Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Định hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc sau tốt nghiệp của sinh viên ngoài công lập hiện nay (Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Đông Đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 128 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG

ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
VÀ KHU VỰC LÀM VIỆC SAU TỐT NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN NGOÀI CÔNG LẬP HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Đông Đô)


Chuyên ngành: Xã hội học Nông thôn - Đô thị
Mã số: 60 - 31 - 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Vũ Hào Quang







Hà Nội - 2009

2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ MINH PHƯƠNG


ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
VÀ KHU VỰC LÀM VIỆC SAU TỐT NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN NGOÀI CÔNG LẬP HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp Trường Đại học Đông Đô)




LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC









Hà Nội - 2009
MỤC LỤC




Trang

Danh mục các bảng biểu …………………………………
4
MỞ ĐẦU


1.
Lý do chọn đề tài
5
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề ……
8
3.
Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
17
4.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ………
18
5.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ………………… …
19
6.
Giả thuyết và khung lý thuyết
20
Chương 1:
Cơ sở lý luận nghiên cứu


1.1.
Các khái niệm …………………………………………
22
1.1.1.
Việc làm
22
1.1.2.
Thất nghiệp
25
1.1.3.
Sinh viên
26
1.1.4.
Nghề nghiệp
28
1.1.5.
Thị trường lao động
29
1.1.6.
Khu vực làm việc
31
1.1.7.
Ngoài công lập
31
1.2.
Cở sở lý luận ……………………………………………
32
1.2.1.
Lý thuyết hành động xã hội

32
1.2.2.
Lý thuyết tương tác xã hội
34
1.2.3.
Lý thuyết quan hệ xã hội
35
1.2.4.
Lý thuyết vị thế - vai trò
36
1.2.5.
Lý thuyết về định kiến xã hội
38
1.2.6.
Lý thuyết xã hội hóa
40
2

1.2.7.
Lý thuyết lựa chọn hợp lý
41
1.3.
Quan điểm của Nhà nước về định hướng việc làm cho
Thanh niên và Sinh viên hiện nay………………………

42
Chương 2:
Thực trạng định hướng nghề nghiệp và khu vực làm
việc của sinh viên



Vài nét về Đại học ngoài công lập hiện nay………………
46
2.1.
Nhận định chung về sinh viên Đại học Dân lập Đông Đô
48
2.2.
Sự khác biệt định hướng ngành học ban đầu và ngành học
hiện nay ………………………………………………

52
2.2.1.
Định hướng nghề nghiệp ban đầu và định hướng nghề
nghiệp khi đăng ký nguyện vọng vào Đại học Đông Đô…

52
2.2.2.
Định hướng ngành học ban đầu vào trường Đông Đô
chiếm tỷ lệ thấp…………………………………………

56
2.3.
Các khu vực làm việc của sinh viên sau khi tốt
nghiệp……………………………………………………

62
2.3.1.
Quan điểm của sinh viên về các khu vực dự định làm việc
sau khi tốt nghiệp ………………………………………


62
2.3.2.
Định hướng của sinh viên về khu vực làm việc sau khi tốt
nghiệp …………………………………………………

66
2.3.2.1.
Định hướng của sinh viên về khu vực Nhà nước.
66
2.3.2.2.
Định hướng của sinh viên về khu vực Liên doanh.
77
2.3.2.3.
Định hướng của sinh viên về khu vực Tư nhân.
81
2.3.2.4.
Định hướng sau khi tốt nghiệp bằng cách tự tạo việc làm
85
2.4.
Định hướng giá trị nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp của
sinh viên Đại học Đông Đô hiện nay.

