Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 119 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







ĐỖ THỊ NGUYỆT






GIA §×NH VíI VIÖC H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN
NH¢N C¸CH CHO TRÎ EM ë NGO¹I THµNH Hµ NéI HIÖN NAY








LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC












HÀ NỘI - 2014

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐỖ THỊ NGUYỆT






GIA §×NH VíI VIÖC H×NH THµNH Vµ PH¸T TRIÓN
NH¢N C¸CH CHO TRÎ EM ë NGO¹I THµNH Hµ NéI HIÖN NAY




Chuyên ngành : Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số : 60 22 03 08



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐỖ THỊ THẠCH







HÀ NỘI - 2014


3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Đỗ Thị Thạch.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn

gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 10 tháng 02 năm 2014
Tác giả luận văn


Đỗ Thị Nguyệt

4
MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG
VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO TRẺ EM
9
1.1. Nhân cách và các yếu tố hình thành nhân cách
9
1.2. Trẻ em và vai trò của gia đình trong việc hình thành và phát
triển nhân cách cho trẻ em
21
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO TRẺ EM Ở
NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
43
2.1. Những yếu tố tác động đến vai trò của gia đình trong việc
hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội
43

2.2. Thực trạng vai trò của gia đình trong việc hình thành và
phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội
49
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với vai trò của gia đình ở ngoại
thành Hà Nội trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em
65
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH CHO TRẺ EM Ở NGOẠI THÀNH HÀ
NỘI HIỆN NAY
78
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm phát huy vai trò của gia
đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em ở
ngoại thành Hà Nội hiện nay
78
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của gia
đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ ở ngoại
thành Hà Nội hiện nay
90
KẾT LUẬN
103

5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
106


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
KCN: Khu công nghiệp
















6

DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 2.1: Kết quả điều tra nhận thức của cha mẹ trong việc hình
thành phẩm chất (đạo đức) cho trẻ em
50
Bảng 2.2. Kết quả điều tra về mức độ quan tâm của cha mẹ đến đời
sống tâm lý và tinh thần của con cái

52
Bảng 2.3. Nhận thức của cha mẹ trong việc hình thành năng lực (tài)
cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội
54
Bảng 2.4. Lối sống của ông bà ảnh hưởng tới con cháu của gia đình
các huyện ngoại thành Hà Nội theo vùng điều tra
59
Bảng 2.5. Bảng điều tra trình độ học vấn của cha mẹ 4 huyện ngoại thành
68
Bảng 2.6. Kết quả điều tra về khó khăn của cha mẹ trong việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội
69
Bảng 2.7. Kết quả điều tra nhận thức của cha mẹ về chủ thể giáo dục
trẻ em ở ngoại thành Hà Nội
74








7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân cách là toàn bộ năng lực và phẩm chất xã hội - sinh lý - tâm lý tạo
thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và
tự điều chỉnh mọi hoạt động của cá nhân. Đó cũng là sự tổng hợp của các yếu

tố sinh học, tâm lý, xã hội tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần
kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng, biểu hiện bản sắc và giá
trị xã hội của con người.
Có thể nói nhân cách là một trong những yếu tố rất quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của mỗi con người (nhân cách, tài năng, sức khỏe là ba
yếu tố cơ bản nhất để mỗi cá nhân vững bước vào đời), nhất là đối với trẻ em.
Bởi vì trẻ em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước có vai trò quyết
định: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [54, tr.33].
Đối với mỗi trẻ em, việc hình thành nhân cách với tính cách là phẩm
chất và năng lực của bản thân là một vấn đề cần thiết góp phần vào việc hình
thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Qua sự tiếp thu những giá trị phổ biến
của văn hóa xã hội, mỗi cá nhân có sự chọn lọc để hình thành hệ thống các
giá trị tốt đẹp trong mỗi con người. Gia đình giúp trẻ em có khả năng nhìn
nhận, đánh giá, xem xét và giải quyết các mối quan hệ, các vấn đề xã hội theo
đúng chuẩn mực của xã hội, đồng thời giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện
trong mối quan hệ với cộng đồng xã hội.
Phát triển nhân cách cho trẻ em là một quá trình lâu dài và phức tạp, nó
được hình thành và phát triển dưới sự tác động của nhiều yếu tố như tiền đề
sinh học, tư chất di truyền học, thế giới quan và tập trung nhất là từ các môi
trường giáo dục, trong đó vai trò của gia đình là đặc biệt quan trọng.

