hành động có mục tiêu mà một hoặc một số chủ thể theo đuổi, để giải quyết
những vấn đề mà họ quan tâm.
- Từ cách tiếp cận xã hội học chúng ta có thể hiểu, chính sách là tập hợp
biện pháp do chủ thể quản lý đưa ra, nhằm tạo lợi thế cho một (hoặc một số)
nhóm xã hội, giảm lợi thế của một (hoặc một số) nhóm xã hội khác, để thúc đẩy
việc thực hiện một (hoặc một số) mục tiêu xã hội mà chủ thể quyền lực đang
hướng tới.
- Từ cách tiếp cận tâm lý học, chúng ta có thể hiểu, chính sách là tập hợp
biện pháp đối xử ưu đãi đối với một nhóm xã hội, nhằm kích thích vào động cơ
hoạt động của nhóm này hướng theo việc thực hiện một (hoặc một số) mục tiêu
của chủ thể quyền lực.
- Theo Vũ Cao Đàm đưa ra định nghĩa: ”Chính sách là tập hợp biện pháp
mà một chủ thể quyền lực đưa ra để định hướng xã hội thực hiện mục tiêu chính
trị của quyền lực”.
10



Sơ đồ 2: Mô hình về chính sách
Như vậy khi đề cập về một quyết định chính sách, người quản lý có thể
hiểu theo các khía cạnh sau:
- Chính sách là một tập hợp biện pháp. Đó có thể là một biện pháp kích
thích kinh tế, biện pháp động viên tinh thần, một biện pháp mệnh lệnh hành
chính hoặc một biện pháp ưu đãi với các nhóm cá nhân hoặc các nhóm xã hội.


10
Vũ Cao Đàm, Khoa học chính sách, NXBĐHQG, 2008
Các biện pháp
chính sách
Vốn
Mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội
Tỉnh
Huyện
Lao
động
Công
nghệ

12
- Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hoá dưới dạng các
đạo luật, pháp lệnh, sắc lệnh, các văn bản dưới luật, hoặc các văn bản quy định
nội bộ của các tổ chức khác nhau.
- Chính sách phải tác động vào động cơ hoạt động của các cá nhân và
nhóm xã hội. Đây phải là nhóm đóng vai trò động lực trong việc thực hiện một
mục tiêu nào đó.

- Kết quả cuối cùng mà chính sách phải đạt được là tạo ra những biến đổi
xã hội phù hợp mục tiêu mà chủ thể chính sách vạch ra.
Tuy nhiên, khi nói sử dụng tiếp cận tổng hợp để xem xét một chính sách,
không nhất thiết phải xem xét đủ mọi hướng tiếp cận như trên mà chỉ có thể một
vài cách tiếp cận trong đó.
b. Phân loại chính sách
- Phân loại theo chủ thể chính sách:
+ Chính sách của một quốc gia
+ Chính sách của một doanh nghiệp
+ Chính sách của một chính đảng
- Phân loại theo mục tiêu tác động của chính sách:
+ Chính sách đối ngoại của quốc gia
+ Chính sách xoá đói giảm nghèo
+ Chính sách công nghiệp hoá
- Phân loại theo công cụ tác động của chính sách
Nhiều chính sách mang tính công cụ, mục tiêu tự thân hầu như chỉ tồn tại
trong những tình huống nào đó, chẳng hạn như: chính sách lao động, chính sách
tiền lương, chính sách thu hút nhân lực có trình độ cao,
+ Chính sách tài chính
+ Chính sách tiền lương
+ Chính sách lao động
- Phân loại theo tầm hạn của chính sách
+ Chính sách vĩ mô
+ Chính sách vi mô
- Phân loại theo thời gian:
+ Chính sách dài hạn
+ Chính sách ngắn hạn
+ Chính sách trung hạn

