ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
_________________________________
NGUYễN THị HƯƠNG
NHữNG NHÂN Tố TáC ĐộNG ĐếN Sự BIếN ĐổI
CủA GIA ĐìNH VIệT NAM HIệN NAY
LUậN VĂN THạC Sĩ TRIếT HọC
Hà Nội, 2014
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
_________________________________
NGUYễN THị HƯƠNG
NHữNG NHÂN Tố TáC ĐộNG ĐếN Sự BIếN ĐổI
CủA GIA ĐìNH VIệT NAM HIệN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 66 22 85
LUậN VĂN THạC Sĩ TRIếT HọC
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. D-ơng Văn Duyên
Hà Nội, 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
NỘI DUNG 7
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH 7
1.1. Gia đình và chức năng của gia đình 7
1.1.1 Khái niệm gia đình 7
1.1.2. Chức năng của gia đình 13
1.2. Biến đổi gia đình và những nhân tố tác động đến sự biến đổi của
gia đình 19
1.2.1. Khái niệm biến đổi gia đình 19
1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam 23
Kết luận chương 1 47
Chƣơng 2. BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DƢỚI SỰ
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 49
2.1. Thực trạng một số biến đổi của gia đình ở nước ta hiện nay 49
2.1.1. Những mặt tích cực của sự biến đổi gia đình ở nước ta hiện nay 49
2.1.2. Những mặt tiêu cực của sự biến đổi gia đình ở nước ta hiện nay 64
2.2. Một số giải pháp chủ yếu xây dựng gia đình Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hóa và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. 72
2.2.1 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý của các cấp
chính quyền và hoạt động của các tổ chức xã hội đối với công tác gia
đình 72
2.2.2. Đổi mới chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước để hỗ trợ
cho các gia đình 76
2.2.3. Kế thừa những di sản đạo đức truyền thống của gia đình Việt
Nam và tiếp thu những giá trị nhân văn của gia đình hiện đại trong
xây dựng gia đình 78
2.2.4. Đổi mới nội dung, phương pháp và tăng cường vai trò giáo
dục của gia đình 80
2.2.5. Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về giá trị
đạo đức truyền thống 85
2.2.6. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận về gia đình, điều tra,
khảo sát toàn diện về gia đình 86
Kết luận chương 2 87
KẾT LUẬN 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
LỜI CẢM ƠN
Luận văn hoàn thành là kết quả của cả một quá trình học tập và nghiên
cứu của em tại khoa Triết học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa cùng toàn thể các bạn
học viên trong tập thể lớp. Đặc biệt, em xin được bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới
thầy giáo TS. Dương Văn Duyên, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ
bảo và luôn động viên em trong quá trình làm luận văn để em hoàn thành luận
văn thạc sĩ này.
Trong quá trình làm luận văn, chắc chắn sẽ còn những hạn chế và
thiếu sót không thể tránh khỏi, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô và các bạn để luận văn của em được bổ sung và hoàn
thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn !
Bắc Giang, ngày 08 tháng 08 năm 2014
Học viên
Nguyễn Thị Hƣơng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu trích dẫn trong luận văn là chính xác và
trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Hƣơng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi người luôn luôn nhớ về tổ ấm gia đình, nơi mình được sinh ra, lớn
lên trong tiếng ru hời của mẹ, tình thương yêu trầm lặng vô bờ bến của cha.
Để rồi khi lớn lên và trưởng thành hòa mình vào sắc màu muôn vẻ của cuộc
sống, bộn bề công việc giữa đời thường, nhưng mối quan hệ với gia đình vẫn
được duy trì bền chặt theo suốt cuộc đời mình. Cái nôi gia đình được kết hợp
với nhà trường và xã hội là ba môi trường giáo dục cần thiết cho sự hoàn
thiện của mỗi người. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định: giai đoạn giáo dục
trong gia đình là cơ sở quan trọng để hình thành tài năng, nhân cách con
người. Gia đình cũng là nơi con người cảm thấy yên bình nhất, là nơi nuôi
dưỡng cả thể chất và tâm hồn khi chúng ta còn nhỏ, là nơi có những phút giây
đầm ấm sau những bộn bề lo toan công việc khi đã trưởng thành và là nơi
nương tựa khi con người ta về già.
Gia đình là một vấn đề đang thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều quốc
gia trên thế giới. Càng quan tâm đến con người, chúng ta càng phải suy nghĩ
về nó. Là một yếu tố cấu thành của xã hội, gia đình phản ánh một cách chân
thực, rõ nét những mối quan hệ xã hội đa dạng và phức tạp. Nhận thức được
tầm quan trọng của gia đình, cho nên Liên hợp quốc đã lấy năm 1994 làm
năm quốc tế gia đình với khẩu hiệu: xây dựng nền dân chủ nhỏ nhất ở ngay cơ
sở của xã hội…khẩu hiệu này có nghĩa là xây dựng gia đình thành một nơi mà
ở đó, các nhu cầu được đáp ứng, những khác nhau được chấp nhận, quyền
chính đáng của con người được tôn trọng, mọi cá nhân đều được tạo điều kiện
để đóng góp có ý nghĩa cho một cuộc sống tốt đẹp hơn của gia đình mình, cho
tương lai, cho cộng đồng và cho xã hội.