8
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người.
Gia đình với tính cách là một “xã hội thu nhỏ”, một môi trường tác động trực tiếp
và thường xuyên đối với mỗi cá nhân, có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân
cách ở mỗi con người. Điều này đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại
hội XI: “Gia đình là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách”


góp phần chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động
giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính. Trong ý thức hệ
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, gia đình bao giờ cũng được coi là tổ ấm, là
môi trường đầu tiên làm phát sinh, nuôi dưỡng thể lực, trí lực và những tình cảm
trong sáng, tốt đẹp, hình thành nên nhân cách con người Việt Nam [69].
Trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, địa
bàn ngoại thành Hà Nội đang có những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc. Kinh tế,
chính trị, văn hóa phát triển khá mạnh, đời sống nhân dân đã được cải thiện
đáng kể. Nhưng bên cạnh đó, trong sâu thẳm của đời sống xã hội, địa bàn
ngoại thành Hà Nội đang phải đối mặt trước những vấn đề mang tính báo
động, đó là sự tha hóa về nhân cách đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ dân cư, nhất là trẻ em. Tỷ lệ trẻ em hư ngày càng gia tăng, tỷ lệ bạo lực,
bỏ học, nghiện hút, bất hiếu trong bộ phận trẻ em đang len lỏi phá hoại nếp
sống văn minh, đạo lý truyền thống tốt đẹp ngàn đời của Thủ đô nói riêng,
dân tộc nói chung. “Nỗi đau” này không của riêng ai, song gia đình có trách
nhiệm lớn hơn cả. Không ít gia đình nhận thức chưa đúng về vai trò của mình
trong việc hình thành và phát triển nhân cách, coi đó là nhiệm vụ của nhà
trường, xã hội, do vậy đã xem nhẹ trách nhiệm này.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao vị trí, vai trò của
gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội hiện
nay, tác giả chọn đề tài: “Gia đình với việc hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học.

9
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về gia đình và
vai trò giáo dục của gia đình, giáo dục nhân cách dưới những góc độ khác

nhau, có giá trị rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Cụ thể là:
Nhóm thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về gia đình và giáo dục
gia đình
Dạy con yêu l
a
o động do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1980. Theo
tác giả, muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe, vui tươi, yêu
đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về
lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội ), bởi phẩm
chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong quá trình lao động.
Gia đình truyền thống của TS. Khuất Thu Hồng (chủ biên) xuất bản năm
1996, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Cuốn sách cung cấp một cách nhìn khoa
học về hôn nhân gia đình truyền thống của người Việt Nam thông qua phỏng
vấn sâu các cụ ông, cụ bà ở thành thị nông thôn, với mong muốn gìn giữ và phát
huy những nét đẹp của nó cũng như thấy được những gì là không thích hợp của
nó với một đời sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gia đình trong tấm gương xã hội học do Mai Quỳnh Nam (chủ biên)
xuất bản năm 2002. Trong cuốn sách các tác giả đã tập hợp nghiên cứu về
gia đình trước những biến đổi xã hội trong bối cảnh của công cuộc đổi mới
và kinh tế thị trường.
Gia đình Việt Nam trong bối cảnh đổi mới do GS. Lê Thi (chủ biên)
xuất bản năm 2002. Trong cuốn sách tác giả đã làm rõ những thay đổi về cấu
trúc, quy mô về thực hiện các chức năng cũng như quan hệ giữa các thành
viên trong gia đình.
Mâu thuẫn vợ chồng trong gia đình và những yếu tố ảnh hưởng do
TS. Vũ Tuấn Huy (chủ biên) xuất bản năm 2003. Trong cuốn sách tác giả
gợi mở cho bạn đọc kiểm soát và giải quyết các xung đột. Xem mâu thuẫn

10
không phải là có ảnh hưởng tiêu cực phá vỡ hệ thống xã hội và sự tương tác

của con người, mà đúng hơn mâu thuẫn là vốn có trong tất cả các hệ thống và
sự tương tác, kể cả trong quan hệ hôn nhân và gia đình. Nếu các chuẩn mực
và mục tiêu trong hôn nhân và gia đình thường nảy sinh mâu thuẫn, vấn đề là
không phải lảng tránh những mâu thuẫn đó mà giải quyết nó. Khi mâu thuẫn
được giải quyết, nó không còn là yếu tố phá vỡ quan hệ hoặc chỉ mang lại
những hậu quả tiêu cực, mà trái lại nó củng cố các quan hệ, tạo ra sự thay đổi
và kết quả là quan hệ trở nên có ý nghĩa.
Gia đình học của Đặng Cảnh Khanh và Lê Thị Quý, xuất bản năm
2007, nhà xuất bản Lý luận chính trị. Trong cuốn sách các tác giả đề cập
nhiều vấn đề về gia đình giúp cho người học tập và nghiên cứu về gia đình
nhận thức được những vấn đề cơ bản nhất trong nghiên cứu và học tập về gia
đình. Trên cơ sở đó nêu lên những định hướng cơ bản cho việc xây dựng mô
hình gia đình mới kế thừa được các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại. Đồng thời các
tác giả còn nêu một hệ thống giải pháp giải quyết vấn đề gia đình ở nước ta
trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Ngoài những công trình lớn nêu trên, về chủ đề gia đình còn có nhiều
tác giả quan tâm ở mức độ hạn hẹp như:
Trách nhiệm của gia đình và vai trò của Nhà nước trong việc bảo vệ,
chăm sóc, giáo dục trẻ vị thành niên, GS. Lê Thi, Tạp chí tâm lý học, số 5
(2002). Trong bài viết tác giả nói lên rằng, ngoài việc gia đình có trách nhiệm
trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục vị thành niên, nhà nước cũng phải thể
hiện vai trò thông qua việc đưa ra một số luật, chính sách. Nhưng trong việc
bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ vị thành niên, gia đình vẫn là đơn vị cơ sở có
trách nhiệm nặng nề nhất và có khả năng nhất. Đồng thời với sự phối hợp
chặt chẽ giữa gia đình với nhà nước và cộng đồng sẽ làm tăng sức mạnh của
gia đình và tận dụng được hiệu quả tích cực của các tổ chức xã hội.