13

+ Chính sách nhất thời
c. Chính sách khoa học và công nghệ
Theo UNESCO định nghĩa
- Khoa học và Công nghệ là một tập hợp các biện pháp lập pháp và hành
pháp được thực thi nhằm nâng cao, tổ chức và sử dụng tiềm lực Khoa học và
Công nghệ quốc gia với mục tiêu đạt được mục đích phát triển quốc gia nâng
cao vị trí quốc gia trên thế giới.
- Chính sách khoa học và công nghệ (theo thông lệ chung của thế giới) là
những phương châm, điều lệ, quy định. Đó là những nguyên tắc và quy tắc do
một nhà nước, một ngành một cơ sở trong một thời kỳ nhất định và với một mục
tiêu chiến lược nhất định, đặt ra nhằm phát triển KH&CN.
Tại Việt Nam một số tác giả cho rằng: Chính sách KH&CN là các chủ
trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển KH&CN phục vụ cho
sự nghiệp phát triển KT-XH của đất nước.
Chính sách KH&CN bao gồm:









Sơ đồ 3: Mô hình Chính sách KH&CN
d. Xây dựng chính sách KH&CN theo cách tiếp cận hệ thống
- Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng những chuyên gia chính sách KH&CN cần
nắm phương pháp hệ thống - chức năng mới làm sáng tỏ những tranh luận và tạo
thuận lợi cho hành động.
- Chính sách KH&CN được xây dựng cho một tổ chức gồm những con

người, mà trong đó có thể tiến hành những hoạt động cá nhân và tập thể về cơ
bản:
+ Nghiên cứu khoa học
Chính sách
KH&CN
Chương trình mục
tiêu về KT-XH;
KH&CN
Nguồn lực khác: Thông
tin KH&CN; Sở hữu Trí
tuệ,…
Tài chính cho
KH&CN
Tổ chức, Quản lý
Chủ trương,
đường lối, thể chế
về PTKH&CN

14
+ Triển khai thực nghiệm
+ Dịch vụ khoa học công nghệ
- Chính sách KH&CN theo đuổi những mục tiêu và vì mục đích đó chúng
đề cập các vấn đề sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tin lực).
- Chính sách KH&CN được soạn thảo, quyết định, thực hiện và theo đuổi
bởi các nhà hoạt động trong cơ cấu chính phủ, theo một quá trình nhất định,
bằng những công cụ và phương pháp riêng.
- Chính sách KH&CN gắn với hoàn cảnh kinh tế, xã hội, văn hoá riêng
của mỗi quốc gia, địa phương và thường xuyên tương tác với chính sách khác
của quốc gia, địa phương.
- Chính sách KH&CN nhanh chóng phản ứng với những phát minh, sáng

chế, tiến bộ khoa học đang diễn ra.
- Chính sách KH&CN phục vụ sự sống còn, phát triển KT-XH, phát triển
tiến bộ xã hội.
e. Khoa học chính sách
Khoa học chính sách phải chăng là sản phẩm tất yếu của quá trình phát
triển của mọi hình thái KT-XH. Tại các nước phát triển, khoa học chính sách
(KHCS) đã phôi thai, phát triển và được chú ý từ lâu.
KHCS là một lĩnh vực nghiên cứu mới và có vị trí quan trọng trong khoa
học xã hội. Điều này, không chỉ "mới mẻ" đối với các nước khu vực, thế giới,
mà còn chứa đựng nhiều tư duy mới đối với đội ngũ chuyên gia hoạch định
chính sách xã hội nước ta.
KHCS bao gồm 2 quy trình: Nghiên cứu chính sách và phân tích đánh giá
chính sách. Đây là một ngành khoa học liên bộ môn, liên ngành và đặc biệt
mang tính tích hợp nhiều thành tựu khoa học: tổ chức học, triết học, xã hội học,
dự báo học, tâm lý học, dân tộc học, kinh tế học (vĩ mô, vi mô)
Các lĩnh vực khoa học được hệ thống tập trung vào việc nghiên cứu
những dữ kiện - thực chất là những kiến thức nhằm bảo đảm cho quá trình đề ra
chính sách, các cơ sở phương pháp luận liên quan đến chính sách và các mục
tiêu xã hội - lịch sử, chính trị.
Do nhu cầu cần có hệ thống các chủ trương, biện pháp điều tiết, dung hòa
và bù đắp lại các "lỗ hổng" tinh thần và vật chất của các giai tầng xã hội; vào
những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thành tựu phát triển của các lĩnh