Trong quá trình đổi mới và hội nhập của đất nước, chúng ta đã thu
được nhiều thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội…Tuy
nhiên, với sự tăng trưởng và phát triển của đất nước chúng ta phải chứng kiến
những thay đổi của gia đình dưới nhiều góc độ khác nhau. Gia đình Việt Nam
2
đang phải chứng kiến một sự thật đau lòng là tỷ lệ ly hôn ngày một gia tăng,
con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, cha mẹ, anh chị em đưa nhau ra tòa, người
già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em không được chăm sóc giáo dục chu
đáo, phó mặc cho nhà trường, xã hội…
Trước hiện tượng này, những người quan tâm đến gia đình đã tỏ ra lo
lắng, băn khoăn và còn gọi là “sự khủng hoảng gia đình”. Những nhà nghiên
cứu đã đặt ra câu hỏi vậy đâu là những nguyên nhân gây ra sự biến đổi đó?
Liệu đây có phải là quy luật khách quan, tất yếu của cơ chế thị trường hay
không? Song một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng hậu quả của hiện
tượng này – tức sự xuống cấp của thiết chế gia đình, đến một lúc nào đó nếu
không được điều chỉnh sẽ quay lại phá vỡ chính thiết chế xã hội cũng như sự
tăng trưởng kinh tế bước đầu của đất nước ta hiện nay. Vậy những yếu tố gì
đã và đang tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay? Khi trả
lời được câu hỏi này chúng ta sẽ có nhận thức một cách toàn diện và đưa ra
những chính sách hợp lý để gia đình xứng đáng là trường học đầu tiên của thế
hệ trẻ, để nhân cách và văn hóa của thế hệ trẻ sớm được nảy nở và phát huy.
Vì vậy việc làm rõ “những nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt
Nam hiện nay” vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nên tôi đã chọn đề tài này
làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về gia đình
dưới nhiều góc độ và quy mô khác nhau. Liên quan đến đề tài của luận văn có
thể phân chia các công trình này thành các nhóm cơ bản như sau:
Nhóm vấn đề quan hệ giới và sự bất bình đẳng, bạo lực gia đình, có
một số công trình như: “Một số vấn đề về bạo lực gia đình hiện nay” của Lê
Thị Quý, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4 - 1991; “Bất bình đẳng nam nữ
nhìn từ góc độ lịch sử” của Lê Thị Quý, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 32 –
1998; “Bạo lực gia đình - bất bình đẳng trong quan hệ giới” của Lê Thị Quý,
Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 42 – 2000; “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch
3
giá trị”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007…Qua các bài viết này, các tác
giả đã chỉ ra thực trạng, nguyên nhân, ảnh hưởng và hậu quả của sự bất bình
đẳng giữa các thành viên, nạn bạo lực gia đình đang diễn biến nghiêm trọng
đang tác động đến gia đình và xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhóm vấn đề tiếp cận và nghiên cứu gia đình dưới góc độ văn hóa, đạo
đức có một số công trình như: “Nho giáo và gia đình”, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội 1995; “Xây dựng gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới” Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007; “Văn hóa gia đình và xây dựng gia đình
văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của Th.S Trần Thị Tuyết Mai, Tạp
chí Cộng sản, số 161 – 2008. Qua các công trình này, các tác giả đã khái quát
được những giá trị văn hóa của gia đình, chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng văn
hóa gia đình và gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Đây chính là một
trong những giải pháp quan trọng của việc hạn chế những tác động tiêu cực
của các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến đổi của gia đình hiện nay.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu có rất nhiều bài viết trên các tạp
chí khoa học như: Ngô Ngọc Anh – Hoàng Thị Tây Ninh với bài viết: “giáo
dục gia đình với hành vi sai lệch ở trẻ vị thành niên”, Tạp chí gia đình và trẻ
em số 4 năm 2005; Lê Thị Quý với bài viết “ Gia đình Việt Nam – nghiên cứu
và đề xuất”, Tạp chí Gia đình và trẻ em; Lương Thị Cảnh trong tạp chí Gia
đình và trẻ em có bài viết “Gia đình Việt Nam trước thách thức toàn cầu hóa”
(số 8/2005); Nguyễn Linh Khiếu với bài viết “Gia đình và một số vấn đề đặt
ra ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học số 3, tháng 6 năm 1999, Lê Thảo
với bài viết “ Gia đình Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường”, Tạp chí Cộng sản số 792, tháng 2 năm 2009. Trong các bài viết trên,
các tác giả đã đưa ra vai trò giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ, những
thuận lợi và khó khăn đối với các gia đình trong quá trình toàn cầu hóa, đồng
thời các tác giả đã đề xuất một số giải pháp để gia đình Việt Nam phát triển
trong thời kỳ mới.
