Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Công tác xã hội trong can thiệp trợ giúp nữ công nhân bị bạo lực gia đình tại phường Khai Quang - thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐÀO PHƢƠNG THÙY





CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CAN THIỆP TRỢ GIÚP
NỮ CÔNG NHÂN BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
TẠI PHƢỜNG KHAI QUANG - THÀNH PHỐ VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC






LUẬN VĂN THẠC SĨ









Hà Nội-2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


ĐÀO PHƢƠNG THÙY




CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG CAN THIỆP TRỢ GIÚP
NỮ CÔNG NHÂN BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
TẠI PHƢỜNG KHAI QUANG - THÀNH PHỐ VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC





LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn An Lịch










Hà Nội-2013
1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và can thiệp 7
2.1. Những nghiên cứu liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình 7
2.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới 9
2.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam 12
2.2. Một số mô hình phòng chống bạo lực gia đình đã được triển khai trên
thế giới và ở Việt Nam 18
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 22
3.1. Ý nghĩa khoa học 22
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 23
4. Mục đích của đề tài 23
5. Khách thể, vấn đề nghiên cứu và can thiệp 24
5.1. Khách thể nghiên cứu và can thiệp 24
5.2. Vấn đề nghiên cứu và can thiệp 24
6. Phạm vi nghiên cứu và can thiệp 24
7. Câu hỏi nghiên cứu 24
8. Phƣơng pháp nghiên cứu và can thiệp 25
8.1. Phương pháp luận 25
8.2. Phương pháp nghiên cứu và can thiệp cụ thể 25
9. Cấu trúc luận văn 26
Chƣơng 1.CƠ SỞ LÝ LUẬN 28
1.1. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu và can thiệp 28
1.1.1. Lý thuyết hệ thống - sinh thái 28
1.1.2. Lý thuyết can thiệp khủng hoảng 32
1.1.3. Lý thuyết nhận thức hành vi 34

1.1.4. Lý thuyết gắn bó 35
1.2. Các khái niệm công cụ 37
2

1.2.1. Khái niệm bạo lực 37
1.2.2. Khái niệm bạo lực gia đình 37
1.2.3. Khái niệm Công tác xã hội 40
1.3. Cơ sở pháp lý của can thiệp 42
1.3.1. Các văn bản mang tính quốc tế 42
1. 3.2. Hệ thống chính sách, pháp luật của Việt Nam 43
Chƣơng 2.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TẠI ĐỊA PHƢƠNG 46
2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 46
2.2. Tình hình bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu 48
2.2.1. Khái quát chung 48
2.2.2. Một số trường hợp điển cứu 50
2.3. Đánh giá chung về tình hình bạo lực gia đình đối với phụ nữ, nữ công
nhân và hiệu quả của các biện pháp can thiệp tại địa phƣơng 60
2.3.1. Tình trạng bạo lực gia đình 60
2.3.2. Các biện pháp can thiệp địa phương đã thực hiện 66
2.3.3. Đánh giá hiệu quả của các biện pháp can thiệp của địa phương 69
Chƣơng 3.QUÁ TRÌNH CAN THIỆP TRỢ GIÚP ĐỐI TƢỢNG 72
2.1. Xác định đặc điểm đối tƣợng can thiệp 72
2.1.1. Nhiệm vụ, mục tiêu và phương pháp xác định đặc điểm đối tượng can
thiệp 72
2.1.2. Mô tả thân chủ 73
2.2. Lập kế hoạch giải quyết vấn đề 82
2.2.1. Các mục tiêu 82
2.2.2. Đánh giá nguồn lực hỗ trợ 84
2.2.3. Xây dựng kế hoạch hoạt động giải quyết vấn đề 85
2.3. Thực thi kế hoạch và đánh giá 87

2.3.1. Thực thi kế hoạch 87
2.3.2. Đánh giá - tiếp tục hay chấm dứt sự giúp đỡ 89
3

2.4. Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình can thiệp và biện pháp
khắc phục 91
2.4.1. Thuận lợi 91
2.4.2. Khó khăn và biện pháp khắc phục 91
3.5. Bài học kinh nghiệm 92
3.5.1. Mối liên hệ giữa kiến thức, kỹ năng và giá trị trong quá trình can
thiệp 92
3.5.2. Những kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng trong thực hành Công tác xã
hội 94
3.5.3. Kinh nghiệm trong việc giải quyết vấn đề bạo lực gia đình 96
KẾT LUẬN 103
KHUYẾN NGHỊ 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BBĐG: Bất bình đẳng giới
BĐG: Bình đẳng giới
BL: Bạo lực
BLGĐ: Bạo lực gia đình
CLB: Câu lạc bộ
CTXH: Công tác xã hội
KCN: Khu công nghiệp
LHQ: Liên Hợp Quốc
NCN: Nữ công nhân

NVCTXH: Nhân viên công tác xã hội
PCBLGĐ: Phòng chống bạo lực gia đình
PN: Phụ nữ

5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bạo lực gia đình là vấn đề phổ biến đối với mọi quốc gia, mọi tầng lớp
trong xã hội, đặc biệt là BLGĐ đối với phụ nữ. Đây là một hiện tượng gây trở
ngại lớn cho việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng, phát triển vì sự tiến bộ của
PN.
Ở Việt Nam, tình trạng BLGĐ đối với PN xảy ra khá phổ biến và đã gây
ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến thể chất, sức khoẻ,
tinh thần… của người PN mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình và tạo nên
các hành vi lệch chuẩn của trẻ em trong tương lai. Ngoài ra, BLGĐ đối với PN
còn ảnh hưởng đến xã hội như gây mất trật tự an ninh công cộng, làm gia tăng
tội phạm và các tệ nạn xã hội
Tại Hội thảo “Thực trạng bạo lực gia đình và các hoạt động can thiệp” tại
Trung tâm Phụ nữ và Phát triển trong 2 ngày, ngày 21 và ngày 22/7/2007, Bà
Nguyễn Thị Thanh Hoà, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam cho biết: “Phụ nữ hiện chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng
lao động của cả nước, họ đã có những đóng góp rất lớn cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc và phát triển đất nước. Tuy nhiên, một thực tế mà không chỉ PN
Việt Nam phải đối mặt chính là thực trạng BLGĐ. Đây là vấn đề mang tính toàn
cầu, làm tổn hại đến thể chất, tinh thần của nhiều PN và làm mất ổn định, hạnh
phúc gia đình. BLGĐ xảy ra thường xuyên với tần số cao thường làm giảm sự tự
chủ, tính sáng tạo, gây ra những tổn thương tạm thời hoặc vĩnh viễn về thể chất
và tinh thần của người bị hại. Những nãm gần đây, BLGĐ xảy ra với tính chất
ngày càng nghiêm trọng, có sự gia tãng nhanh chóng đối tượng vi phạm cũng