15
vực khoa học: Kinh tế học, chính trị học, hành chính học, xã hội học, vận trù
học, phân tích hệ thống, giúp KHCS ra đời một cách hoàn chỉnh hơn.
Trên thực tế do có một bước phát triển nhất định của KHCS, nên hệ thống
các chính sách xã hội lớn của một số quốc gia đã tránh được các vực thẳm "phá
sản". Bên cạnh đó, quá trình hình thành từng bước các cơ sở lý luận, phương
pháp luận, cũng như kỹ thuật, công nghệ xây dựng chính sách đã trợ giúp có cơ

sở cho sự phát triển của KHCS đúng hướng và mang nặng tính giá trị lịch sử
kinh tế, xã hội-chính trị.
Đặc biệt, năm 1951 sự ra đời của cuốn sách "Khoa học chính sách" của
Nhà xuất bản Đại học Stanford là công trình khoa học đầu tiên về lĩnh vực
KHCS do Daniel Lerner và Harold D.Lasswell chủ biên. Đây là cuốn sách được
giới khoa học xã hội đương thời coi là tiêu chí ra đời của KHCS (Policy
Sciences Movement).
Horold D.Lasswell cho rằng khi nghiên cứu KHCS ngoài phương pháp
định lượng và các mặt kỹ thuật, công nghệ của việc phân tích chính sách, cần
đặc biệt chú ý đến phương pháp vận trù học, phân tích hệ thống, quy hoạch
tuyến tính, phân tích giá thành - hiệu quả, ngoại suy kết hợp với nội suy trong
phân tích kinh tế và hệ thống các phương pháp xác định giá trị tinh thần và vật
chất xã hội thông qua một chính sách cụ thể,
Vào năm 1962 tác phẩm "Kết cấu của cách mạng khoa học" của nhà triết
học nổi tiếng Thomas S.Kahn đã mở ra các hướng nghiên cứu mới và phương
pháp luận cho sự phát triển KHCS. Từ năm 1968-1971 tác giả Yehezkel Dror đã
cho xuất bản các tác phẩm nổi tiếng như: Kiểm điểm việc chế định chính sách
chung (1968); Những ý tưởng của KHCS (1971); Tiến triển của KHCS (1971).
Trong những năm cuối thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70 đã xuất hiện một loạt
các trường đại học và viện nghiên cứu chính sách công cộng, các vấn đề công
cộng, tạo nền móng cho KHCS càng có cơ may phát triển, bổ sung trí thức và
cán bộ khoa học trợ thủ đắc lực cho các hoạt động của Chính phủ trong công tác
quản lý, phân tích chính sách.
Những năm của thập kỷ 70-90, KHCS trên thế giới tập trung nghiên cứu
một số vấn đề cụ thể sau:
- Tăng cường nghiên cứu nhận thức giá trị của chính sách; mối quan hệ
giữa chính sách công cộng với dư luận xã hội; các giá trị xã hội của chính sách
từ các góc độ triết học, truyền thống, tôn giáo, dân tộc, đạo đức, tâm lý lứa tuổi