4
Nhóm vấn đề chung về xây dựng và phát triển gia đình có một số công
trình: “Gia đình Việt Nam ngày nay”, Nxb Khoa học xã hội 1996; “Gia đình
Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới” của giáo sư Lê Thi Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2002; “Suy nghĩ về xây dựng chiến lược phát triển gia đình
hiện nay của Lê Thị Quý, Tạp chí cộng sản, số 30, 2003”; “ Cuộc sống và
biến đổi của hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay” của giáo sư Lê Thi, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; “Gia đình học” của Đặng Cảnh Khanh – Lê
Thị Quý, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội, 2009. Đặc biệt, với “Gia đình và
biến đổi gia đình ở Việt Nam” của tác giả Lê Ngọc Văn. Đây là công trình có
cái nhìn khá sâu sắc và toàn diện về biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Tác giả đã chỉ ra được một số nhân tố tác động đến sự biến đổi của gia đình
hiện nay, phân tích xu hướng biến đổi của gia đình. Tuy nhiên, tác giả chưa đi
phân tích một cách cụ thể sự biến đổi của gia đình và chưa đưa ra được các
biện pháp để xây dựng gia đình trong điều kiện bị các nhân tố tác động. Từ
công trình nghiên cứu và bài viết trên, các tác giả đã khái quát một cách có hệ
thống về sự biến đổi quy mô, cấu trúc, chức năng của gia đình trong công
cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, các công
trình nêu trên chỉ đề cập tới sự tác động của từng yếu tố đơn lẻ đến gia đình
và đưa ra một số giải pháp còn chung chung để giải quyết những vấn đề đang
tồn tại trong các gia đình. Cho đến nay, còn rất thiếu những công trình nghiên
cứu cơ bản và có hệ thống về những yếu tố cơ bản tác động đến sự biến đổi
của gia đình Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích một số nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi
của gia đình Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của những
tác động đó.
5
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn làm rõ khái niệm biến đổi của gia đình, nội dung sự biến đổi
đó và những yếu tố cơ bản tác động tới sự biến đổi của gia đình Việt Nam.
- Luận văn làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của những yếu
tố tác động đến sự biến đổi của gia đình Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế
những mặt tiêu cực của những yếu tố tác động đến sự biến đổi của gia đình
Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn.
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước về gia đình.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận
văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích và tổng hợp,
lôgic và lịch sử, so sánh, chứng minh…trên tinh thần kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những nhân tố tác động đến sự biến đổi
của gia đình Việt Nam hiện nay.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những nhân tố chính tác động đến
sự biến đổi của gia đình Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã làm rõ những yếu tố tác động đến sự biến đổi của gia đình
từ đó đề xuất ra những phương hướng nhằm phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực đến sự biến đổi của gia đình.
6
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: luận văn làm rõ những yếu tố tác động đến gia đình Việt
Nam gây ra những biến đổi tích cực và tiêu cực của gia đình. Vì vậy, luận văn
có thể trở thành tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu về vấn
đề gia đình Việt Nam.
Về thực tiễn: luận văn có thể được vận dụng để phát huy những mặt tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực đến sự thay đổi của gia đình Việt Nam hiện
nay để xây dựng gia đình Việt Nam: ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo luận văn gồm có 2
chương,4 tiết.
7
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH VÀ BIẾN ĐỔI GIA ĐÌNH
1.1. Gia đình và chức năng của gia đình
1.1.1 Khái niệm gia đình
Trong cuộc đời mỗi người, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn,
là cái nôi của sự yên bình, là yếu tố vô cùng cần thiết cho mỗi người và xã
hội. Nghiên cứu di sản của C. Mác và Ph.Ăngghen, chúng ta thấy, trong suốt
tiến trình xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử bao giờ các ông cũng dựa
trên những tiền đề hiện thực. Những tiền đề hiện thực này thường được các
ông sử dụng với tư cách những phạm trù xuất phát để nghiên cứu, mổ xẻ các
quá trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật, các mâu thuẫn, các xu hướng
vận động và phát triển của nó. Những tiền đề hiện thực này được biểu hiện
một cách cụ thể qua các phạm trù, như phạm trù hàng hóa, phạm trù con
người, phạm trù sở hữu…Ở đây, điều đáng nói là tất cả các phạm trù đều có
liên quan đến phạm trù gia đình. Bởi trong các quan niệm của các ông, gia
đình là tế bào của xã hội, tham gia vào mọi quá trình sản xuất, từ sản xuất
hàng hóa đến tiêu thụ sản phẩm; từ tái tạo ra con người đến việc đào tạo, bồi
dưỡng con người; từ chỗ tạo ra sự khác biệt về sở hữu đến chỗ giải quyết vấn
đề sở hữu. Và ngược lại, các quá trình sản xuất, tiêu dùng, cải tiến và sử dụng
công cụ lao động, giáo dục và đào tạo…đều tác động trở lại gia đình, củng cố
hoặc làm biến đổi hình thức và kết cấu của gia đình.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề gia đình như vậy, nên trong
các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph.Ăngghen đã không ít lần đề cập tới vấn
đề gia đình. C. Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét gia đình với tư cách một xã
hội thu nhỏ, các hình thức lịch sử của gia đình, nhất là gia đình với sự xuất
hiện của sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; nghiên cứu mối quan hệ giữa gia
đình và nhà nước, sự khác biệt giữa gia đình dưới chế độ tư bản chủ nghĩa và
8
gia đình dưới chế độ xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Không những thế, C.
Mác và Ph.Ăngghen còn nghiên cứu gia đình trong quan hệ tính giao - vấn đề
trong hôn nhân, và gia đình với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất
trong lịch sử phát triển xã hội.