93
2.4.1.
Phạm trù các giá trị xã hội nghề nghiệp của sinh viên Đại
học Đông Đô ……………………………………………

93
3


2.4.2.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên theo các giá trị xã hội
94
2.4.2.1.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên là thu nhập cao
95
2.4.2.2.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên là được xã hội coi trọng
97
2.4.2.3.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên là công việc ổn định
99
2.4.2.4.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên là theo sở thích …
101
2.4.2.5.
Định hướng nghề nghiệp của sinh viên là làm việc đúng
chuyên môn ………………………………………………

102
2.5.
Định hướng về nơi làm việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp
104
2.5.1.
Xu hướng lựa chọn làm việc tại các đô thị
104
2.5.2.
Sinh viên định hướng làm việc tại các vùng khác khi đã
xác định cơ hội việc làm


108

Kết luận

1.
Kết luận …………………………………………………
112
2.
Khuyến nghị ……………………………………………
115
1.
Về góc độ quản lý của trường
115
2.
Đối với sinh viên
116
3.
Một số dự báo …………………………………………….
117

Tài liệu tham khảo
118










4

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT
Tên bảng biểu
Trang
Biểu 2.1:
Lý do trở thành sinh viên Đại học dân lập Đông Đô
54
Bảng 2.1:
Tỷ lệ lựa chọn khu vực làm việc của sinh viên
63
Biểu 2.2:
Nghề nghiệp của bố mẹ
67
Bảng 2.2:

Tương quan giữa các khoa định hướng khu vực làm việc
sau tốt nghiệp
71
Biểu 2.3:
Định hướng về khu vực Nhà nước của sinh viên sau tốt nghiệp
75
Biểu 2.4:
Định hướng khu vực làm việc sau tốt nghiệp
78
Biểu 2.5:
Định hướng của sinh viên về khu vực Liên doanh sau tốt nghiệp
79

Biểu 2.6:
Định hướng của sinh viên về khu vực Tư nhân sau tốt nghiệp
82
Biểu 2.7:
Tương quan giữa các khoa về định hướng khu vực làm
việc của sinh viên
83
Biểu 2.8:
Định hướng tự tạo việc sau tốt nghiệp
86
Bảng 2.3:
Tương quan giữa các khoa về định hướng tự tạo việc làm
sau tốt nghiệp
87
Biểu 2.9:
Tương quan giữa các khoa về định hướng tự tạo việc làm
sau tốt nghiệp
89
Biểu 2.10:
Đánh giá của sinh về các giá trị nghề nghiệp
94
Biểu 2.11:
Lựa chọn nơi làm việc của sinh viên sau tốt nghiệp
105
Bảng 2.4:
Tương quan giữa các khoa về định hướng về nơi làm việc
của sinh viên
108

5


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Khởi nghiệp của cá nhân bắt đầu từ sự định hướng và định hướng ban
đầu cho sự nghiệp của mỗi cá nhân thuờng là định hướng về nghề nghiệp.
Mỗi người đều có sự khác biệt về sở thích và năng lực, vì vậy khám phá và sử
dụng đúng những năng lực cá nhân sẽ giúp họ thành công hơn trong cuộc
sống. Định hướng nghề nghiệp dựa trên đặc điểm cá nhân ngay từ bậc học
phổ thông sẽ giúp học sinh lựa chọn được những ngành học ở bậc Đại học mà
mình yêu thích, phù hợp với khả năng bản thân và điều kiện gia đình.
Định hướng nghề nghiệp phù hợp cũng là con đường đi tới tương lai
tươi sáng, giúp sinh viên hăng say trong học tập và có nhiều cơ hội việc làm
hơn sau khi tốt nghiệp đại học. Bởi có một công việc phù hợp đúng chuyên
môn không những giúp bạn thành công trong nghề nghiệp mà còn đảm bảo
được chất lượng cuộc sống bằng đúng nghề nghiệp mà bản thân theo đuổi.
Việc làm không chỉ là sự sống còn của mỗi cá nhân, mà nó còn thể
hiện tầm chiến lược của mỗi một quốc gia, việc làm liên quan đến kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa và các vấn đề về nghèo đói,… Trong chiến lược của
mỗi quốc gia việc làm là một trong những yếu tố hàng đầu, trong các hội nghị
toàn cầu việc làm cũng gây được sự chú ý của các quốc gia Có việc làm
không chỉ là nhu cầu của con người mà còn là nguồn gốc tạo ra của cải vật
chất trong xã hội. Tuy nhiên chất lượng việc làm cũng là một trong những yếu
tố liên quan đến định hướng nghề nghiệp ban đầu của mỗi cá nhân
Trong xu thế toàn cầu hóa vấn đề việc làm có sự liên quan nhất định
đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội từ đó sẽ tạo điều kiện hòa nhập với thế
giới dễ dàng hơn, việc làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống của các
6