16

và mối quan hệ của học thuyết kinh tế thực chứng và học thuyết kinh tế chuẩn
tắc trong quá trình xây dựng và hoạch định chính sách.
- Nghiên cứu về các mối quan hệ hòa quyện và tích hợp giữa KHCS và
hành chính học làm cơ sở cho việc xuất hiện khái niệm mới "các vấn đề công
cộng ".
- KHCS góp phần phá vỡ sự ràng buộc của tư tưởng quá nhấn mạnh một
cách phiến diện "lý tính" kinh tế và kỹ thuật, công nghệ. Nếu không sớm khắc
phục tình trạng này sẽ không tạo nên sự xác định phù hợp và phong phú của các
chính sách xã hội qua việc áp dụng chủ trương dùng "lý tính" xã hội, chính trị và
pháp luật để dần dần thay thế "lý tính" kinh tế, kỹ thuật, công nghệ trong quá
trình xây dựng chính sách ở tầm vĩ mô.
Sự ra đời của KHCS là sản phẩm tối ưu của sự phát triển xã hội, kinh tế,
khoa học nói chung và khoa học xã hội nói riêng. Thời đại ngày nay đang cần có
những chính sách phù hợp ngày càng nhiều, càng phức tạp, song phải thường
xuyên điều chỉnh và đổi mới chính sách lại trở thành yêu cầu cấp bách. Điều đó
càng ràng buộc người quản lý điều hành các hoạt động chính sách vĩ mô phải tự
gắn bó vận mệnh của chính mình với thực trạng xã hội, để sớm có bước cải thiện
và nâng cao chất lượng của chính sách. Ở mỗi quốc gia có những vấn đề không
chỉ đạt ý tưởng nhằm giải quyết một vài vấn đề "nổi cộm" có tính cục bộ, khu
vực, mà phải xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, mang tính chiến lược,
truyền thống, như: Chính sách cho các khu vực, các dân tộc, các vùng có khó
khăn và cực kỳ khó khăn về đời sống và có những rủi ro "bất khả kháng"
Hiện nay, thực tế xã hội ngày càng làm cho chúng ta cần có ý thức sâu sắc
hơn về tầm quan trọng của việc nghiên cứu KHCS nhằm giải quyết các vấn đề
chính trị xã hội và kinh tế hết sức khẩn thiết. Điều đó dẫn đến Nhà nước cần có
hệ thống cơ sở nghiên cứu các kiến thức, thông tin liên quan đến chính sách
không chỉ ở tầm vĩ mô, mà còn nhằm mục đích giải quyết các hiện tượng xã hội
có tính vi mô. Từ ý nghĩa xã hội này, sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và
phát triển KHCS ở nước ta.
Bên cạnh đó, chính sách còn trở thành hạt nhân quan trọng để phát huy

"nội lực" phát triển tăng trưởng kinh tế. Những chính sách không tốt sẽ làm triệt
tiêu tác động của các nguồn viện trợ và cản trở sự tăng trưởng kinh tế; ngược lại
các nước có các chính sách kinh tế tốt và năng lực thể chế mạnh hơn thường
tăng trưởng nhanh hơn.

17
Phải chăng, trong quá trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
chúng ta cần đặt các định chuẩn có tính truyền thống của KHCS, tính hợp lý,
tính nhạy cảm của thời gian, tính lịch sử, sự dự báo sát thực, Có thể nêu ra một
số đặc trưng cơ bản của KHCS là:
- KHCS là một lĩnh vực mang tính tổng hợp liên bộ môn, song không chỉ
là tích hợp "chồng đống" các tri thức và phương pháp nghiên cứu của các ngành
khoa học; mà nó là sự phối hợp hữu cơ các tri thức và các phương pháp nghiên
cứu đặt trong khuôn khổ mang tính học thuật mới.
Sản phẩm của KHCS đặt nền tảng từ mối quan hệ chặt chẽ của các nội
hàm khoa học mới, đặc biệt là khoa học xã hội, thể hiện trong quá trình hình
thành các quyết sách và chính sách xã hội cụ thể.
- KHCS là ngành khoa học lấy hiệu quả làm mục tiêu định hướng chính,
biểu hiện sự thống nhất cao các giá trị lý luận và thực tiễn trên cùng một nguyên
tắc vì lợi ích xã hội, sự tồn tại và phát triển con người.
Đối tượng nghiên cứu KHCS là quá trình thực tế của chính sách mà hình
thành "công nghệ" "chế tạo" ra chính sách. Đây không phải là khoa học lý
thuyết thuần túy - nghiên cứu cơ bản, mà là khoa học ứng dụng "siêu lợi ích".
KHCS góp phần tích cực vào việc chỉ đạo thực tiễn, hoạch định chấp hành, đánh
giá các chính sách của mỗi quốc gia.
- KHCS không chỉ là ngành khoa học chứa đựng các tri thức để diễn giải,
miêu tả, phản ánh hoặc nêu vấn đề mà là một ngành khoa học có tính chuẩn định
và quy phạm nhất định.
Thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đặt nền móng tạo
nên các kinh nghiệm và truyền thống, nhiều khi chưa hẳn đã thể hiện đầy đủ mọi