Có thể nói, vấn đề gia đình trong di sản lý luận của C. Mác và
Ph.Ăngghen không chỉ dừng lại ở khái niệm “gia đình” thuần túy, mà còn
khám phá nguồn gốc gia đình, ảnh hưởng của những biến đổi xã hội tới gia
đình, tác động của gia đình tới xã hội và đặc biệt là ảnh hưởng của sự biến đổi
kinh tế, của tiến trình công nghiệp hóa.
Trong Hệ tư tưởng Đức, khi nói về tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, C. Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét ba mối quan hệ con người đã được
hình thành trong lịch sử nhân loại. Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa con
người với tự nhiên, phản ảnh khát vọng chinh phục tự nhiên, nghiên cứu tự
nhiên để tồn tại và cũng để thỏa mãn những nhu cầu không ngừng nảy sinh
của con người. Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất, phản ánh các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
các quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối
sản phẩm lao động. Quan hệ thứ ba là quan hệ gia đình. Cũng theo C. Mác và
Ph.Ăngghen, ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa vào nhau, cùng tồn
tại bên nhau. Nhờ những nghiên cứu của C. Mác và Ph.Ăngghen về các hình
thức gia đình, chúng ta mới có thể hiểu rõ hơn nội dung của lực lượng sản
xuất (quan hệ thứ nhất), nội dung của quan hệ sản xuất (quan hệ thứ hai) và
ngược lại. Khi nhấn mạnh vai trò của gia đình đối với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C. Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng thực
ra, gia đình là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội.
Nhờ quan hệ thứ ba này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã
sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Theo ý nghĩa đó, gia đình là
một xã hội thu nhỏ, gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể
người thành xã hội và khi xã hội loài người được hình thành thì những hoạt
9
động của nó thường xuyên tác động tới gia đình làm cho gia đình biến đổi về
cả hình thức, cấu trúc cũng như vai trò của nó đối với xã hội. Chính vì vậy, C.
Mác và Ph.Ăngghen luôn đòi hỏi nghiên cứu gia đình, nghiên cứu lịch sử loài
người phải gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của sự trao đổi sản phẩm.
Khi luận chứng về những tiền đề, điều kiện cho sự tồn tại của con
người, C. Mác đã viết: “Hằng ngày khi tái tạo ra đời sống bản thân mình, con
người bắt đầu tái tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [ 27, tr.41]. Với quan
điểm này gia đình được nhìn nhận với một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã
hội loài người; con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì
đồng thời cũng tạo ra gia đình.
Thứ hai, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở ra con
người.
Thứ ba, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn
nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ - con cái).
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) C. Mác và Ph.Ăngghen
đã cho rằng, sự ra đời của nền sản xuất bằng máy móc hiện đại – nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa với lực lượng sản xuất mới đã dần xóa bỏ toàn bộ hệ
thống công trường thủ công, đã thay đổi sự phân bố dân cư và kết cấu ngành
nghề của xã hội và do vậy sự “yên ấm” của từng gia đình cũng bị phá vỡ theo
dòng xoáy của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không chỉ thế, nó còn làm thay
đổi vị trí và điều kiện sinh sống của gia đình, thay đổi nhu cầu thưởng thức
những giá trị vật chất và tinh thần của mọi thành viên trong gia đình. Nếu
trước đây, nhu cầu tiêu dùng được thỏa mãn bằng những sản phẩm trong
nước, thì nay đã nảy sinh ra những nhu cầu mới, đòi hỏi được thỏa mãn bằng
những sản phẩm từ những miền và xứ xa xôi nhất về và một khi “sản xuất vật
chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế”, nó làm cho
những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tài sản
10
chung của tất cả các dân tộc. Nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa còn tạo ra
một chế độ xã hội và chính trị thích ứng với quan hệ sản xuất mới, với cơ sở
hạ tầng mới. Nó xóa bỏ mọi phẩm chất và đức hạnh do chế độ phong kiến tạo
dựng; nó “tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay
vẫn được trọng vọng và tôn sùng” [28,tr 600]; nó biến đổi cả quan hệ gia
đình vốn được xem là thiêng liêng nhất, “xé toang tấm màn tình cảm bao phủ
những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan
hệ tiền nong đơn thuần” [28, tr 600].
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác và Ph.Ăngghen cũng đã
khẳng định, với sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thì không
chỉ các quan hệ xã hội, mà cả quan hệ gia đình cũng đã bị thay đổi.
Tiếp tục nghiên cứu về gia đình, trong một tác phẩm chuyên khảo đặc
biệt có giá trị Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước
(1884), Ph.Ăngghen đã chỉ ra vị trí quy định của gia đình đối với các thiết chế
xã hội. Ông chỉ ra rằng: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong
lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng
bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt: thực phẩm, quần áo và nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra
những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. Những thiết chế xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch
sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất
quyết định: Một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do
trình độ phát triển của gia đình” [29, tr 414]. Theo Ph.Ăngghen, quá trình sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp là nhân tố quyết định tiến trình phát
triển của lịch sử, cùng với trình độ phát triển của lao động, trình độ phát triển
của gia đình quyết định trình độ phát triển của xã hội, đồng thời đến lượt
mình trình độ phát triển của gia đình cũng tùy thuộc vào trình độ phát triển
của sản xuất, của lao động và của xã hội.