như nạn nhân ở khắp các vùng miền trong cả nước”
[60]
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BLGĐ
đặc biệt là BL của người chồng đối với người vợ. Bên cạnh đó, cũng có nhiều
chương trình, dự án phòng chống BLGĐ thông qua nghiên cứu, hành động, can
thiệp ở nhiều tỉnh thành trong cả nước. Những dự án, chương trình can thiệp, trợ
6

giúp này dần từng bước đem lại những hiệu quả tích cực nhằm hạn chế hậu quả
của BLGĐ nhưng những mô hình trợ giúp mới chỉ mang tính thí điểm, chưa mở
rộng cho những PN bị BLGĐ nói chung, mô hình trợ giúp cho những đối tượng
đặc thù chưa có. Vì vậy, việc cụ thể hóa các chương trình, dự án PCBLGĐ đến
từng địa phương, từng ngành từng lĩnh vực hay đến từng nhóm đối tượng đang
trở thành một yêu cầu cần thiết và quan trọng để công tác PCBLGĐ thực sự đem
lại hiệu quả cao nhất.
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, là một trong 8
tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng thời là một trong những tỉnh
dẫn đầu cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế - đặc biệt là kinh tế công nghiệp,
hàng loạt khu công nghiệp được hình thành, lực lượng lao động từ các nơi đổ xô
về các khu công nghiệp này, số lượng công nhân tăng lên nhanh chóng mà trong
số này lực lượng nữ công nhân chiếm phần lớn. Phường Khai Quang - thành phố
Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc là địa bàn được quy hoạch thành một khu công
nghiệp với rất nhiều công ty, doanh nghiệp được xây dựng và hoạt động tại đây.
Phường Khai Quang cũng là địa bàn tập trung rất nhiều nữ công nhân đang sinh
sống.
Đi cùng với sự phát triển kinh tế là những hệ lụy ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống của một bộ phận không nhỏ những NCN. Bởi nhiều nguyên nhân mà
nhiều chị em đang là nạn nhân của BLGĐ. Phải sinh sống, lập nghiệp xa gia
đình, xa quê hương, cha mẹ, họ hàng; phải sinh sống tại các khu nhà trọ thiếu
đảm bảo; đời sống gặp nhiều khó khăn nên khi bị BLGĐ họ thiếu sự quan tâm,

thiếu môi trường trợ giúp từ những người thân, chính bản thân họ cũng chưa
nhận thức được vấn đề của mình.Trong khi đó, chính quyền, các tổ chức, người
dân tại địa phương cũng chưa có sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này. Vì vậy,
BLGĐ đối với PN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói chung và NCN tại phường
Khai Quang nói riêng vẫn đang xảy ra, cản trở sự phát triển của PN, đe dọa sự
bình yên của gia đình và sự ổn định của xã hội.
7

Do đó, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Công tác xã hội trong can thiệp
trợ giúp cho nữ công nhân bị bạo lực gia đình tại phường Khai Quang -
Thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc” hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào
việc giải quyết tình trạng BLGĐ hiện nay.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu và can thiệp
2.1. Những nghiên cứu liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình
Về lịch sử hoạt động phòng chống BL đối với PN được đề cập trong
nhiều báo cáo và nghiên cứu khoa học. Theo từng giai đoạn lịch sử, các hình
thức phòng chống BL đối với PN ngày càng có sự chuyển biến.
Sáng kiến phòng chống BLGĐ đối với PN xuất hiện trong kế hoạch hành
động tại Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần 1 nãm 1975. Lúc này, các biện pháp chủ
yếu để phòng chống BL đối với PN chỉ ở phạm vi gia đình, trong đó chú ý đến
các biện pháp giáo dục và cung cấp kĩ năng giải quyết xung đột để bảo vệ nhân
phẩm cho các thành viên trong gia đình.
Tại Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần 2 nãm 1980 đã thông qua Nghị quyết về
PCBLGĐ đặt trong bối cảnh chăm sóc sức khỏe, y tế. Đồng thời, kêu gọi các
quốc gia xây dựng các chương trình loại bỏ BLGĐ.
Vào năm 1985, tại Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần 3, các chiến lược hành
động vì sự tiến bộ của PN đã công nhận BLGĐ diễn ra phổ biến và dưới nhiều
hình thức khác nhau. Do vậy, Hội nghị kêu gọi xây dựng chính sách quốc gia
một cách toàn diện về các hoạt động can thiệp nhằm ngăn chặn tình trạng
BLGĐ. Đồng thời, nâng cao nhận thức của người dân về BLGĐ đối với PN như

là một vấn đề xã hội cần được giải quyết.
Nãm 1992, trong báo cáo của Ủy ban loại bỏ phân biệt đối xử với PN - cơ
quan theo dõi, giám sát thực hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (gọi tắt là Công ước CEDAW được Đại hội đồng LHQ phê
chuẩn ngày 18/12/1979) đã khẳng định BLGĐ đối với PN xuất phát từ nguyên
nhân BBĐG. Trong báo cáo nêu rõ nhận định BLGĐ đối với PN ảnh hưởng
8

nghiêm trọng đến quyền con người và thông qua nhiều hoạt động đóng góp việc
giải quyết vấn đề này.
Tuyên bố Viên và chương trình hành động được Đại hội đồng LHQ thông
qua tháng 12/1993 tại thủ đô nước Áo có đoạn viết: “BL đối với PN là sự thể
hiện quan hệ bất bình đẳng mang tính lịch sử giữa nam và nữ, dẫn đến sự thống
trị của nam đối với nữ, sự phân biệt đối xử của nam đối với nữ và cản trở sự
tiến bộ đầy đủ của PN”
[4]
. Dựa vào mức độ nghiêm trọng của vấn đề, tuyên bố
đưa ra các điều khoản để bảo vệ PN. Bên cạnh đó, tuyên bố còn nhấn mạnh đến
vai trò của các tổ chức PN quốc tế cùng góp sức vào việc phòng chống nạn
BLGĐ đối với PN.
Tại Hội nghị Dân số và Phát triển được tổ chức ở Cai rô - Ai Cập năm
1994, BLGĐ được coi là một trong những mục tiêu cần được quan tâm trên thế
giới. Đây cũng là lúc mà chính phủ các nước cho rằng BLGĐ không còn là vấn
đề của riêng mỗi cá nhân mà là sự quan tâm của toàn thể cộng đồng. BLGĐ
không chỉ ảnh hưởng đến bản thân PN mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
phát triển bền vững của gia đình.
Tuyên bố và chương trình hành động thông qua tại Hội nghị phụ nữ Thế
giới ở Bắc Kinh năm 1995 tiếp tục củng cố tinh thần của các hội nghị trước.
Từ ngày 4 đến 6/12/2001, tại Phnômpênh (Campuchia) đã diễn ra Hội
nghị về Luật pháp chống BL với PN trong gia đình ở vùng Tiểu Mê kông gồm

Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Hội nghị diễn ra với 5 mục tiêu:
-Tãng cường sự cải thiện về luật pháp cho sự tiến bộ về quyền con người
của PN ở các nước Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam.
- Xây dựng những hiểu biết chung về vấn đề BLGĐ và khả năng của từng
nước trong việc phát triển các chiến lược kiểm soát BLGĐ.
- Xây dựng dự thảo khung pháp lý quốc gia về vấn đề BLGĐ ở bốn nước
- Chia sẻ kinh nghiệm từ các tổ chức phi chính phủ ở một số nước đã đạt
được các thành tích trong việc hỗ trợ pháp luật trong vấn đề BLGĐ.
Hội nghị đã thống nhất một số vấn đề:
9

- BLGĐ không phải là chuyện riêng của gia đình
- PN đang bị coi là phụ thuộc vào nam giới trên phạm vi toàn cầu
Nãm 2003, lần đầu tiên Đại hội đồng LHQ thông qua Nghị Quyết số
58/185 đề nghị chuẩn bị báo cáo nghiên cứu chuyên sâu về các hình thức BLGĐ
từ đó có những hoạt động can thiệp nhằm góp phần giải quyết vấn đề này.
Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu về BLGĐ ở
trên thế giới và ở Việt Nam, sau đây là một số công trình tiêu biểu:
2.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Báo cáo “Nghiên cứu sâu về bạo hành với phụ nữ” của Nguyên Tổng
thư kư LHQ Kofi Annan được trình bày tại Kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng
LHQ thể hiện rõ tình hình BL với PN đang diễn ra ở 71 quốc gia thuộc phạm vi
nghiên cứu. Trong báo cáo, Tổng thư ký làm rõ các yếu tố và nguy cơ gây ra BL
với PN là việc sử dụng BL để giải quyết xung đột; sự thờ ơ của nhà nước và các
nguy cơ ở cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng. Những hoạt động có triển vọng
nhằm giải quyết vấn nạn này chú trọng vào luật pháp, cung cấp dịch vụ và phòng
ngừa. Tuy nhiên, thách thức đặt ra cho nhân loại không ít - thách thức do: những
nỗ lực khác nhau và những nguồn lực không tương xứng; thiếu hụt cách tiếp cận
toàn diện và có lồng ghép; thiếu ngân quỹ; thiếu sự xử phạt; những hình thức
phân biệt đối xử và thiếu việc đánh giá.

[17]
Nãm 1992, tác giả Margaret Schuler (chủ biên) và các cộng sự có tác
phẩm “Freedom from Violence - Women’s Strategies from Around the World”
(Tự do từ bạo lực - Chiến lược toàn cầu của phụ nữ) đã phản ánh tình trạng BL
chống PN tồn tại từ các nước phát triển như Mỹ đến các nước đang phát triển ở
châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh. Tính đa dạng của hoàn cảnh, văn hóa,
nguyên nhân, các hình thức BL mà tác giả đề cập đã nói lên tính phổ biến của
các dạng BL chống PN trong đó có BLGĐ. Tác phẩm đã cung cấp một cái nhìn
toàn cảnh về vấn đề và chiến lược liên quan đặc biệt đến BL giới - đó là mở rộng
chương trình tuyên truyền vận động, giáo dục, cải cách luật pháp và hành động
chống BL đối với PN.
[49]
10

Nãm 1994, với tác phẩm “Loving to Survive - Sexual Terror Men’s
Violence and Women’s Live” (Tình yêu đến sự sống - Sự khủng bố tình dục của
người đàn ông và cuộc sống của người PN), các tác giả Dee.L.R. Graham,
Edna.I. Rawligs và Roberta.K. Rigsby đã nêu rõ các ảnh hưởng do BL của nam
giới đối với PN và tâm lý của họ. Tình trạng hiện tại của nhiều PN là ở dạng nô
lệ, bị giam cầm và việc liên tục bị đánh sẽ làm mất khả năng xây dựng năng lực
cho họ. Đây không phải là vấn đề mang tính “tự nhiên” mà là một vấn đề xã hội.
Trong tác phẩm này, các tác giả cho rằng chỉ có Thuyết nữ quyền cấp tiến là
thừa nhận BL của nam giới đã ảnh hưởng tới cuộc sống của người PN.
[46]
Nãm 1995, cuốn sách “Violence, Silence and Anger - Women’s Writing
as Transgression” (Bạo lực, im lặng và sự giận dữ - Bài viết của PN về sự tội
lỗi) do Deirdre Lashgari chủ biên tạo cơ sở cho các nhà nữ quyền trình bày các
tư tưởng về sự im lặng, sự tức giận và nhu cầu nói lên tiếng nói chống lại BL.
Nhiều hình thức BL đã được đề cập đến trong tác phẩm này như áp bức tình dục;
áp bức của chủ nghĩa thực dân; mâu thuẫn giữa mẹ và con gái; các chủ đề chống

chiến tranh và hậu quả của nó đối với PN và trẻ em; các vấn đề giới, chủng tộc,
giai cấp, văn hóa và BL
[47]
Tại Hội nghị y khoa do Viện nhân đạo Pháp tổ chức năm 2001, Hội nghị
đã báo cáo nghiên cứu “Phụ nữ, nạn nhân của BLGĐ và vai trò của giới y
khoa” của giáo sư Roger Herrion. Giáo sư Roger Herrion và nhóm nghiên cứu
đã điều tra 700 phụ nữ trong độ tuổi từ 25 - 49 và đưa ra kết luận rằng: Có 60%
người thường xuyên chịu những cú đấm, đá, chửi bới, cưỡng dâm. Ngoài những
chấn thương về thể xác, các nạn nhân còn bị tổn thương về tinh thần. Đặc biệt,
phụ nữ mang thai sẽ ảnh hưởng đến đứa con sau khi ra đời. Nghiên cứu cũng chỉ
ra rằng phần lớn những kẻ bạo hành là người có quyền lực trong xã hội và hầu
như tất cả đều có rượu, bia. Điều đáng quan tâm là khi bị BL, PN rất ngại tố cáo
với cảnh sát vì họ lo sợ hoặc xấu hổ.
[58]
Năm 2001, các tác giả Charlotte Watts, Lori Heise, Mary Ellsberg và
Claudia Garcia Moreno của Tổ chức y tế thế giới - WHO viết tác phẩm “Putting
11

women first: Ethical and Safety Recommendations for Research on Domestic
Violence Against Women” (Đặt PN lên hàng đầu: Các khuyến nghị về an toàn
và đạo đức cho nghiên cứu về BLGĐ đối với PN) trong đó nêu rõ các khuyến
nghị cần thiết khi nghiên cứu về BLGĐ đối với PN, đó là:
- Sự an toàn của người trả lời và của nhóm nghiên cứu là sự quan trọng tối
cao và sẽ định hướng cho toàn bộ các quyết định trong dự án.
- Các cuộc điều tra rộng rãi cần phải có một phương pháp luận đúng đắn
và phải được xây dựng trên những kinh nghiệm nghiên cứu hiện hành về vấn đề
này.
- Tính bảo mật là điều cần thiết để đảm bảo cho cả sự an toàn của các PN
tham gia điều tra và cả chất lượng của số liệu
- Tất cả các thành viên của nhóm nghiên cứu cần được lựa chọn cẩn thận