11
Tác động của toàn cầu hóa với việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt

Nam hiện nay, PGS.TS. Đỗ Thị Thạch (2010). Đề tài khoa học cấp cơ sở đã
đi sâu phân tích những tác động của toàn cầu hóa đối với bình đẳng giới
trong gia đình trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội. Từ đó đưa
ra những giải pháp chủ yếu để phát huy sự tác động tích cực, hạn chế sự tác
động tiêu cực nhằm thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Về xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam dưới ánh sáng Đại hội XI của
Đảng, PGS. TS. Đỗ Thị Thạch (2011), Tạp chí cộng sản số 56. Tác giả đã
phân tích và làm sáng tỏ vấn đề nhận thức của Đảng ta về vai trò của gia đình
và xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam trong thới kỳ mới và làm rõ những
giải pháp xây dựng gia đình Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng
Nhóm thứ hai: Những công trình về giáo dục nhân cách
Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con
người Việt Nam của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, Giáo sư Lê
Thi (chủ biên), do xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1997. Tập thể các tác giả cho
rằng, những thành tựu to lớn của cách mạng khoa học và công nghệ trong những
năm cuối thế kỷ XX, đang đưa lại những khả năng sáng tạo, trí thông minh tuyệt
vời cho con người và hứa hẹn đem lại những tiến bộ vượt bậc cho cuộc sống của
cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Các tác giả cũng khẳng định
sự phát triển của xã hội không thể tách rời sự phát triển của con người và vai trò
của con người trong việc bồi dưỡng, xây dựng nhân cách con người.
Xây dựng con người Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
điều kiện kinh tế thị trường, do Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm (2001-2005).
Tác giả đã nghiên cứu về con người với tư cách là mục tiêu và động lực của
sự phát triển kinh tế xã hội, nghiên cứu đạo đức trong cấu trúc nhân cách,
thực hiện giáo dục đạo đức trong quá trình phát triển nhân cách, xem đó là
mục tiêu quan trọng nhất của việc thực hiện chất lượng giáo dục.

12
Chiến lược phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các
quốc gia (2002), Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia Hà Nội. Đây là tập hợp các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
có liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục nước ta giai đoạn
hiện nay. Ngoài ra các tác giả còn đề cập đến việc rèn luyện phương pháp tư
duy khoa học, trên cơ sở đó giáo dục thế giới quan nhân sinh quan, bồi dưỡng
ý thức đạo đức, hướng dẫn thực hiện các hành vi đạo đức cho học sinh.
Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay do Đào Thị Oanh (chủ
biên) (2007) Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách tổng hợp và khái
quát lý luận tâm lý học về nhân cách, đề xuất các giải pháp về hình thành,
phát triển nhân cách trong công tác giáo dục thế hệ trẻ.
Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhân cách, giáo dục nhân
cách, vai trò của gia đình, giáo dục đạo đức, nhưng đến nay vẫn chưa có
công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách trực tiếp có hệ thống về
“Gia đình với việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại
thành Hà Nội hiện nay”. Vì vậy đề tài luận văn không trùng lặp với các
công trình đã được công bố. Những tài liệu trên giúp ích cho tác giả trong
việc tham khảo để nghiên cứu đề tài viết luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ thực trạng vai trò của gia đình trong việc hình thành
và phát triển nhân cách của trẻ em ở ngoại thành Hà Nội, luận văn nêu ra
những quan điểm và đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia
đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở ngoại thành
Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau đây:
+ Làm rõ vai trò của gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ em.

13
+ Phân tích thực trạng vai trò của gia đình và những vấn đề đặt ra trong

việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở ngoại thành Hà Nội hiện nay.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong
việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em ở ngoại thành Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu về vai trò của gia đình trong việc hình
thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở ngoại thành Hà Nội hiện nay (chủ
yếu nghiên cứu trẻ em đang trong độ tuổi còn ảnh hưởng bởi sự nuôi dưỡng
chăm sóc giáo dục của gia đình, giới hạn dưới 18 tuổi. Nghiên cứu vai trò của
gia đình ở mọi loại hình công nhân, nông dân, trí thức trên địa bàn nghiên cứu).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là một số huyện điển hình ở ngoại thành Hà Nội
Một số huyện điển hình của ngoại thành Hà Nội như: Phúc Thọ, Từ Liêm, thị xã
Sơn Tây. Đây là những địa bàn tiêu biểu cho những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.
- Phúc Thọ là một huyện thuần nông, kinh tế chưa phát triển, đời sống
nhân dân trong huyện còn khó khăn. Trình độ dân trí chưa cao nhưng tệ nạn
xã hội lại đang có xu hướng gia tăng
- Từ Liêm là huyện ven đô, kinh tế những năm qua phát triển rất nhanh
và cùng với nó là những vấn đề xã hội cần báo động, tệ nạn xã hội phát triển
nhanh, nhất là tình trạng trẻ em hư gia tăng…
- Thị xã Sơn Tây là khu vực phát triển mạnh về kinh tế - văn hóa giáo
dục. Đây là khu vực tập trung nhiều các gia đình bộ đội, trí thức, tuy nhiên số
trẻ phạm tội trên địa bàn cũng khá cao.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm của Đảng ta