giá trị xã hội, tự nhiên và lịch sử. Nhưng KHCS thì chắc chắn rằng mục đích về
giá trị chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử, tự nhiên, phải là định hướng chính và
cũng chính là mục tiêu của các quy phạm của mọi chính sách. Việc lựa chọn một
giá trị nào? hoặc lựa chọn các biến số cụ thể nào? sẽ tạo nên sự cân bằng
"tĩnh" hoặc "động" giữa mục tiêu và "thủ đoạn" chính sách cụ thể là đối tượng
nghiên cứu KHCS.
- KHCS là một phần trong cấu trúc hệ thống của khoa học "mềm". Đây là
loại hình khoa học có bước phát triển mạnh vào những năm đầu thế kỷ XXI. Hệ
thống tri thức khoa học "mềm" bao gồm: Khả năng phân tích hệ thống, vấn đề
nghiên cứu chiến lược, tương lai học, trí năng nhân tạo, khoa học luận, khoa học

18
quản lý, khoa học điều khiển, mối quan hệ giữa khoa học và quyết sách, khoa
học trong đời sống xã hội,
1.1.6. Chính sách khoa học và công nghệ ở Việt Nam
a. Các quy định về KH&CN trước năm 2000
Trước khi có Luật KH&CN năm 2000, các cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về KH&CN. Song hầu hết các văn bản này
(trừ một vài văn bản về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, quyền sở hữu trí tuệ và
chuyển giao công nghệ) đều là loại văn bản quy phạm pháp luật cấp Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ và cấp bộ/ngành hoặc chỉ là những văn bản cá biệt có
chứa đựng một số quy phạm pháp luật; nội dung tản mạn, hiệu lực pháp lý thấp,
thiếu tính hệ thống, không đầy đủ, không đồng bộ Về mặt nội dung, các văn
bản quy phạm pháp luật trước khi có Luật KH&CN năm 2000 bao gồm hai
nhóm: Nhóm được ban hành trước khi có đường lối đổi mới (năm 1986) và
nhóm được ban hành từ sau năm 1986 đến khi có Luật KH&CN năm 2000.
Nhóm văn bản về KH&CN ban hành trước khi có đường lối đổi mới
Đặc điểm nổi bật của nhóm văn bản này thể hiện ở chỗ đã thể chế hoá đầy
đủ các chủ trương, chính sách quản lý KT-XH nói chung và quản lý hoạt động
KH&CN nói riêng trong thời chiến, thời bao cấp; thực hiện đồng loạt việc hành

chính hoá, nhà nước hoá các hoạt động kinh tế - xã hội trong các lĩnh vực, bao
gồm cả hoạt động KH&CN.
Nhóm văn bản về KH&CN ban hành từ sau khi có đường lối đổi mới đến
trước khi có Luật KH&CN
Nhóm văn bản quy phạm pháp luật về KH&CN ban hành trong thời gian
này thể hiện việc đổi mới các cơ chế, chính sách KT-XH nói chung và các cơ
chế, chính sách KH&CN nói riêng, không ngừng được sửa đổi, bổ sung và hoàn
thiện theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, trong giai đoạn từ sau khi có đường lối đổi mới đến trước khi có
Luật KH&CN năm 2000, các văn bản pháp luật tập trung vào việc tạo cơ sở
pháp lý thích hợp để khuyến khích, thúc đẩy mọi tổ chức, cá nhân, bất kể thành
phần kinh tế, chủ động, tích cực tự mình hoặc hợp tác với các tổ chức, cá nhân
khác chăm lo, đầu tư tiền của và sức lực cho hoạt động KH&CN dưới các hình
thức và biện pháp hết sức phong phú để rồi được hưởng đầy đủ các thành quả
đầu tư của mình, không trông chờ, ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước về vật lực,

×