và được tập huấn chuyên môn cũng như được hỗ trợ thường xuyên
- Thiết kế nghiên cứu phải bao gồm cả các hành động nhằm mục đích
giảm tất cả những nỗi đau khổ mà nghiên cứu có thể gây ra cho người tham gia
điều tra
- Điều tra viên cần được tập huấn để chỉ dẫn cho những người PN yêu cầu
được trợ giúp đến các dịch vụ hỗ trợ hoặc các nguồn hỗ trợ của địa phương - nơi
mà có ít nguồn lực, dự án nghiên cứu có thể cần tạo ra những cơ chế hỗ trợ ngắn
hạn
- Các cán bộ nghiên cứu và nhà tài trợ có quy định về đạo đức để giúp
đảm bảo rằng những kết quả nghiên cứu của họ có thể được hiểu và được dùng
một cách đúng đắn nhằm nâng cao sự phát triển của chính sách và các biện pháp
can thiệp
- Chỉ nên đưa các câu hỏi về BL vào các cuộc điều tra được thiết kế cho
mục đích khác khi đạt được các yêu cầu về phương pháp luận và về đạo đức.
[50]
Nãm 2008, tác giả Trần Đình Tuấn có bản dịch “Code of Ethics of the
National Association of Social Worker - approved by the 1996 NASW Delegate
Assembly and revised by the 2008 NASW Delegate Assembly” (Quy tắc đạo đức
12

của Hiệp hội quốc gia NVCTXH Mỹ - phê duyệt năm 1996 tại Đại hội đại biểu
NASW và sửa đổi tại Đại hội đại biểu NASW năm 2008). Trong bản quy điều
nêu rõ các trách nhiệm đạo đức của NVCTXH đối với khách hàng, đồng nghiệp,
nghề CTXH, xã hội; trách nhiệm ở nơi làm việc; trách nhiệm với tư cách là
những nhà CTXH chuyên nghiệp. Những quy điều đạo đức này là cơ sở để
NVCTXH ở Việt Nam tham khảo trong quá trình hoạt động vì Mỹ là nước có
ngành CTXH được xây dựng khá sớm và rất phát triển trong khi chúng ta chưa
có bản quy điều đạo đức cho ngành CTXH ở Việt Nam.
[39]
2.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam

GS.TS Lê Thị Quý - một trong những chuyên gia nghiên cứu về giới và
gia đình đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, trong đó có
bài: “BLGĐ ở Việt Nam” đãng trên Tạp chí Khoa học và Phụ nữ năm 1994.
Trong bài viết này tác giả đã xác định năm nguyên nhân chính của nạn BLGĐ là:
Nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân nhận thức, nguyên nhân văn hoá - xã hội,
nguyên nhân sức khoẻ và nguyên nhân thuộc về phía PN (trong các bài viết sau
bà đã bổ sung thêm “nguyên nhân lớn nhất, sâu xa nhất chính là BBĐ trong quan
hệ giới”).
[32]
Nãm 1999, công trình nghiên cứu “BL trên cơ sở giới” của T.S Vũ Mạnh
Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu Minh - Viện nghiên cứu Gia đình và Giới được
tiến hành ở ba thành phố: Hà Nội, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả
đã đi sâu tìm hiểu về thái độ của cộng đồng và các thể chế xã hội về BL trên cơ
sở giới; phản ứng của các cá nhân, luật pháp và các thể chế đối với nạn BLGĐ.
Trong nghiên cứu, các tác giả cũng đưa ra nhận xét tình trạng BL có chiều
hướng gia tăng, đặc biệt là trong gia đình mà ở đó người PN đang thực hiện và
khẳng định vai trò kinh tế hộ.
[21]
Nghiên cứu “BLGĐ - Nhận thức và thực trạng” của PGS.TS Hoàng Bá
Thịnh được thực hiện tại 6 tỉnh/thành phố: Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa,
Quảng Ngãi, Đồng Tháp, Trà Vinh trong năm 2006 cho thấy: Phần lớn nhận
thức của người dân về BLGĐ còn hạn chế. Có những hành vi BL nhưng người
13

dân không quan niệm đó là hành vi BL như ép buộc làm chuyện gì đó, ép buộc
quan hệ tình dục, ép buộc không cho ra khỏi nhà…Bên cạnh đó, người dân cũng
cho rằng BLGĐ là chuyện riêng của mỗi nhà. Điều đáng quan tâm là không chỉ
người dân mà cán bộ xã/phường đều quan niệm BLGĐ là chuyện nội bộ, tự gia
đình giải quyết. Về hậu quả của BLGĐ đối với PN nghiên cứu trích ra một số
hậu quả: Gây thương tích thân thể, tổn thương tinh thần, ly hôn… Đáng chú ý là

hậu quả của BLGĐ có thể dẫn đến cái chết trực tiếp hoặc gián tiếp của PN. Phần
lớn những trường hợp chết gián tiếp là do nạn nhân tự tử bằng việc dùng thuốc
bảo vệ thực vật.
[37]
Cùng năm này, nghiên cứu “BL của chồng đối với vợ ở Việt Nam trong
những năm gần đây” của nhóm tác giả: Nguyễn Hữu Minh, Lê Ngọc Lân,
Nguyễn Thị Mai Hoa, Trần Thị Cẩm Nhung - Viện Gia đình và Giới có nhận
định: Chủ thể gây ra BLGĐ là người chồng, người bạn đời hoặc chồng cũ. Tác
giả cũng nhấn mạnh sự khác nhau về hình thức BL giữa nông thôn và thành thị.
Ở nông thôn thường diễn ra các hình thức BL về thể chất, ở thành thị thường xảy
ra BL về tinh thần và tình dục. Thông qua nghiên cứu, nhóm tác giả đưa ra một
số khuyến nghị như: Cần nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo về BLGĐ đối
với PN. Đồng thời, cần tiến hành nghiên cứu toàn diện về BL trong gia đình
nhằm tìm hiểu sâu về nguyên nhân, hậu quả của vấn đề để có những biện pháp
can thiệp kịp thời, hợp lý.
Năm 2000, trong tác phẩm “Domestic Violence in Vietnam” do tổ chức
Asia Pacific forum on Women, Law and Development (APWLD) xuất bản, tác
giả Lê Thị Qúy dựa trên những số liệu, dẫn chứng cụ thể đã khẳng định hậu quả
của BLGĐ là: “Để lại những di chứng nặng nề trên đời sống tình cảm, tinh thần,
nhận thức của nạn nhân, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tan vỡ gia
đình ”
[33]
Năm 2002, tác giả Lê Thị Phương Mai và cộng sự có báo cáo “Ngăn chặn
BL trong gia đình: Phổ biến tài liệu hướng dẫn tư vấn chống BL cho các cộng
đồng nông thôn”. Trong đó, tác giả đã đưa ra một số nhận định về nguyên nhân
14

của BLGĐ là tàn dư của BBĐG, những quan niệm truyền thống lạc hậu về vai
trò của người PN trong gia đình, sự thờ ơ, thiếu hỗ trợ của cộng đồng trước
những hành vi BL với PN Tác giả cũng chia ra ba loại BL là: BL thể chất, BL

tinh thần và BL tình dục. Từ đó, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp PCBLGĐ
nhưng chủ yếu tập trung vào việc tuyên truyền, tập huấn tư vấn cho người dân
PCBLGĐ.
[23]