thành viên trong xã hội, vấn đề việc làm có thể làm tăng hoặc hạn chế các yếu

tố ngoại lai trong quá trình hội nhập…
Cũng như vậy, việc làm cho sinh viên khi ra trường có tầm ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển xã hội khi các tri thức trẻ có trình độ cao, đầy nhiệt
huyết tham gia vào các hoạt động của xã hội, tránh lãng phí trong đào tạo.
Như vậy, việc làm có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với sự phồn
thịnh của mỗi quốc gia. Gần đây khi bàn về vấn đề việc làm các nhà quản lý
đã nêu ra một số vấn thực tế khác có liên quan đến người lao động, đó là định
hướng nghề nghiệp cũng như tính bền vững và hiệu quả của định hướng nghề
nghiệp. Vậy định hướng nghề nghiệp liên quan như thế nào đến tính bền
vững, hiệu quả và chất lượng của việc làm, và định hướng nghề nghiệp sẽ
giúp người lao động phát huy năng lực cá nhân và tiếp cận thị trường lao
động như thế nào? Từ sự quan tâm đó chúng tôi tiếp cận tới đối tượng là
những sinh viên - một lực lượng lao động tri thức trẻ, với mục đích tìm hiểu
cách thức họ đã định hướng nghề nghiệp như thế nào?
Thực tế hàng năm số lượng sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học
trong cả nước tìm được việc làm chiếm một tỷ lệ lớn, nhưng tình trạng sinh
viên ra trường không làm đúng chuyên môn được đào tạo cũng rất phổ biến.
Lý do dẫn đến thực tế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng
một trong những nguyên nhân mà chúng tôi muốn bàn đến đó là định hướng
nghề nghiệp của mỗi cá nhân chưa dựa trên đặc điểm về đam mê và năng lực
thực sự của mỗi sinh viên,
Trong chiến lược phát triển thanh niên của Chính phủ đến năm 2010 đã
coi tình trạng thất nghiệp là vấn đề khó khăn lớn nhất hiện nay đối với Thanh
niên Việt Nam. Chiến lược Thanh niên còn đặt vấn đề lao động và việc làm ở
vị trí trung tâm trong cuộc chiến chống lại đói nghèo của Quốc gia. Không chỉ
ở Việt Nam mà tại các nước phát triển luôn coi Thanh niên là đối tượng cần
7

quan tâm đặc biệt vì việc làm của Thanh niên không chỉ tạo ra phẩm giá và
lòng tự trọng, hậu quả không có việc làm cho Thanh niên nếu kéo dài sẽ làm