11
Thực tế đã chứng minh rằng, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin về hôn nhân và gia đình đã và đang được thực tiễn chứng minh
là hoàn toàn có cơ sở khoa học, có giá trị thực tiễn cao, nhất là những biến
đổi của gia đình phụ thuộc và gắn liền với sự biến đổi của các điều kiện kinh
tế - xã hội, nhưng có tác động quan trọng đối với những biến đổi kinh tế - xã
hội ấy.
Trên thế giới, hiện tồn tại rất nhiều hình thức gia đình với cấu trúc và
chức năng khác nhau, do đó khó có thể đưa ra một định nghĩa chung và khoa
học về gia đình. Ở Việt Nam, từ xưa đến nay, gia đình, đặc biệt là gia đình
truyền thống không chỉ là cộng đồng mà còn là cộng cảm, tính xã hội đặc biệt
của gia đình là ở đó. Căn cứ vào thực tiễn của hôn nhân và gia đình ở nước ta,
GS Lê Thi đã đưa ra quan niệm về gia đình: “Khái niệm gia đình được sử
dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan
hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, họ
hàng nội ngoại) cùng chung sống. Đồng thời gia đình có thể bao gồm một số
người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ máu mủ. Các thành
viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm, quyền lợi (kinh tế, văn hóa,
tình cảm), giữa họ có những điều kiện ràng buộc có tính pháp lý, được nhà
nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hôn nhân và gia đình nước
ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép
và cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [46, tr 7].
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về gia đình, mỗi khái niệm đều
nhằm mục đích khái quát lên những yếu tố cơ bản, đặc thù. Sau đây là một
số khái niệm:
a. Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành một đơn vị
nhỏ nhất trong xã hôi, họ gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng
máu, thường gồm vợ chồng, cha mẹ và con cái.
b. Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà có
quan hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung.
12
c. Theo Levi strauss thì gia đình là một nhóm xã hội được quy định bởi
ba đặc điểm nổi bật là: bắt nguồn từ hôn nhân bao gồm vợ chồng, con cái phát
sinh từ sự hôn phối của đôi nam nữ, tuy nhiên trong gia đình có mặt của
những người họ hàng, bà con hoặc con nuôi, họ gắn bó với nhau bởi các
nghĩa vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế và về sự cấm đoán tình dục giữa các
thành viên.
Hướng tới xây dựng gia đình bền vững, tổ chức UNESCO của Liên hợp
quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm Quốc tế gia đình và thống nhất
khẳng định: Gia đình là một yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh tế của
xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần
được giữ gìn và phát huy. Trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa về
gia đình: gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng chung sống
và có ngân sách chung.
Trong thời đại ngày nay, trước yêu cầu của phát triển, đổi mới và hội
nhập quốc tế là vấn đề mang ý nghĩa sống còn đối với mọi dân tộc, mọi quốc
gia dân tộc trong đó có Việt Nam. Trong quá trình này, không thể không xét
đến mối quan hệ của nó đối với vấn đề gia đình và do vậy, không thể không
vận dụng lý luận về gia đình trong kho tàng lý luận của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác. Nghiên cứu quan hệ gia đình trong sự phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là mối quan hệ giữa gia đình và sự phát triển của lực lượng sản xuất
trong di sản lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen không những giúp cho chúng
ta thấy được tác động của quá trình cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội, thấy
được những khuynh hướng biến đổi tất yếu của gia đình, mà còn giúp chúng
ta nhận thức được vai trò của gia đình đối với sự nghiệp đổi mới và mở rộng
quốc tế của nước ta hiện nay. Đó là vai trò của gia đình trong việc trang bị tri
thức mới cho thế hệ lao động tương lai, trang bị những hiểu biết căn bản về
những giá trị và văn hóa đạo đức; nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải bảo
vệ những ngành, nghề truyền thống trước những tác động tiêu cực do mặt trái
kinh tế thị trường gây ra.
13
Chúng ta đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hóa, đồng thời cũng có những thách thức nghiệt ngã cần phải vượt qua,
trong đó có thách thức về xây dựng gia đình Việt Nam, gìn giữ và phát huy
những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống, đáp ứng những đòi hỏi ngày
càng cao của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế,
Không thể phủ nhận được vai trò to lớn và rất quan trọng của gia đình
trong đời sống xã hội. Các tế bào cấu thành xã hội ấy vẫn còn và sẽ còn là nhân
tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Từ quan
niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về gia đình trong mối quan hệ với sự
phát triển kinh tế - xã hội, có thể khẳng định chủ trương đó của Đảng ta là định
hướng chiến lược đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Chức năng của gia đình
Gia đình được xem như là một xã hội thu nhỏ, là tổ chức tế bào của xã
hội, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn
minh lúa nước từ lâu đã sống định cư và lấy gia đình làm đơn vị gốc. Trải qua
bao biến thiên của lịch sử cho đến ngày nay, trên con đường đổi mới và tiếp
cận với văn hóa Phương Tây, gia đình Việt Nam vẫn giữ được được giá trị
của mình. Gia đình được sinh ra tồn tại và phát triển chính vì nó có sứ mệnh
đảm đương những chức năng đặc biệt mà xã hội và tự nhiên giao cho, không
một thiết chế xã hội nào khác có thể thay thế được. Các chức năng đó tồn tại
trong mối liên hệ thống nhất, tác động lẫn nhau để tạo nên con người và xã
hội hóa con người. Dù ở thời kỳ nào, gia đình bao giờ cũng có bốn chức năng
cơ bản: chức năng duy trì nòi giống; chức năng kinh tế; chức năng nuôi
dưỡng, giáo dục; chức năng tình cảm.