Năm 2003, trong nghiên cứu “BLGĐ Việt Nam” của tác giả Phùng Thị
Kim Anh đề cập nhiều đến nguyên nhân của BLGĐ đối với PN. Theo tác giả,
nguyên nhân của BLGĐ được chia làm 4 nhóm: (1) Nguyên nhân về kinh tế (do
sự khó khăn về kinh tế như thu nhập thấp, con đông, thất nghiệp là nơi sản sinh
ra mâu thuẫn giữa chồng và vợ…). (2) Nguyên nhân nhận thức (còn tồn tại tư
tưởng phong kiến “trọng nam khinh nữ”, “chồng chúa vợ tôi” gán cho người
chồng toàn quyền quyết định các công việc chính trong gia đình; tư tưởng tự ti,
an phận của PN…). (3) Nguyên nhân văn hóa, xã hội (các vấn đề xã hội nảy sinh
như ma túy, cờ bạc, rượu chè, thất nghiệp, ngoại tình… - là những nơi dung
dưỡng nạn BLGĐ). (4) Nguyên nhân về tình dục (có nhiều vụ BLGĐ xảy ra do
người chồng không thỏa mãn về vấn đề tình dục, ép vợ quan hệ tình dục, cố tình
gây đau đớn, tổn hại cho PN…).
[2]

Năm 2006, đề tài luận văn thạc sỹ “Thái độ của phụ nữ trước hành vi
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình” của tác giả Trịnh Thị Vân Anh do
PGS.TS Lê Đức Phúc hướng dẫn nêu rõ thái độ của PN trước hành vi BLGĐ là
sự tổng hợp của ba mặt nhận thức - cảm xúc - hành vi; các trường hợp phụ nữ bị
BL cho thấy nhận thức của những phụ nữ này về BL chưa đầy đủ, sâu sắc, điều
này dẫn đến những hành vi chưa đúng đắn, kịp thời khi ứng phó với những hành
vi BL; nếu tác động vào mặt nhận thức và hành vi của họ sẽ giúp họ phòng tránh
kịp thời và có cuộc sống tốt đẹp hơn.
[4]

Trong nãm 2007, hai tác giả Lê Thị Qúy và Đặng Vũ Cảnh Linh có tác

phẩm “BLGĐ - một sự sai lệch giá trị”. Bên cạnh những vấn đề lý luận về
BLGĐ, hai nhà nghiên cứu đã có những mô tả, phân tích, nhận xét rất chi tiết
15

một số nghiên cứu can thiệp trong thực tiễn về BLGĐ và BL chống PN trong gia
đình, một số dự án PCBLGĐ ở Việt Nam tại các địa bàn: Hà Nội, Phú Thọ, Thái
Bình, Thừa Thiên Huế. Nhiều mô hình PCBLGĐ được đưa ra phân tích: Mô
hình truyền thông; mô hình can thiệp, cứu giúp nạn nhân; mô hình tư vấn, hỗ trợ
về tâm lý và giáo dục; mô hình can thiệp tại cộng đồng. Trên cơ sở đánh giá hiệu
quả, hạn chế của một số mô hình đã thực hiện tại địa phương các tác giả đã rút ra
nhiều bài học kinh nghiệm qúy báu cho công tác PCBLGĐ ở nước ta.
[34]
Theo các tác giả Nguyễn Hữu Minh và Lê Ngọc Lân - Viện nghiên cứu Gia
đình và Giới với nghiên cứu “BLGĐ đối với PN Việt Nam và những yếu tố tác
động”

năm 2007 đã phân BLGĐ thành 3 loại:
 BL thân thể: Đánh đập, làm tổn thương thể xác.
 BL tinh thần: Bao gồm cả lời nói và tình cảm như lăng mạ, chửi rủa,
mắng mỏ, đe dọa, chiến tranh lạnh, ngoại tình,…
 BL tình dục: Cưỡng ép vợ trong quan hệ tình dục trái với ý muốn của
người vợ.
[20]
Đề tài luận văn thạc sĩ "Cưỡng bức tình dục trong hôn nhân - nghiên
cứu trường hợp tại xã Gia Vượng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và phường
Tứ Liên, quận Tây Hồ, Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung do PGS.TS
Hoàng Bá Thịnh hướng dẫn đã phản ánh kết quả: Cưỡng bức tình dục trong hôn
nhân xảy ra phổ biến tại địa bàn nghiên cứu và để lại nhiều hậu quả nghiêm
trọng về thân thể, tâm lí và xã hội cho người PN. Tình trạng này xảy ra không
phụ thuộc vào vị trí địa lí, tầng lớp xã hội, độ tuổi hay trình độ văn hoá và nó có

mối liên hệ mật thiết với các hình thức BLGĐ khác đối với PN. Trong đó, vấn đề
giới đóng vai trò quan trọng và là cốt lõi của cưỡng bức tình dục trong hôn nhân.
Cộng đồng và xã hội thiếu sự giúp đỡ đối với các trường hợp cưỡng bức tình dục
trong hôn nhân do nhận thức về tình dục còn hạn chế khiến cho người PN nhẫn
nhịn chịu đựng sự cưỡng bức của chồng.
Trong năm 2008, nhiều hội thảo được diễn ra ở nhiều địa phương trong cả
nước bàn về vấn đề BLGĐ nhằm tìm ra các biện pháp ngãn chặn, xóa bỏ nó.
16