14
trong thời kỳ đổi mới liên quan đến gia đình, vai trò của gia đình với việc

hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em, có tham khảo thêm các tài liệu
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tài
liệu, phương pháp logic và lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp,
thống kê xã hội học.
6. Những đóng góp của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn tầm quan trọng
của gia đình trong việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em từ
hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu dưới góc độ chính trị - xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong
việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em ở ngoại thành Hà Nội.
7. Ý nghĩa của luận văn:
Đề tài tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm những luận điểm, các
vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình, vai trò của gia đình.
Luận văn góp thêm một tiếng nói, một kinh nghiệm để các bậc cha mẹ
tham khảo nhằm phát huy vai trò của gia đình, đồng thời cung cấp thêm tư
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa
học và môn Giáo dục công dân ở các trường phổ thông.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.



15
Chương 1
NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC

HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CHO TRẺ EM


1.1. Nhân cách và các yếu tố hình thành nhân cách
1.1.1. Quan niệm về nhân cách và cấu trúc nhân cách
1.1.1.1. Quan niệm về nhân cách
Để hiểu nhân cách là gì, trước tiên chúng ta phải tìm hiểu về con người
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người là một thực thể
sinh học - xã hội. Những yếu tố, đặc điểm sinh học và xã hội trong con người
có sự thống nhất biện chứng với nhau để tạo nên bản chất người. Trong tác
phẩm Luận cương về
P
hoiơb

c, C.Mác viết: “Bản chất con người không phải
là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [44, tr.11]. Theo
quan điểm này, con người vừa mang bản tính tự nhiên vừa mang bản tính xã
hội, trong đó, bản tính xã hội là phương diện cơ bản của con người, là cái để
phân biệt con người với các tồn tại khác của tự nhiên. Vấn đề này đã tạo nên
một bước ngoặt quan trọng trong tư duy của nhân loại khi nhận thức và nghiên
cứu về con người, bản chất của con người và những vấn đề xung quanh nó.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích con người xuất phát từ con người
thực tiễn và chỉ rõ: thông qua hoạt động thực tiễn con người làm biến đổi đời
sống xã hội, đồng thời cũng là biến đổi chính bản thân mình. Điều đó có nghĩa
con người tiếp nhận bản chất xã hội của mình thông qua hoạt động thực tiễn.
Xét về mặt sinh học “con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [49, tr.135]
phát sinh trực tiếp từ động vật. Cũng như mọi sinh vật khác, con người sống dựa vào
tự nhiên nhưng khác ở chỗ con người không chỉ dựa vào mà còn cải tạo giới tự
nhiên, tạo ra “tự nhiên thứ hai” xung quanh mình. Ph.Ăgghen chỉ ra bước chuyển

từ vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người lao động cải tạo
giới tự nhiên cũng là quá trình con người tạo ra chính mình. Lao động sáng tạo ra
con người là theo nghĩa ấy.

16
Chủ nghĩa Mác thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với
việc hình thành bản chất con người nhưng cũng không phải vì vậy mà coi
nhẹ mặt tự nhiên, phủ nhận yếu tố sinh vật trong con người. Theo Mác, giới
tự nhiên là thân thể của con người. Mỗi người sinh ra trước hết là một thực
thể tự nhiên, một sản phẩm của tự nhiên, một bộ phận của vũ trụ và chịu sự
chi phối của các quy luật tự nhiên phức tạp.
Sự khác nhau giữa con người và con vật, theo Mác con vật hoạt động
theo bản năng còn con người hoạt động theo ý thức. Con người hoạt động
không phải theo những bản năng di truyền, có sẵn như những loại động vật
thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển của văn hóa, của tiến bộ lịch sử -
xã hội. Khi xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng.
Sự phát triển của mỗi con người là tiền đề cho sự phát triển của xã hội vì mỗi
người đều sống trong một xã hội nhất định, là sản phẩm của lịch sử - xã hội,
sản phẩm của nền văn minh nhân loại.
Từ con người tự nhiên phát triển thành một nhân cách, con người phải
trải qua hàng loạt những tác động, chi phối những yếu tố chủ quan và khách
quan, theo cả quy luật tự nhiên và xã hội. Sự phát triển của con người là sự
trưởng thành cả về thể chất lẫn tinh thần. Sự phát triển về thể chất là sự trưởng
thành sinh học, cơ bắp, thần kinh và các cơ quan chức năng khác theo quy luật
tự nhiên. Sự phát triển về tinh thần là sự trưởng thành về tâm lý, ý thức trên cơ
sở sự vận động và phát triển vốn có của nó, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa văn hóa nhân loại theo quy luật tâm lý và quy luật xã hội.
Sự phát triển thể chất gắn liền với sự phát triển tinh thần theo quy luật
phát triển tâm sinh lý lứa tuổi. Đó là sự biến đổi về số lượng, chất lượng và
sự chuyển hóa chúng cho nhau, là bước phát triển nhảy vọt của từng cá nhân