nảy sinh các vấn đề xã hội khác, từ đó vòng luần quẩn của đói nghèo sẽ tiếp
tục xảy ra, chúng ta sẽ bị ra khỏi ngoài lề sự phát triển của thế giới. Đối tượng
lao động trẻ ở Việt nam là vốn tài sản lớn trong sự nghiệp phát triển của đất
nước, tuy nhiên cũng đặt ra một thách thức lớn về việc làm cho đối tượng này.
Vì vậy thách thức đối với các ban ngành liên quan và Nhà nước là phải đưa ra
những chính sách hiệu quả về đào tạo, tư vấn, định hướng việc làm và các
dịch vụ việc làm khác,
Cũng như nhiều lực lượng lao động khác, sinh viên sau khi tốt nghiệp
đại học đều tha thiết được làm việc tại những nơi có điều kiện phát triển thuận
lợi. Điều này hoàn toàn mang tính khách quan, phản ánh thực tế nhu cầu tâm
lý và nhu cầu xã hội của cá nhân. Nhưng xu hướng này kéo theo nhiều hệ lụy
xã hội khác như: quá tải dân cư ở các khu đô thị lớn, thất nghiệp, ô nhiễm môi
trường, nhà ở, các dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng không theo kịp sự gia
tăng dân số, hơn thế nữa tình trạng này dẫn đến nơi thừa, nơi thiếu lao động.
Vì vậy khó có thể đảm bảo sự phát triển đồng đều về kinh tế và xã hội giữa
các vùng miền như chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay tình trạng sinh viên ra trường phải làm trái ngành nghề có tỷ
lệ tương đối lớn. Điều đó gây ra sự lãng phí trong đào tạo Đại học và dẫn đến
chất lượng việc làm thấp. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, cả nước chỉ có khoảng 25 trường có tỷ lệ sinh viên làm đúng ngành nghề,
và thường rơi vào những trường mang tính đặc thù như Đại học Y, Dược,
Ngoại thương, Ngân hàng, Giao thông còn lại các trường trong nhóm kỹ
thuật hay Khoa học xã hội & Nhân văn, Tự nhiên thì tỷ lệ này thấp hơn.
Không thể khởi nghiệp cũng như không thể thành công trong nghề
nghiệp nếu như không bắt đầu từ sự định hướng nghề nghiệp đúng đắn. Vì
8

thế, trong khuôn khổ một báo cáo luận văn tốt nghiệp tôi muốn tìm hiểu về
định hướng nghề nghiệp của sinh viên trong bối cảnh sinh viên vào học không
trên định hướng nghề nghiệp ban đầu và định hướng về khu vực làm việc sau

khi tốt nghiệp của sinh viên ngoài công lập (đại diện là Đại học Đông Đô).
Hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn mối quan hệ giữa định hướng nghề nghiệp và
kết quả học tập của sinh viên cũng như định hướng về khu vực và nơi làm
việc của sinh viên sau khi tốt nghiệp trên cơ sở phương thức đào tạo của mô
hình ngoài công lập.
Từ đó có một nhận định khách quan hơn về sự định hướng về nghề
nghiệp và khu vực làm việc của sinh viên trong hình thức đào tạo này và cũng
từ đó có hỗ trợ nhất định về định hướng nghề nghiệp và cách tiếp cận thị
trường lao động cho những sinh viên năm cuối đại học.
Tác giả đã lựa chọn đề tài: “Định hướng nghề nghiệp và khu vực làm
việc sau tốt nghiệp của sinh viên ngoài công lập” dựa trên những trăn trở
của sinh viên ngoài công lập về việc làm sau khi tốt nghiệp và nguyện vọng
của bản thân muốn làm rõ hơn những quan điểm và hành vi của sinh viên
ngoài công lập về định hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc sau tốt nghiệp
khi họ phải đối diện với những định kiến xã hội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Vấn đề việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp không chỉ là mối quan
tâm của các bậc phụ huynh, của chính sinh viên, của nhà trường mà còn là
vấn đề lớn đối với các nhà quản lý xã hội. Các bậc phụ huynh sau 4 - 5 năm
đầu tư cho con em ăn học hồi hộp chờ đợi kết quả của chính mình và con em
mình, nhà trường chờ thành quả đào tạo ra những hạt nhân xã hội và xem xét
xã hội đã tiếp nhận những đứa con tinh thần của mình như thế nào? Các nhà
hoạch định chính sách và quản lý xã hội trên cơ sở đó nhận định chung tình
hình cơ cấu việc làm tổ chức nhân sự
9

Một thực tế cho thấy, khác hẳn với thời kỳ trước đổi mới hiện nay các
nghiên cứu về việc làm và lao động nhận được sự quan tâm hơn của các ban
ngành, nó như là biểu hiện như tính trật tự của một tổ chức xã hội. Điều đó
được thể hiện thông qua các đề tài nghiên cứu, các bài báo, sách chuyên khảo,