Thứ nhất: Chức năng duy trì nòi giống.
Chức năng sinh đẻ (tái sản xuất ra con người) là chức năng đặc thù của
gia đình như theo V. A Xukhômlinxki đã viết: Có hàng chục, hàng trăm
ngành nghề, công việc khác nhau: người xây dựng đường sắt, người kia làm
14
nhà ở, người làm bánh mỳ, người thì chữa bệnh…Nhưng có một công việc
phổ biến nhất, phức tạp nhất và cao quý nhất như nhau đối với mọi gia đình,
đồng thời lại có tính đặc thù và không lặp lại trong mỗi gia đình - sự sáng tạo
ra con người là nỗ lực cao nhất của tất cả các sứ mạng tình thần của bạn. Đó
là sự khôn ngoan, là tài nghệ, nghệ thuật trong cuộc sống của bạn.
Mặt khác theo quan điểm duy vật: “ nhân tố quyết định trong lịch sử,
quy đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp…Một mặt là sản
xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần
thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất bản thân con người,
là sự truyền nòi giống”. [29, tr44]. Chức năng này một mặt đáp ứng nhu cầu
tình cảm riêng tự nhiên của con người, mặt khác tạo ra những công dân mới,
đem lại sự trường tồn trong xã hội. Cũng vì đặc trưng này nên dù việc sinh đẻ
diễn ra trong từng gia đình nhưng nó lại quyết định đến mật độ dân cư, liên
quan mật thiết đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội.
Tái sản xuất ra chính bản thân con người là một chức năng cơ bản và
riêng có của gia đình.Chức năng này đảm bảo sự phát triển liên tục và trường
tồn của xã hội loài người. Tái sản xuất sức lao động là yếu tố quan trọng góp
phần vào sự tồn tại và phát triển của xã hội. Nói tới tái sản xuất sức lao động,
trước hết phải nói tới tái sản xuất ra bản thân con người, nghĩa là phải sinh
con để nối dõi và duy trì nòi giống và làm cho dân số ổn định ở mức cần thiết.
Chức năng này bao gồm các nội dung cơ bản: tái sản xuất, duy trì nòi giống,
nuôi dưỡng nâng cao thể lực, trí lực bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và
sức lao động cho xã hội.
Sinh đẻ tái sản xuất ra con người là chức năng quan trọng của mỗi gia
đình. Các gia đình được xây dựng trên cơ sở hôn nhân tự nguyện, được pháp
luật công nhận và bảo hộ. Những đứa con sinh ra cũng được pháp luật công
nhận và bảo hộ. Trong xã hội phong kiến, do quan niệm có con đông là gia
đình có phúc nên dẫn đến việc sinh đẻ không có kế hoạch. Ngày nay, chức
năng sinh đẻ được kế hoạch hóa. Mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con. Như vậy,
15
sẽ đảm bảo tái sản xuất con người hợp lý, đảm bảo chất lượng cuộc sống.
Chính vì vậy, trang bị cho thế hệ trẻ có những kiến thức khoa học và kế hoạch
hóa gia đình chính là nội dung trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội Việt Nam của chúng ta ngày nay gia đình có một sứ mệnh
lớn lao là sản sinh ra những con người Việt Nam sau này khỏe về thể lực,
mạnh về trí tuệ và đẹp về nhân cách, vóc dáng. Cho nên, chức năng sinh đẻ
không chỉ đơn giản là “sinh sản” mà còn phải “dưỡng” để tạo ra những con
người Việt Nam mới về chất tạo nguồn lực tốt nhất cho đất nước. Đây cũng
chính là vấn đề mà Năm Quốc Tế về gia đình Việt Nam nhấn mạnh.
Thứ hai: Chức năng kinh tế.
Kinh tế gia đình đóng vai trò quyết định cho sự bền vững của gia đình.
Cùng với quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất ở từng lúc, từng nơi kinh tế
gia đình biến đổi với nhiều dạng phong phú và có vị trí khác nhau. Kinh tế gia
đình phát triển có ảnh hưởng đến các chức năng khác của gia đình, giúp con
người thỏa mãn nhu cầu của mình: ăn học, giải trí, nuôi dạy con, chăm sóc
cha mẹ…ngược lại kinh tế gia đình eo hẹp, không ổn định sẽ ảnh hưởng ngay
đến sự ổn định và hạnh phúc gia đình.