về năng lực và phẩm chất phù hợp với lịch sử xã hội và thời đại. Sự phát
triển đó tạo nên nhân cách của con người, trong đó có nhân cách của trẻ em.
Bản chất của một con người cụ thể là tổng hòa các quan hệ xã hội “vốn
có” và quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó.

17
Còn tất cả những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện
tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không
phải theo con đường thẳng trực tiếp mà thường là gián tiếp, quanh co theo
hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức
khoa học, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa bản năng sinh vật và hoạt
động có ý thức, giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã hội.
Như vậy con người là một thực thể tự nhiên mang tính xã hội, có sự
thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Sự tác động qua
lại giữa hai mặt trong một con người tạo nên bản chất của một con người. Bản
chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực, nó không phải là cái
vốn có trong mỗi cá thể riêng lẻ mà là tổng hòa của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây
là phát hiện có giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác về bản chất con người. Và chính
phát hiện đó giúp chúng ta có thể đi sâu tìm hiểu kỹ về bản chất con người. Bản
chất của con người lại được thể hiện sống động trong mỗi cá nhân.
Cá nhân là khái niệm dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong
một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác
thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của chúng. Mỗi cá nhân là một
chỉnh thể thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ
thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện
chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử [8, tr.185-186].
Xã hội là do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt
động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện
lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong mối quan hệ

với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách là phương thức tồn tại của giống
loài "người". Không có con người nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm
tính. Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã hội,
là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách. Cá nhân được hình thành và phát
triển chỉ trong quan hệ xã hội. Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá

18
nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã
hội của cá nhân" mang tính định hướng về thế giới quan, phương pháp luận
cho hoạt động của con người trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó. Cá nhân người là
một thành viên của xã hội, là khách thể mang “tổng hòa các quan hệ xã hội”,
Nó không những chịu ảnh hưởng mà còn tạo ra những quan hệ xã hội.
Nếu cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với giống
loài, sự khác biệt đó được thể hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân
khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt giữa những yếu tố bên
trong riêng biệt của các cá nhân.
Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của một xã hội
nhất định, là chủ thể các mối quan hệ con người, của hoạt động có ý thức và
giao tiếp thì chúng ta nói đến nhân cách của họ. Chúng ta chỉ có thể nói đến
con người như là một nhân cách bắt đầu từ một thời kỳ nào đó trong quá trình
phát triển của nó. Nói cách khác, không phải mọi cá thể người, với cá tính của
mình đều là nhân cách.
Đứng trên quan điểm mác - xít, xuất phát từ nguyên tắc thừa nhận bản
chất của con người để nghiên cứu đã có rất nhiều lý thuyết khoa học về nhân
cách. Quan niệm sinh vật hóa nhân cách, coi bản chất nhân cách nằm trong các
đặc điểm hình thể (Krest Chmev), góc mặt (C. Lombrozo), thể trạng (Sheldon)
bản năng vô thức (S. Freud). Còn quan điểm xã hội học hóa nhân cách thì
lấy quan hệ xã hội (gia đình, họ hàng, làng xóm ) để thay thế một cách đơn
giản, máy móc các thuộc tính của cá nhân đó.
Trong những quan niệm trên, có những quan niệm chỉ chú ý đến cái chung

bỏ qua cái riêng trong nhân cách, đồng nhất nhân cách với con người. Ngược lại,
một số quan niệm chỉ chú ý tính đơn nhất có một không hai của nhân cách.
Các nhà tâm lý học cho rằng khái niệm nhân cách là một phạm trù xã hội,
có bản chất xã hội - lịch sử, nghĩa là nội dung của nhân cách là nội dung của
những điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội được chuyển vào trong mỗi con người.