các hội thảo về việc làm giúp người lao động có nhiều cơ hội và thông tin để
định hướng việc làm một cách hiểu quả hơn.
Xã hội học về lao động, việc làm và nghề nghiệp là một lĩnh vực rất
được chú ý và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới, bởi tính hiệu quả xã
hội của nó là rất cao. Qua đó có thể đánh giá được mức độ có việc làm hoặc
thất nghiệp của sinh viên khi tốt nghiệp. Hơn nữa ở các nước phát triển mô
hình đào tạo ngoài công lập là một mô hình rất phát triển, bởi tính thị trường
trong nhu cầu đào tạo được thể hiện rõ nét. Còn ở Việt Nam, mô hình đào tạo
này không mới, nhưng những quan niệm về nó thật sự chưa định hình rõ ràng
ngay cả trong các văn bản cũng chưa được hoàn thiện về mô hình này. Vậy
nên, khi sinh viên các trường ngoài công lập ra trường gặp không ít những trở
ngại khác nhau do định kiến xã hội đem lại.
Nếu như ở một số các quốc gia trên thế giới mô hình ngoài công lập rất
được ưa chuộng do tính năng động và dễ thích nghi của mô hình này thì ở
Việt Nam ngay cả về hệ thống văn bản cũng chỉ là qui định tạm thời cho các
hệ thống các trường ngoài công lập. Sự chủ động mang hơi hướng thị trường
của mô hình ngoài công lập ở các nước phát triển đã mang lại những hiệu quả
xã hội rõ rệt như: “việc làm căn cứ theo đào tạo” lấy đào tạo làm nền tảng của
Pháp. Mô hình “đào tạo song song” trong doanh nghiệp và trên giảng đường
của Đức, mô hình “đào tạo thông qua việc làm” của khối Anh, Mỹ đã cho
thấy vai trò của mô hình đào tạo tự chủ của các trường đại học. Trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế sự thích ứng linh hoạt mềm dẻo trong cơ chế
đào tạo cũng như việc làm là một điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập.
10

Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng phát triển Châu Á (Asia
Development Bank) thì: “Việc phát triển các hoạt động lao động có giá trị
thặng dư cao đòi hỏi phải tăng cường tiềm năng công nghệ của các nguồn lao
động - cái mà khu vực Đông Nam Á hiện nay đang cần chính là nguồn lao
động có khả năng thích ứng mềm dẻo cao và có trình độ chuyên môn cao”.

Như vậy, theo Ngân hàng trên thì hai yếu tố “khả năng thích ứng” (đặt trước)
và trình độ đào tạo (đặt sau) là hai yếu tố cơ bản để cạnh tranh trong lĩnh vực
đào tạo được.
Gần đây, vấn đề việc làm nói chung và việc làm cho sinh viên sau tốt
nghiệp nói riêng đã trở thành vấn đề nghiên cứu của nhiều đề tài cũng như các
cuộc hội thảo trong nước và đã nhận được sự quan tâm lớn của xã hội.
Ví dụ như: “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô
thị hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn” (Tạp chí Lao động - Xã
hội số 247 đăng từ 16 - 30/9/2004) của TS Nguyễn Hữu Dũng. Trong nghiên
cứu đó tác giải có bàn đến thực trạng chất lượng lao động và việc làm ở nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, khi mà lực lượng lao động
ngày càng dôi dư khi mà đất canh tác thì không mất dần, bên cạnh đó chất
lượng lao động ở khu vực này khó có thể đảm bảo khi tham gia vào các nhà
máy trong nghiên cứu đó cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp
cơ bản để giải quyết việc làm cho đối tượng này ở nông thôn.
Trong bài viết: “Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra
1/7/2004” (Tạp chí lao động - xã hội, số 251, từ 7 - 10/11/2004), tác giả - TS.
Trương Văn Phúc đã đề cập đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng
lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như vùng kinh tế trọng điểm. Trong loạt
bài viết trên TS. Trương Văn Phúc đã đánh giá một cách khái quát những kết
quả đạt được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động.
11