Trong xã hội nông nghiệp, gia đình là đơn vị sản xuất, một đơn vị kinh
tế độc lập. Mọi thành viên trong gia đình cùng ở trong một ngôi nhà, cùng
chung thu nhập vì vậy các thành viên có sự lệ thuộc vào nhau. Chức năng
kinh tế quyết định đến sự ổn định của gia đình. Trong xã hội công nghiệp hiện
nay, chức năng kinh tế của gia đình được chuyển hóa dưới dạng khác nhau.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều gia đình có điều kiện (có sở
hữu hoặc tham gia sở hữu tư liệu sản xuất) đều có thể trở thành một đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Để có thể phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo trong kinh tế, Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện các chính sách
sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có thể làm giàu chính đáng bằng hoạt động
sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Cùng với sản xuất kinh
16
doanh, các gia đình và hộ gia đình công nhân viên chức, cán bộ hành chính sự
nghiệp, giáo viên, nhà khoa học, trí thức văn nghệ sỹ cũng được khuyến
khích trong lao động sáng tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo
của mình. Các loại gia đình này tuy không trực tiếp thực hiện chức năng sản
xuất kinh doanh, nhưng cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động
kinh tế: bảo đảm hoạt động tiêu dùng đáp ứng các nhu cầu vật chất cơ bản của
con người, qua đó kích thích sự phát triển hoạt động kinh tế của xã hội.Thực
hiện tốt chức năng kinh tế sẽ tạo ra tiền đề và cơ sở vật chất vững chắc cho tổ
chức đời sống của gia đình.
Thứ ba: Chức năng giáo dục con cái (chức năng xã hội hóa).
Nội dung của giáo dục gia đình tương đối toàn diện, cả giáo dục tri
thức và kinh nghiệm, giáo dục đạo đức và lối sống, giáo dục nhân cách, thẩm
mỹ, ý thức cộng đồng. Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng,
song chủ yếu là phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng
không ít của tư tưởng, lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền
thống. Dù giáo dục xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng, có ý nghĩa
quyết định, nhưng có những nội dung và phương pháp giáo dục gia đình
mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả
tự giáo dục. Do đó, chủ thể giáo dục gia đình cơ bản và chủ yếu là thế hệ cha
mẹ, ông bà đối với con cháu.
Gia đình là bối cảnh xã hội quan trọng nhất trong đó diễn ra xã hội hóa.
Trong những năm đầu tiên của cuộc đời mỗi trẻ nhỏ, gia đình là thế giới xã hội.
Chỉ khi trẻ đến trường, thì khi ấy trẻ mới có nhiều thời gian sống xa gia đình.
Vì thế, gia đình là tập thể cơ bản ban đầu đối với hầu hết mọi người. Kinh
nghiệm xã hội ngày càng tăng, diễn ra bên trong gia đình hình thành nền tảng
nhân cách của trẻ. Gia đình là nơi truyền lại những giá trị văn hóa dân tộc, gia
đình từ thế hệ đi trước cho thế hệ sau, thông qua sự dạy dỗ của cha mẹ đối với
con cái. Cha mẹ dạy cho con cái những giá trị tốt đẹp, những chuẩn mực đạo
đức của xã hội để nhân cách của thế hệ trẻ phát triển hoàn thiện.
17
Phần lớn thái độ của con người khi trưởng thành đối với xã hội phụ
thuộc nhiều vào kinh nghiệm từ tẹ hời thơ ấu sống trong gia đình. Phần lớn
những gì được cho là bẩm sinh đều là sản phẩm của văn hóa, kết hợp với nhân
cách thông qua quá trình xã hội hóa. Xã hội hóa vai trò giới tính luôn là một
trong những chức năng quan trọng nhất của gia đình.
Gia đình rất quan trọng trong quá trình xã hội hóa không phải đơn
thuần là định dạng nhân cách mà còn hình thành ở trẻ một quan điểm xã hội.
Nói cách khác, bố mẹ không chỉ đưa trẻ vào thế giới hữu hình mà còn đặt trẻ
vào trong xã hội hiện hữu. Nhiều nghiên cứu khẳng định đặc điểm của giai
cấp, xã hội, tôn giáo, chủng tộc, dân tộc đều được gia đình trực tiếp ảnh
hưởng, tác động và hình thành cho trẻ, đều trở thành một phần trong khái
niệm cái tôi của trẻ. Rất lâu trước khi mỗi người trưởng thành đủ khôn lớn để
hiểu rõ bản chất mọi vấn đề, thì chúng ta đã nắm giữ một ví trí trong cấu trúc
xã hội do gia đình mình xác định. Quan điểm xã hội mà trẻ có được từ phía
gia đình hầu như có thể tác động đến sự hình thành các khuôn khổ trong sự
tồn tại của cá nhân trong suốt cuộc đời.
Thực chất của công tác giáo dục gia đình là xã hội hóa đứa trẻ. Xã hội
hóa đứa trẻ trong đời sống gia đình là quá trình xã hội hóa cá nhân, đó là một
quá trình hai chiều, cá nhân học hỏi để thực hiện vai trò xã hội và ngược lại;
xã hội tác động đến cá nhân làm cho cá nhân tự điều chỉnh nhận thức, cảm
xúc, hành vi để thích ứng với môi trường xã hội mà cá nhân đó đang sống. Xã
hội hóa là một tiến trình rất dài của đời người, dựa trên sự tương tác xã hội.
Qua đó cá nhân được cung cấp kinh nghiệm sống, kỹ năng sống, để biến đổi
từ con người sinh vật sang con người xã hội. Gia đình tham gia vào tất cả các
giai đoạn xã hội hóa trong chu trình sống của con người, ở giai đoạn nào vai
trò của gia đình cũng chiếm vị trí quan trọng…Sabran, nhà xã hội học người
Pháp đã có lý khi nhận xét rằng: xã hội như một con tàu, cá nhân phải bước
lên con tàu xã hội thì mới trở thành người xã hội, nếu không thì phải đứng
mãi ở bến tàu. Có thể nói, những mầm mống ban đầu của nhân cách, những
18
sở thích, những suy nghĩ về cuộc sống của mỗi con người đều được hình
thành ngay từ trong gia đình. Giáo dục gia đình tốt sẽ góp phần tạo ra những
công dân tốt, làm cho xã hội tốt đẹp.