19
Theo A. G .Covaliov: “Nhân cách là một cá nhân có ý thức, chiếm một
vị trí nhất định trong xã hội và đang thực hiện một vai trò xã hội nhất định”.
Còn E.V.Sorokhova nhấn mạnh: “Nhân cách con người với tư cách là kẻ
mang toàn bộ thuộc tính và phẩm chất tâm lý, quy định hình thức hoạt động
và hành vi có ý nghĩa xã hội”. “Nhân cách không phải được sinh ra mà được
hình thành” (A.N.Leonchev). Nhà tâm lý học Xô Viết X.L.Rubinstein lại viết:
“Con người là cá tính do nó không có những thuộc tính đặc biệt, không lặp
lại, con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ của mình với những
người xung quanh một cách có ý thức’’. Còn với V.N. Miasaev thì chú trọng
tới khía cạnh thái độ trong nhân cách, thái độ đối với người khác, với bản
thân, với thế giới bên ngoài.
Tuy có nhiều cách quan niệm khác nhau về nhân cách nhưng nhìn chung
các tác giả đều nhấn mạnh đến tính xã hội của con người, nhân cách là chủ thể
trong các hoạt động, trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, nhân cách thường
được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người với thế giới
xung quanh và đối với bản thân mình. Quan hệ của con người với thế giới xung
quanh được biểu hiện trong niềm tin của họ, trong thế giới quan, trong thái độ
của họ đối với những người khác nhưng điều chủ yếu nhất là trong hoạt động
giao tiếp của họ. Quan hệ của con người đối với bản thân được biểu hiện trong
những biểu tượng của họ và của bản thân mình, trong sự tự đánh giá của họ,
trong những lý tưởng của họ, trong cái mà họ muốn nhìn nhận như vậy.
Trong các công trình nghiên cứu về con người (1991- 1995) các tác giả
đã nêu: Nhân cách của con người là hệ thống các thái độ của mỗi người thể

hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước đo giá trị của người ấy với
thang giá trị và thước đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù hợp càng cao
thì mức độ càng lớn [65, tr.138].
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm: “Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc
độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi

20
cá nhân, nhân cách là bản chất con người”. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tiếp cận
nhân cách như một quá trình mở rộng và đi sâu từ con người hiện thực, từ bản
chất xã hội, quan hệ sản xuất đến hệ thống các giá trị và chức năng xã hội của
con người. Theo quan điểm đó, nhân cách chính là tổng hợp các yếu tố phản
ánh bản chất xã hội của con người, nhưng được hình thành trên cơ sở, điều
kiện, tiền đề sinh học của con người, chứ không đối lập, cũng không tách
rời khỏi tiền đề sinh học của nó. Nhân cách của một con người không phải
là sản phẩm tự
nhiên do bẩm sinh và di truyền, mà được hình thành dần
dần trong
hoạt động và giao tiếp của con người.
Trong quá trình sống, con người đã làm biến đổi các phẩm chất tự
nhiên của mình, nhưng những biến đổi đó không tạo ra nhân cách. Nhân cách
được hình thành và phát triển như những quan hệ xã hội mà trong đó cá nhân
đang lớn lên và đang biến đổi, bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình.
Chính trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người, các
đặc điểm của họ với tư cách là cá tính được biến đổi và trở thành những đặc
điểm mang tính người đích thực, tính xã hội- đạo đức.
Đi sâu tìm hiểu về nhân cách ta thấy rằng, nhân cách là nội dung là trạng
thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng biệt của mỗi cá nhân do sự tác động
tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân “dấn
thân” vào cuộc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hóa của xã hội vào
bên trong mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế

giới riêng của mình. Với nhân cách riêng mỗi cá nhân có khả năng ý thức về
mình, làm chủ cuộc sống của mình lựa chọn chức năng, niềm vui và trách
nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội. Đây chính là quá trình kép, xã hội hóa cá
nhân và cá nhân hóa xã hội, cá nhân xã hội và cá nhân nhân cách cùng thống
nhất với nhau.
Như vậy, có thể hiểu nhân cách là tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng
biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt
động giao tiếp. Có thể coi nhân cách như là toàn bộ những đặc điểm cùng

21
với những phẩm chất ch

t tâm lý cá nhân có tác dụng quy định giá trị và
hành vi xã hội của một con người. Tất cả những cái đó sẽ góp phần tạo nên
được nét đặc trưng của bản sắc và giá trị xã hội trong nhân cách của họ.
Nhân cách được coi là tổng hoà không phải mọi đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ những phẩm chất chung nào quy định nó như là một thành
viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động và một nhà hoạt
động xã hội có ý thức.
Nhân cách là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội, của hoạt động mà con
người thực hiện trong những môi trường và điều kiện xác định của quá trình
giáo dục xã hội mà con người tiếp nhận đồng thời chuyển hóa thành tự giáo
dục chính bản thân mình.
Nhân cách là tổ hợp, là hệ thống các thuộc tính tâm sinh lý chứ không
phải là một vài thuộc tính. Hệ thống các đặc điểm tâm-sinh lý của một cá
nhân được thể hiện qua hành vi của cá nhân khi hoạt động và giao tiếp với
người khác. Những hành vi đó được xã hội nhận xét, đánh giá so với chuẩn
mực giá trị của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử. Nhân cách của chủ thể sẽ
luôn luôn được sống động hiện thực qua toàn bộ những hành vi, quan hệ xã
hội trong suốt tiến trình của cuộc sống của họ. Việc tổng hoà tất cả những

thuộc tính của thể chất cũng như tài năng, phong cách, ý thức, đạo đức, vai trò
xã hội của chủ thể để tạo thành một hệ thống - cấu trúc xác định với một bản
sắc riêng và có cá tính rõ nét sẽ góp phần hình thành được một cấu tạo đặc
biệt là nhân cách. Ở con người, cái sinh lý cũng như cái xã hội và cái tâm lý
sẽ luôn luôn có sự tác động biện chứng với nhau trong mọi thời gian - không
gian sống để tạo ra những nét đặc trưng của nhân cách. Tất cả ba yếu tố này
đều có sự ảnh hưởng, tác động qua lại và quy định lẫn nhau trong việc hình
thành nhân cách. Vì vậy, cần thiết phải có cách tiếp cận cụ thể, toàn diện và
đặc thù khi phân tích quá trình phát triển nhân cách của trẻ, để từ đó, biết cách
xác định được nội dung các tác động giáo dục cho phù hợp, giúp trẻ hình
thành những phẩm chất nhân cách tốt.