Hiện nay, tình trạng mất cân đối giữa nhu cầu trong thị trường lao động
và đào tạo vẫn là một bài toán xã hội hết sức nan giải, dẫn đến một thực tế khi
sinh viên tốt nghiệp khó tìm được việc làm, tức là học sinh vào lựa chọn nghề
theo dư luận, cảm tính chứ không dựa trên nhu cầu thực tế của xã hội. Nên
tình trạng thất nghiệp không ngừng gia tăng, tuy nhiên đến nay thì khâu định
hướng nghề nghiệp cho sinh viên vẫn chưa thực sự có một sự quan tâm cụ thể
nào. Sự mất cân đối về lực lượng lao động giữa các ngành và vùng miền đã

dẫn đến một sự lãng phí lớn về chi phí đào tạo cũng như chất xám. Vậy nên
bàn đến giải quyết việc làm cho sinh viên khi ra trường không thể không nhắc
đến vấn đề định hướng nghề nghiệp cho sinh viên trước khi bước vào ngưỡng
cửa đại học.
Trong cuốn “Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”
(NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, đề tài
KX - 05 - 10). Hai tác giả đã đề cập đến việc đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực, mối quan hệ giữa nguồn nhân lực với quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nước. Trong đề tài cũng làm rõ thực trạng lao động và chính sách
sử dụng lao động ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và mất cân đối. Chất
lượng của lao động cũng là một trong những vấn đề được các tác giả quan
tâm, chất lượng lao động có liên quan đến khả năng cạnh tranh trong tiến
trình hội nhập quốc tế và khu vực, theo tác giả đây là vấn đề rất đáng lo ngại.
Bàn về nguồn nhân lực được đào tạo nhưng không có việc làm, thậm chí việc
làm không phù hợp với chuyên môn được đào tạo gây lãng phí về thời gian và
tiền của, chất xám. Chính sách sử dụng lao động còn nhiều quan liêu, hai tác
giả kết luận rằng trong nền kinh tế nhiều thành phần người lao động phải
được đối xử bình đẳng, cần có những chính sách phù hợp để sử dụng nguồn
12

lao động một cách hiệu quả nhất, tạo điều kiện cho người lao động phát huy
hết khả năng của bản thân.
Vấn đề đó đã được nhiều các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch
định chính sách quan tâm với những nghiên cứu, bài viết đăng thường xuyên
trên các báo và sách chuyên khảo, chủ yếu tập trung vào tìm hiểu thực trạng
việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, các công trình nghiên cứu và bài
viết đã mô tả khá rõ nét và khoa học về việc làm của nhóm đối tượng này,
đồng thời cũng phản ánh thực trạng mất cân đối về cơ cấu lao động giữa các
khu vực và ngành nghề. Bên cạnh đó các công trình nghiên cứu và bài viết

cũng đi sâu tìm hiểu định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên, qua đó nói
lên được thực tế lối sống, nhu cầu, nguyện vọng của tầng lớp tri thức này.
“Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI” là tên cuốn sách của
tác giả Nguyễn Hữu Châu (NXB Giáo dục, HN 2007). Trong cuốn sách này
tác giả có đề cập đến xã hội hóa giáo dục và công bằng trong các mô hình
giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Xã hội hóa giáo dục là chủ trương, đường lối
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa chiến lược, tác động tích cực đến
sự nghiệp giáo dục. Kết quả của chủ trương đúng đắn đó là nhiều trường đại
học ngoài công lập và tư thục đã ra đời, huy động được tiềm năng và nguồn
lực lớn của xã hội, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, hơn thế nữa đã tạo
công ăn việc làm cho hàng vạn người. Tác giả Nguyễn Hữu Châu cũng cho
rằng chất lượng đào tạo ở trường đại học ngoài công lập được nâng lên từ khi
Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai đề án “3 chung” và qui định điểm đầu vào
không thấp hơn điểm sàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo tác giả với
những sự đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
của hệ thống các trường đại học ngoài công lập thì cần phải có cách nhìn nhận
công bằng hơn trong giáo dục đào tạo và tuyển dụng lao động.
13