Trong Hội thảo về Biện pháp PCBLGĐ tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, bác
sĩ Nguyễn Minh Tiến - một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý trị liệu có bài tham
luận: “Làm việc với thân chủ có vấn đề bạo hành trong gia đình”. Bài tham
luận đã phản ánh thực trạng BLGĐ tại Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra các dấu
hiệu nhận biết, các biện pháp hỗ trợ nạn nhân về tức thời cũng như lâu dài rất chi
tiết mà chúng ta có thể vận dụng hiệu quả.
[38]
PGS.TS Nguyễn Hữu Minh - Viện Gia đình và Giới có bài tham luận:
“Vai trò của các tổ chức trong PCBLGĐ” trình bày tại Hội thảo về việc triển
khai thi hành Luật BĐG và Luật PCBLGĐ tổ chức ở Thành phố Yên Bái. Tham
luận chỉ rõ trách nhiệm, vai trò của các tổ chức ở các cấp trước những yêu cầu
của Luật PCBLGĐ và một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn trong hoạt động phòng
ngừa, hoạt động can thiệp BLGĐ, cần chú ý tới quy trình can thiệp: Tổ hoà giải -
> Ban hoà giải -> Tư pháp, công an -> Toà án.
[26]
Nãm 2010, GS.TS Trần Thị Minh Đức hoàn thành và công bố cuốn
chuyên khảo “Hành vi gây hấn - phân tích từ góc độ tâm lý học xã hội”. Trong
tác phẩm dành một chương bàn về BLGĐ. Trên cơ sở các cách tiếp cận về
BLGĐ như: sinh học xã hội, tâm lý học, xã hội học, văn hóa, khoa học giới, tác
giả đã làm rõ “chân dung” từng loại BLGĐ - thân thể, tinh thần, xã hội, tình dục,
kinh tế và nhấn mạnh vào hậu quả của BLGĐ đối với nạn nhân của nó. Đãc biệt

là BL tinh thần - loại BL “đem lại sự đau đớn, khổ sở nhất”, nó để lại sự tổn
thương tâm lý rất nặng nề nhưng lại khó nhận biết; đặc điểm tâm lý của người
PN khi bị chồng BL về tinh thần diễn biến theo một vòng tròn: Khi bị chồng BL
thì đau đớn, mệt mỏi, giận dữ; sau những ăn năn, hứa hẹn của người chồng thì
họ lại tha thứ, thương hại; sau đó, người chồng vì mọi lý do lại hành hạ vợ về
tinh thần, có khi cả thể xác, tình dục. Cứ như vậy, vòng tròn BL tiếp tục quay và
người PN khó có thể dứt ra được.
[7]
Nãm 2010, Tổng cục thống kê phối hợp với tổ chức LHQ tại VN thực hiện
“Nghiên cứu quốc gia về BLGĐ đối với phụ nữ ở Việt Nam”. Kết quả nghiên
cứu đã đưa ra những con số đáng báo động về tình hình BLGĐ ở nước ta: Nếu
17

xem xét đến cả ba hình thức bạo hành chính trong đời sống vợ chồng - thể xác,
tình dục và tinh thần, thì có hơn một nửa (58%) PN Việt Nam cho biết đã từng là
nạn nhân của ít nhất một hình thức BLGĐ kể trên. Mặc dù BLGĐ là một hiện
tượng rất phổ biến nhưng vấn đề này vẫn bị giấu diếm nhiều. Báo cáo này cũng
nêu bật tính cấp thiết của việc phá bỏ sự im lặng để giải quyết BLGĐ.
[36]
Liên quan đến khách thể nghiên cứu trong đề tài này, nãm 2011, Liên
đoàn lao động tỉnh Vĩnh Phúc có công trình nghiên cứu “Thực trạng và các giải
pháp nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho công nhân lao động
trong các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” đã chỉ rõ: hầu
hết các doanh nghiệp chưa chú trọng nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho
công nhân lao động; rất nghèo nàn; đời sống vãn hóa tinh thần của công nhân lao
động trong các KCN hết sức khô khan; các hoạt động chủ yếu: phổ biến, tuyên
truyền chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước, tổ chức giao lưu văn hóa
ít được quan tâm. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách và pháp luật của Đảng,
Nhà nước mới chỉ được một số luật như: Luật lao động, Luật công đoàn, Luật
bảo hiểm xã hội mà chưa có Luật PCBLGĐ; các tổ chức công đoàn cơ sở được

thành lập nhưng chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy được vai trò -
chủ yếu quan tâm việc thăm hỏi khi ốm đau, hiếu, hỉ
[18]

Cũng trong năm 2011, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Vĩnh Phúc có đề tài
nghiên cứu “Thực trạng, giải pháp PCBLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”.
Đề tài tập trung vào thực trạng BLGĐ đối với người vợ; công tác PCBLGĐ ở
Vĩnh Phúc và đề ra các giải pháp hạn chế tiến đến xóa bỏ tình trạng BL với
người vợ trong gia đình trên địa bàn tỉnh. Trong đó tập trung vào hai nhóm giải
pháp: Nhóm giải pháp tuyên truyền, giáo dục nhận thức và nhóm giải pháp thiên
về chế tài bằng pháp luật.
[13]
Các nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, hầu hết đã chỉ ra thực trạng của
BLGĐ, những nguyên nhân, hậu quả của nó và đề ra các giải pháp, khuyến nghị
nhằm giải quyết vấn đề này. Qua đây có thể nhận thấy rằng: Tình trạng BLGĐ,
đặc biệt là BLGĐ đối với phụ nữ đang được tất cả các quốc gia trên thế giới
18

quan tâm. Ở Việt Nam, BLGĐ đối với phụ nữ xảy ra hầu khắp các vùng trong cả
nước, từ nông thôn, thành thị, đồng bằng, miền núi. Hình thức BLGĐ đa dạng ở
mỗi vùng, mỗi quốc gia, song hậu quả để lại cho nạn nhân là giống nhau.
Tuy nhiên, rào cản trong phòng chống BLGĐ là nhận thức và phản ứng
của người trong cuộc còn thấp, nhận thức của cộng đồng chưa cao. Ngoài ra, còn
có các rào cản về văn hóa, phong tục tập quán,… Nhìn chung, các nghiên cứu
thường đi tìm hiểu về nguyên nhân, thực trạng, thống kê số liệu mà chưa đi sâu
tìm hiểu, phân tích, can thiệp với những đối tượng cụ thể. Những hoạt động can
thiệp chỉ dừng lại ở giải pháp, các biện pháp can thiệp đưa ra từ các công trình
ấy thường mang tính tổng hợp cho nhiều đối tượng khác nhau hoặc cho các
nhóm đối tượng.
2.2. Một số mô hình phòng chống bạo lực gia đình đã được triển khai