22
1.1.1.2. Cấu trúc nhân cách
Nhân cách của con người theo quan điểm của các nước phương
Đông chịu sự tác động của 3 tôn giáo lớn: Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo
và cho rằng nhân cách bao gồm 2 thành phần: Đức và Tài. Đức và Tài có
mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau tạo nên nhân cách của một
người [15].
Theo H.J.Eysenck, nhân cách có 3 bình diện: hướng ngoại, nhiễu tâm
(ổn định hay không ổn định) và loạn tâm (tư duy thực tiễn hay không thực
tiễn). Sự khác biệt nhân cách dựa trên 3 bình diện này là do sự khác biệt về
gen sinh học của mỗi người. Còn với S.Freud thì tảng băng tâm trí của con
người gồm 3 cấp bậc: ý thức, tiền ý thức và vô thức. Trong 3 cấp độ ấy, 3
thành phần cơ bản của nhân cách là: cái Ấy (Id), cái Tôi (Ego) và cái Siêu Tôi
(Super Ego) tồn tại, đấu tranh và chế ước lẫn nhau. Nhân cách của một người
tùy thuộc vào yếu tố nào thắng thế trong cuộc đấu tranh giữa 3 yếu tố trên.
C.G.Jung và E. Kretschmer thì quan niệm nhân cách con người có mối liên hệ
mật thiết với các đặc điểm sinh học, thể tạng và đặc điểm của hệ thần kinh. E.
Kretschmer cho rằng, các thành phần cấu tạo nên cơ thể có mối quan hệ và

quy định các thành phần tâm lý của nhân cách.
Quan điểm của A.G.Covaliov nhân cách bao gồm 4 thuộc tính: Xu
hướng, năng lực, tính cách và khí chất. Xu hướng thể hiện chiều hướng phát
triển của nhân cách, tính cách biểu hiện đạo đức, cốt cách làm người; năng
lực thể hiện khả năng của con người và khí chất thể hiện hành vi của con
người. Quan điểm của A.G.Covaliov về cấu trúc nhân cách được nhiều nhà
tâm lý học Việt Nam thừa nhận.
Ở Việt Nam thì Đức và Tài là cách nói quen thuộc được sắp xếp thành
2 mặt thống nhất là phẩm chất và năng lực dưới sự chỉ đạo của ý thức "bản
ngã " tức là cái tôi.

23
Đức (phẩm chất )
Tài (năng lực )
1. Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính
trị). Bao gồm: Thế giới quan, nhân sinh
quan, lập trường, thái độ chính trị, thái
độ lao động, lý tưởng niềm tin
1. Năng lực xã hội hóa gồm: Khả
năng thích ứng, khả năng sáng tạo,
khả năng cơ động, linh hoạt, mềm
dẻo trong cuộc sống xã hội.
2. Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức tư
cách). Bao gồm: Các tính nết, thói
quen, ham muốn, hứng thú
2. Năng lực chủ thể hóa. Bao gồm:
Khả năng biểu hiện tính độc đáo, biểu
hiện cái riêng, sáng kiến, bản lĩnh
3. Phẩm chất ý chí gồm: Tính kỷ luật
tự chủ, tính mục đích, quả quyết, tính

phê phán hoài nghi khoa học
3. Năng lực hành động: Khả năng
hành động có mục đích, có điều
khiển, Chủ động tích cực
4. Cung cách ứng xử gồm: Tác phong,
tính khí, lễ tiết
4. Năng lực giao lưu: Khả năng thiết lập
và duy trì mối quan hệ với người khác

1.1.2. Các yếu tố hình thành nhân cách
Thứ nhất: Yếu tố sinh học
Không thể có nhân cách trừu tượng ở bên ngoài một con người bằng
xương bằng thịt mà là nhân cách của một con người cụ thể sống trong một xã
hội cụ thể. Ngay từ lúc đứa trẻ sinh ra đã có những đặc điểm hình thái sinh lý
của con người bao gồm các đặc điểm bẩm sinh và di truyền.
Di truyền không quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển
nhân cách của cá nhân. Di truyền đóng vai trò là tiền đề vật chất, là cơ sở sinh
học cho sự hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân. Thừa hưởng
những đặc tính di truyền tốt từ thế hệ trước là điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển toàn diện của một nhân cách. Mỗi trẻ em sinh ra đã kế thừa những phẩm
chất sinh vật của các thế hệ cha ông mình, mang dấu ấn đặc trưng của nòi
giống, đó gọi là hiện tượng di truyền. Di truyền học đã chứng minh rằng, các
thế hệ con người có thể truyền lại cho nhau những đặc điểm về cấu tạo cơ thể