Khi ra đời, đứa trẻ hưởng thụ nền văn hóa gia đình, đầu tiên là từ người
mẹ, rồi đến mọi người xung quanh. Tất cả những gì trẻ nghe thấy, nhìn thấy
và cảm thấy đều in sâu vào tâm hồn trẻ, những điều đó là “tài sản” được trẻ
lưu giữ; theo năm tháng trẻ sẽ vận dụng những kinh nghiệm tích lũy được vào
cuộc sống. Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên biến đứa trẻ thành một
thực thể xã hội có khả năng thích ứng, sống, học tập, vui chơi, giao tiếp trong
xã hội mới, theo nhu cầu xã hội. Như vậy, sự thành công và thất bại của một
con người đều phần lớn chịu sự tác động của quá trình xã hội hóa cá nhân
trong đời sống gia đình.
Thứ tƣ: Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện, chức năng tình cảm lứa đôi
giữa vợ và chồng, đấy là chức năng cơ bản của gia đình phải thực hiện và là
những yếu tố tạo ra sự bền vững của gia đình trong quá trình phát sinh, phát
triển của xã hội loài người. Việc chung sống dưới một mái nhà và có cùng
huyết thống chưa đủ kết dính, gắn bó các thành viên. Chất kết dính ở đây là
tình yêu thương lẫn nhau giữa những người đang sống và cả với những người
đã khuất.
Chức năng tình dục lứa đôi giữa vợ và chồng: không có quan hệ liên
kết này gia đình sẽ dẫn đến ly tán và tan vỡ. Một số công trình nghiên cứu
khoa học cho thấy nhiều gia đình bất hạnh vì không có sự hòa hợp tình dục.
Ngày nay tại các nước văn minh tiên tiến, vấn đề tình dục được coi là văn
hóa, đạo đức, cần phải dạy cho thế hệ trẻ. Như vậy, sẽ mang lại hạnh phúc và
quyền bình đẳng thực sự cho con người. Tuy nhiên, điều cần thiết của mỗi tổ
ấm đó là sự ra đời của đứa con, những mối quan hệ trong gia đình sẽ xoay
quanh đứa con và càng gắn bó, yêu thương lẫn nhau, thỏa mãn nhu cầu tinh
thần cho các thành viên trong gia đình. Bầu không khí đầm ấm tránh những
19
xung đột, mọi vấn đề được giải quyết kịp thời, tế nhị sẽ mang lại niềm vui,
hạnh phúc cho mọi thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ nhỏ và
người cao tuổi. Việc chăm sóc và nuôi dưỡng người già, người thân mất sức
lao động không chỉ là bổn phận và trách nhiệm của các thành viên trong gia
đình mà còn là lòng hiếu thảo, sự biết ơn đối với ông bà, cha mẹ.
Trong xã hội hiện đại, độ bền vững của gia đình không chỉ phụ thuộc
vào sự ràng buộc các mối quan hệ về trách nhiệm, nghĩa vụ giữa các thành
viên. Nó ngày càng bị chi phối bởi các mối quan hệ tình cảm, tình yêu giữa
đôi vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, sự bảo đảm yêu cầu về tự do, dân chủ,
bình đẳng, sự quan tâm đến nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân trong cuộc
sống chung. Gia đình là nơi thể hiện tình cảm sâu sắc nhất, thực sự là tổ ấm
của mỗi cá nhân. Đời sống nội tâm có ý nghĩa ngày càng tăng khiến cho chức
năng tình cảm và chăm sóc giáo dục con cái trở nên hết sức quan trọng.
1.2. Biến đổi gia đình và những nhân tố tác động đến sự biến đổi
của gia đình
1.2.1. Khái niệm biến đổi gia đình
Để hiểu được biến đổi gia đình, trước tiên phải hiểu được biến đổi xã
hội vì gia đình không nằm ngoài xã hội. Biến đổi xã hội luôn là chủ đề trung
tâm của xã hội học. Từ giữa thế kỷ XIX, các nhà xã hội học đã bắt đầu
nghiên cứu về biến đổi xã hội xuất phát từ nhu cầu thực tiễn: đi tìm lời giải
thích cho hai làn sóng biến đổi lớn đang xảy ra sau cuộc cách mạng Pháp và
Mỹ. Đó là quá trình công nghiệp hóa và sự mở rộng nền dân chủ, mở rộng
quyền công dân.
Từ cơ sở lý thuyết chức năng luận, Emile Durkheim cho rằng các biến
đổi có thể được giải thích như là hiện tượng thường xuyên đi tìm kiếm trạng
thái trung lập. Herbert Spencer trong quan điểm tiến hóa luận nhìn nhận sự
biến đổi dựa trên sự tăng trưởng dân số và những khác biệt về cấu trúc. Một
xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng) hay tiêu cực (không thích
ứng). Các lý thuyết xung đột giải thích sự biến đổi xã hội như là hệ quả tất