trên thế giới và ở Việt Nam
 Ở Mỹ - Mô hình Duluth về cách tiếp cận cộng đồng hợp tác trong việc
giải quyết vấn đề BLGĐ
Mô hình này được phát triển tại thành phố Duluth, Minnesota, Mỹ.
Chương trình Duluth đã kết hợp những bộ phận khác nhau của hệ thống luật
pháp như cảnh sát, tòa hình sự, tòa dân sự và tăng cường mối liên kết giữa hệ
thống luật pháp và các nguồn khác như nhà tạm lánh dành cho những PN bị đánh
đập và các chương trình vận động. Cách tiếp cận này đã được nhân rộng ở rất
nhiều quốc gia trên khắp thế giới, bao gồm một số quốc gia tại Trung và Đông
Âu. Tuy nhiên, việc duy trì nhà tạm lánh đòi hỏi nhiều nguồn lực. Thay vì nhà
tạm lánh, nhiều nước trong khu vực thành lập các địa chỉ an toàn nơi mà PN có
thể lánh nạn như đền thờ, nhà thờ.
 Ở Australia, Canada, châu Âu
Các nước này áp dụng mô hình là tập hợp những người gây BL theo từng
nhóm và thảo luận về vai trò giới, hướng dẫn họ phương pháp kiềm chế nóng
giận, căng thẳng và cách thể hiện cảm giác đối với người khác, giúp họ ư thức
được trách nhiệm đối với hành động của mình. Mô hình này bước đầu có hiệu
19

quả vì nhiều PN cho biết chồng họ có cách xử tốt hơn sau khi tham gia khoá học.
Ưu điểm của mô hình là nội dung thảo luận đơn giản vì vậy có thể tập hợp được
nhiều nam giới tham gia. Thông qua mô hình cũng làm tăng nhận thức của nam
giới về hành vi BL đối với PN để họ có cách xử sự phù hợp với PN. Tuy nhiên,
mô hình này chưa đề cập đến thời gian của khoá học và những chế tài đối với
những người không tham gia khoá học. Vì vậy, sau một thời gian thực hiện, mô
hình này chưa mang lại hiệu quả vì nam giới không tham gia khóa học.
 Ở Braxin
Tại đây, nhà nước xây dựng mô hình đồn cảnh sát toàn PN. Việc xây dựng
mô hình này giúp các nạn nhân dễ dàng chia sẻ hơn khi gặp nạn. Song, trong mô
hình lại thiếu các dịch vụ tư vấn pháp lý và hỗ trợ cho nạn nhân. Thêm vào đó,

việc có những đồn cảnh sát dành riêng cho PN khiến cho những đơn vị cảnh sát
khác từ chối đơn khiếu nại của PN trong những trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra,
có nhiều đồn cảnh sát toàn PN ở quá xa vì vậy PN thường đến những đồn cảnh
sát gần hơn để được trợ giúp.
 Khu vực ASEAN
Một trong những biện pháp của các nước mà điển hình là Thái Lan,
Malayxia và Philippin đã sử dụng hiệu quả trong công tác PCBLGĐ là xây dựng
mô hình: Trung tâm Hỗ trợ các nạn nhân của BL đối với phụ nữ (OSCC). Trung
tâm có chức năng điều trị, tư vấn về luật pháp và tâm lý cho các nạn nhân. Đặc
biệt, tại Thái Lan, Trung tâm OSCC được thành lập lần đầu tiên ở các bệnh viện
sau đó mở rộng dần từ trung ương xuống cấp huyện. Thái Lan đã thành công lớn
trong việc kết hợp thêm chức năng tư vấn và hỗ trợ các nạn nhân của BL cho các
cơ sở y tế. Tuy nhiên, mô hình này tập trung vào việc tư vấn cho nạn nhân của
BLGĐ mà chưa tác động được đến đối tượng là nam giới.
 Tại Việt Nam
* Mô hình “Làng xã Việt Nam không có BLGĐ”

dựa trên dự án “Dựa vào
sáng kiến cộng đồng, xây dựng làng xã Việt Nam không có BLGĐ” do Trung
tâm Nghiên cứu Giới và Phát triển (RCGAD) phối hợp với Hội liên hiệp phụ nữ
20

Việt Nam thực hiện. Các hoạt động của dự án là xây dựng mô hình can thiệp có
sự tham gia của người dân, động viên sự tham gia của PN. Các tổ tư vấn, CLB,
địa chỉ tin cậy được thành lập. Ngoài ra, dự án còn tổ chức nhiều lớp tập huấn
cho cán bộ địa phương về kiến thức BĐG, kỹ năng tuyên truyền, vận động, xử lý
tình huống liên quan đến BLGĐ. Hoạt động đạt hiệu quả cao là phát tờ rơi, sử
dụng truyền thanh, truyền hình, pano, áp phích, diễn văn nghệ có nội dung
PCBLGĐ.
Mô hình “Làng xã Việt Nam không có BLGĐ” đã đạt được nhiều kết quả

tốt. Mô hình sử dụng chi phí thấp nhưng đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, mô hình này
huy động được sự tham gia của người dân một cách tự nguyện, phát huy được
nguồn nhân lực tại địa phương và tạo điều kiện cho các đoàn thể của địa phương
tham gia vào việc phục vụ thành công mô hình.
* Một mô hình khác do Trung tâm Phụ nữ và Phát triển hợp tác với các tổ
chức: PN Bắc Âu chống BLGĐ, PN châu Âu chống lại BL, Ủy ban châu Âu
cùng xây dựng là mô hình “Ngôi nhà bình yên” (Nhà tạm lánh) dành cho những
nạn nhân của BLGĐ. Các nạn nhân khi đến “Ngôi nhà bình yên” đều được hỗ trợ
về nơi ăn ở an toàn, chăm sóc sức khỏe, giải quyết các vấn đề tâm lý, hỗ trợ dạy
nghề, tham gia các buổi nói chuyện chuyên đề về chăm sóc sức khỏe sinh sản, kỹ
năng giao tiếp. Những PN là nạn nhân của BLGĐ sẽ lưu trú tối đa là 4 tháng.
Đây là mô hình giúp cho những nạn nhân bị BLGĐ cách ly được với người gây
ra BL. Tuy nhiên, sau thời gian lưu trú vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nạn
nhân tự tin tái hoà nhập cộng đồng. Vì vậy, việc đưa nạn nhân vào “Nhà tạm
lánh” chỉ là biện pháp tạm thời nhưng lâu dài cần phải phối hợp đồng bộ nhiều
biện pháp khác nhau.
* Mô hình CLB “Cùng chia sẻ” là mô hình do Trung tâm nghiên cứu và
ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA) kết
hợp với Hội Phụ nữ quận Cầu Giấy thành lập dưới sự tài trợ của CLB Phụ nữ
Quốc tế Hà Nội (HIWC). CLB “Cùng chia sẻ” dành cho các nạn nhân của
BLGĐ được thành lập từ năm 2005. Tại đây, CSAGA tham gia với vai trò điều
21

hành và tổ chức các hoạt động bằng phương pháp nghệ thuật và sáng tạo nhằm
giúp các thành viên CLB phá vỡ sự im lặng, chia sẻ các câu chuyện của mình và
học hỏi kinh nghiệm từ các thành viên khác và sự tư vấn của các chuyên gia của
CSAGA CLB sinh hoạt định kì 1 tháng/1 lần. Đến với CLB, các chị em được
cung cấp những thông tin, kiến thức liên quan đến về BLGĐ, giới, BĐG, kỹ
năng sống để xây dựng gia đình hạnh phúc. Bên cạnh đó, chị em cũng được
hướng dẫn và cùng thảo luận những biện pháp phòng tránh và giải quyết vấn đề