24
về các loại thần kinh, về chức năng hoạt động của chúng tạo thành sức sống
tự nhiên của con người. Sức sống tự nhiên là những tiền đề vật chất có vai trò
quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Tư chất thông minh,
gen di truyền có vai trò là “nhân tố gốc” tạo nên năng lực nhận thức, tư duy
của trẻ nhỏ. Nhờ yếu tố bẩm sinh, di truyền dưới sự tác động của các môi

trường giáo dục gia đình nhà trường, xã hội đã hình thành nên nhân cách,
phẩm chất, lối sống tốt trong mỗi cá thể người. Vì vậy gia đình cần phải đánh
giá đúng vai trò của yếu tố sinh học, thấy được tầm quan trong của nó và
không nên tuyệt đối hóa mặt sinh học để tránh những sai lầm trong nhận thức
cũng như trong việc tổ chức giáo dục con cái.
Thứ hai: Hoạt động và giao tiếp
Loài người phát triển, tiến hóa và hoàn thiện như ngày nay là kết quả
của hoạt động, chính hoạt động là phương thức tồn tại của loài người. Vì thế,
hoạt động là tính tích cực của nhân cách, là yếu tố quyết định trực tiếp đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của cá nhân, đặc biệt là hoạt động chủ đạo.
Vì thế, để hoàn thiện về nhân cách, cá nhân phải tích cực, chủ động tham gia
các hoạt động của nhóm và cộng đồng.
Hoạt động của trẻ em bao gồm: học tập, vui chơi, văn nghệ, thể dục,
thể thao, lao động và hoạt động tập thể… trẻ em sẽ hình thành được
những nét tính cách, phẩm chất năng lực khi tham gia tích cực vào các
loại hình hoạt động đa dạng đó, hiểu biết và tiếp thu các giá trị văn hóa
của loài người.
Thông qua quá trình giao tiếp, con người lĩnh hội nhiều nguồn tri thức,
kinh nghiệm, kỹ năng… từ người khác đồng thời điều chỉnh, thay đổi bản thân
cho phù hợp với những yêu cầu của mối quan hệ giao tiếp cũng như những
chuẩn mực của xã hội. Chính vì thế, giao tiếp giúp cá nhân tăng trưởng về
lượng để biến đổi về chất trong quá trình phát triển nhân cách. Khi cá nhân tiến
hành thực hiện những nhiệm vụ của một hoạt động hoặc giao tiếp xác định một

25
cách có ý thức, có mục đích nhằm nhận thức đối tượng cũng như tác động cải
tạo - nắm bắt - biến đổi nó thành ra những giá trị vật chất - tinh thần nào đó và
đang tồn tại trong các mối quan hệ xã hội cụ thể sẽ được coi là một chủ thể.
Phức hợp toàn bộ những
nét cá tính quy định bản chất con người với tư cách là

một thành viên của xã
hội cũng như một công dân, người lao động, một nhà
hoạt động xã hội có ý thức sẽ làm thành nhân cách.
Hoạt động và giao tiếp là hai mặt cơ bản, thống nhất trong cuộc sống con
người. Tính đa dạng của hoạt động tạo nên tính đa dạng của giao tiếp. Phương
thức mục đích của giao tiếp giúp cá nhân chiếm lĩnh được những giá trị đích
thực của cuộc sống. Qua giao tiếp trẻ sẽ tìm ra được những lẽ phải, chân lý, rút
ra được kinh nghiệm sống, hình thành nên những nét tính cách điển hình.
Thứ ba: Yếu tố giáo dục
Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách của cá nhân. Thông qua hoạt động giáo dục, cá nhân được tác động
có mục đích, có phương pháp và có kế hoạch để thay đổi theo những chuẩn
mực, giá trị xã hội quy định. Ba lực lượng giáo dục ảnh hưởng rất lớn đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ là gia đình, nhà trường và xã hội.
Ba lực lượng trên phải phối hợp chặt chẽ trong việc giáo dục nhân cách lành
mạnh cho trẻ. Tuy nhiên, trong thời đại công nghiệp hóa và hiện đại hóa như
hiện nay thì giáo dục gia đình lại ngày càng có xu hướng bị xem nhẹ. Hầu hết
các bậc cha mẹ thường khoán trắng cho nhà trường trong việc giáo dục trẻ
trong khi giáo dục gia đình là lực lượng quan trọng. Ngoài ra, tự giáo dục
cũng là yếu tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển về nhân
cách của cá nhân.
Giáo dục là điều kiện quan trọng để tạo ra sự biến đổi về chất của cá
nhân. Giáo dục trang bị cho con người những điều căn bản nhất, giúp con
người phát huy hết tiềm năng của bản thân mà di truyền, giao tiếp… không
thể có được. Tuy nhiên, giáo dục không phải là chiếc chìa khóa vạn năng có
thể mở mọi cánh cửa đã bị khóa chặt.

×