BLGĐ.
* CLB Gia đình phát triển bền vững và Nhóm PCBLGĐ
Mô hình do Bộ văn hóa, thể thao và du lịch xây dựng và triển khai, nhận
được sự tham gia hưởng ứng của 63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Các CLB tập
trung giáo dục ứng xử giữa các thành viên trong gia đình; kỹ năng giữ gìn hạnh
phúc gia đình; BĐG. Đến nay cả nước đã nhân rộng và duy trì hoạt động nề nếp
khoảng 2.500 CLB và hơn 4.000 nhóm PCBLGĐ.
* Tháng 4/2008, được sự hỗ trợ về tài chính của tổ chức Hỗ trợ Phát triển
Thuỵ Sĩ (SDC), Trung tâm nghiên cứu Giới và Phát triển (RCGAD) trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tiến hành đợt nghiên cứu xây dựng
mô hình can thiệp BLGĐ tại xã Vũ Lạc, thành phố Thái Bình và thị trấn Thanh
Nê, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Dự án đã thành lập các mô hình hoạt
động cụ thể, liên kết với nhau trong một thể thống nhất. Đó là: Mô hình truyền
thông; Mô hình đào tạo, tư vấn; Mô hình CLB nhóm nhỏ; Mô hình can thiệp
trong các trường hợp khẩn cấp; Mô hình cứu trợ nạn nhân; Mô hình giáo dục,
trừng phạt kẻ gây BL.
Ngoài ra, một số địa phương đã thành lập thí điểm các mô hình: Trung
tâm tư vấn chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, các CLB vì hạnh phúc gia đình, CLB tình
nguyện vì hạnh phúc gia đình Đặc biệt, trong từng địa phương quy mô là
huyện, xã cũng có những mô hình hỗ trợ các nạn nhân bị BLGĐ: Tổ chức Action
Aids đưa ra mô hình “Nâng cao quyền và vị thế của phụ nữ” ngay từ trong
trường học thông qua các bài giảng và sinh hoạt ngoại khóa cho các học sinh.
22

“Mô hình lồng ghép phòng chống bạo hành giới dựa vào cơ sở y tế và cộng
đồng” tại thị xã Cửa Lò - Nghệ An do Công ty tư vấn và đầu tư thiết bị y tế
(CIHP) triển khai, bao gồm: CLB PCBLGĐ cấp phươ
̀
ng/xã và Trung tâm tư vấn
Hạnh phúc và Gia đình

Nhiều mô hình, dự án được đưa ra, triển khai nhằm PCBLGĐ, hỗ trợ các
nạn nhân của BLGĐ. Có mô hình thì đã đạt được hiệu quả nhất định nhưng cũng
có những mô hình chưa đạt được kết quả như mong muốn. Một điều có thể dễ
nhận thấy là các mô hình này phần lớn tập trung vào các đối tượng nạn nhân của
BLGĐ là PN, trẻ em, còn nam giới thì hầu hết được can thiệp với tư cách là thủ
phạm gây ra BLGĐ. Tính hiệu quả của các biện pháp can thiệp phải được đánh
giá dựa trên sự thay đổi của nạn nhân và cuối cùng là phải làm sao nạn nhân thực
sự mạnh mẽ khi trở về với cộng đồng. Muốn vậy, can thiệp phải cụ thể với từng
người, trong từng hoàn cảnh khác nhau trong khi các mô hình được xây dựng lại
dựa trên kết quả khảo sát rất nhiều đối tượng khác nhau. Do vậy, vận dụng
CTXH để can thiệp với từng đối tượng cụ thể bị BLGĐ là rất cần thiết.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài sử dụng các lý thuyết làm phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu
và can thiệp: Lý thuyết hệ thống - sinh thái; Lý thuyết can thiệp khủng hoảng;
Lý thuyết nhận thức hành vi và Lý thuyết gắn bó. Quá trình thực hiện cũng như
kết quả can thiệp làm sáng tỏ ý nghĩa, sự vận dụng của các lý thuyết vào một
lĩnh vực/ một đối tượng cụ thể trong CTXH.
Đề tài góp phần làm rõ mối liên hệ giữa kiến thức, kỹ năng và giá trị trong
ứng dụng CTXH vào thực tế.
Đề tài thể hiện quá trình nghiên cứu và can thiệp về một vấn đề cụ thể, với
một đối tượng cụ thể trong CTXH, qua đây nhằm góp phần hình thành một cách
nhìn mới về BLGĐ, về giới, về gia đình, về vai trò của NVCTXH đối với một
nhóm đối tượng đặc thù trong CTXH là những NCN bị BLGĐ.

23

3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc can thiệp giúp cho chính bản thân NCN là nạn nhân của BLGĐ nâng
cao nhận thức, nâng cao năng lực để có thể tự lực thoát khỏi tình trạng BLGĐ và

giúp đỡ những chị em cùng cảnh ngộ.
Quá trình can thiệp còn giúp cho gia đình của NCN bị BL nhận thức đúng
đắn hơn về vấn đề này để có thể trợ giúp cho chị em thoát khỏi và phòng tránh
BLGĐ. Đặc biệt là đối với người nam giới trong gia đình, người gây ra BL sẽ
thay đổi suy nghĩ, hành động để không gây ra BLGĐ với người phụ nữ.
Quá trình can thiệp sẽ tác động đến địa phương, giúp chính quyền và
người dân địa phương nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề này để từ đó nâng cao
trách nhiệm và có những biện pháp, hành động can thiệp, trợ giúp hiệu quả cho
những nạn nhân bị BLGĐ nói chung và những NCN bị BLGĐ nói riêng. Bên
cạnh đó còn giúp cho lãnh đạo công ty, lãnh đạo các đoàn thể công ty nơi đối
tượng làm việc sẽ có sự quan tâm hơn đến đời sống của công nhân.
NVCTXH được rèn luyện các kỹ năng nghề nghiệp trong thực tế.
Đề tài đưa ra những khuyến nghị của NVCTXH sẽ góp phần làm nâng cao
hiệu quả của việc trợ giúp cho những nạn nhân của BLGĐ, nâng cao nhận thức,
tay nghề của chính NVCTXH.
4. Mục đích của đề tài
- Làm rõ thực trạng trên địa bàn nghiên cứu, qua đó đưa ra những nhận
định, đánh giá về công tác PCBLGĐ tại địa phương.
- Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của bản thân người NCN bị
BLGĐ, giúp đối tượng tăng năng lực để tự giải quyết vấn đề của mình.
- Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của người gây ra BLGĐ với
người NCN đó.
- Tăng cường vai trò trợ giúp của CTXH đối với NCN bị BLGĐ.



×