Đề tài “Việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp hiện nay” của tác giả
Lê Văn Toàn (Phân Viện Báo Chí và Tuyên Truyền). Trong phạm vi của
nghiên cứu tác giả Lê Văn Toàn đã cho thấy giới tính khác nhau, ngành nghề
khác nhau thì định hướng giá trị cũng khác nhau.
Còn với đề tài “Sự bất bình đẳng trong cơ hội tìm kiếm việc làm” của
tác giả Nguyễn Mai Anh cũng có đề cập những yếu tố có ảnh hưởng đến cơ
hội việc làm như: những đặc điểm xã hội của cá nhân và gia đình, giới tính,
ngành học, quê quán,
TS. Nguyễn Thị Thơm:“Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và
giải pháp” (NXB Chính trị Quốc gia, HN 2006). Vấn đề việc làm và chính
sách việc làm cho người lao động là nội dung chủ yếu của cuốn sách này. Tác

giả cũng đưa ra một nhận định đó là cần phải tôn trọng bản chất thực sự của
thị trường lao động. Vai trò của các cơ sở giáo dục - đào tạo, đánh giá khách
quan về vai trò của mô hình xã hội hóa giáo dục, trong đó có các cơ sở đào
tạo ngoài công lập. Cuối cùng tác giả khẳng định cần đẩy mạnh các hoạt động
để chắp nối cung - cầu lao động, tạo cơ sở bình đẳng cho người lao động tiếp
cận với các cơ hội việc làm.
Việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp nhận được mối quan tâm lớn của
mọi tầng lớp xã hội, của các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách.
Nhiều đề tài đã đi sâu phân tích thực trạng và những nguyên nhân ảnh hưởng
đến hoạt động tìm kiếm việc làm của sinh viên. Trong số rất nhiều các đề tài
tâm huyết với vấn đề việc làm của sinh viên có đề tài của PGS.TS Vũ Hào
Quang với đề tài “Định hướng giá trị của sinh viên - con em cán bộ khoa
học”. trong đề tài đó tác giả bàn về khía cạnh giới tính, đặc điểm xã hội
nguồn gốc gia đình, quan hệ xã hội của sinh viên có liên quan đến định hướng
và cơ hội việc làm của sinh viên, nhất là con em của cán bộ làm khoa học. Có
thể nói đề tài đã mô tả được chân thực bức tranh quan hệ xã hội trong những
14

môi trường cụ thể. Cũng trong nghiên cứu trên còn toát lên một ý nghĩa khác
đó là phẩm chất của cá nhân được hình thành trong hệ thống giá trị nhất định,
đó là sự tác động của môi trường xã hội mà cá nhân đó tham gia. Từ nghiên
cứu trên cho thấy định hướng giá trị của cá nhân xuất phát từ chính hệ thống
giá trị chuẩn mực của nhóm, mà trong khuôn khổ đề tài của TS. Vũ Hào
Quang thì định hướng giá trị của cá nhân có tác động sâu sắc bởi đặc điểm xã
hội của gia đình.
“Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội” là tiêu đề cuốn sách của
GS.TS Bùi Văn Nhơn (NXB Tư pháp, HN 2006). Tác giả đánh giá cao vai trò
của phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa, trong đó vai trò của các cơ sở giáo dục - đào tạo, kế cả các cơ sở đào
tạo ngoài công lập là chủ yếu. Sử dụng sao cho hiệu quả nguồn nhân lực xã

hội của các loại hình đào tạo này cũng là vấn đề chính được GS.TS Bùi Văn
Nhơn bàn đến, và theo tác giả đây là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế -
xã hội. Trong “Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội” đã đưa ra một số
yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động, tình trạng thiếu
việc làm nghiêm trọng còn do chậm đổi mới tư duy trong giải quyết việc làm
như những vấn đề về quan niệm, Trong điều kiện kinh tế - xã hội của nước
ta hiện nay theo GS.TS Bùi Văn Nhơn tạo việc làm cho người lao động với
quan điểm sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội, có quan niệm đúng đắn
về việc làm và tự tạo việc làm là những việc hình thức hiệu quả hơn cả.
TS. Vũ Thị Mai: “Tạo việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong
quá trình đô thị hóa Hà Nội” (NXB Chính trị Quốc gia, HN 2007). Tác giả
nêu thực trạng việc làm của người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô
thị hóa và các giải pháp tạo việc làm cũng như kinh nghiệm của các nước
trong khu vực về tạo việc làm cho người lao động. Theo TS. Vũ Thị Mai,
nguời lao động muốn có việc làm phù hợp, có thu nhập cao thì đương nhiên
15

phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư cho sức lao động của mình, tức là phải
tự mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ từ gia đình, các tổ chức xã hội để
được đào tạo, trau dồi kiến thức, phát triển và nắm vững một nghề nghiệp
nhất định - đây là điều kiện cần thiết cho người lao động khi tham gia vào thị
trường lao động.
Thực tế những bài báo và công trình nghiên cứu đó đã cho thấy cơ cấu
lao động và việc làm, sự biến đổi các cơ cấu đó trong các thời kỳ khác nhau,
cũng qua đó các tác giả đã đưa ra những nhận định có sự thay đổi nhất định
về nhận thức trong việc làm và lao động, điều đó cũng tương đồng với chủ
trương của Đảng đó là xu hướng tự tạo việc làm cho bản thân. Tuy nhiên quan
niệm làm việc trong các cơ quan nhà nước vẫn còn in sâu trong nhận thức
của nhiều lao động hiện nay. Bằng mọi cách sinh viên sau khi tốt nghiệp tha
thiết được làm việc trong môi trường ổn định, thậm chí nhiều lao động sau

bao năm làm việc trong môi trường bên ngoài, vẫn có xu hướng vào cơ quan
nhà nước làm việc, cho dù phải chi phí không nhỏ và chờ cơ hội khá lâu.
Một điều dễ nhận thấy trong định hướng về giá trị việc làm của sinh
viên nói chung hiện nay có ảnh hưởng rõ nét bởi đặc trưng của nền kinh tế thị
trường. Đó là nắm bắt những yêu cầu tối thiểu của các cơ quan doanh nghiệp.
Cũng từ đó có xu hướng chọn ngành mang tính thời cuộc, tuy nhiên xu hướng
chọn ngành đó chưa dựa trên cơ sở khoa học nào mà chủ yếu là cảm nhận chủ
quan, vậy nên có thể ngành học đó được ưa chuộng 4 năm về trước, đến khi
tốt nghiệp lại trở nên bão hòa, gây những khó khăn nhất định cho việc tìm
kiếm việc làm của sinh viên
Trong số 300 thủ khoa tốt nghiệp các trường Đại học ở Hà Nội 3 năm
gần đây, chỉ có 17 em làm việc trong các cơ quan nhà nước tại Hà Nội, nhiều
em cho rằng môi trường làm việc tại các cơ quan nhà nước chưa năng động,
16

lương thấp Vì vậy, nhiều thủ khoa từ chối lời mời của các cơ quan Hà Nội.
(Trích: Báo Lao Động 22/6/2007, tr 4, Làm sao thu hút nhân tài?).
Mô hình trường Đại học ngoài công lập là một xu hướng tất yếu, nó có
thể giải quyết nhiều vấn đề xã hội như: đào tạo, việc làm, trật tự xã hội, v v.
Tuy nhiên, sự nhìn nhận của xã hội với mô hình này, nhất là đối với sinh viên.
Sự khác biệt lớn nhất giữa đại học công lập và ngoài công lập đó là chất
lượng đầu vào của sinh viên, cơ sở vật chất, những yếu tố đó là nguyên nhân
chủ yếu dẫn tới những định kiến xã hội. Từ những định kiến xã hội này đã tạo
ra một khuôn mẫu sinh viên ngoài công lập trong hành vi ứng xử và trong
định hướng nghề nghiệp. Suốt trong quá trình tiếp cận với sinh viên ngoài
công lập, tôi thấy ở họ có những ứng xử bạo dạn hơn, chủ động hơn, biểu hiện
tính chất “tương tác” giữa người học và người dạy, đó được hiểu như là sự
cân bằng với mức học phí mà họ đã chi. Còn khía cạnh định hướng tương lai
trong công việc, do nhận thức được sự khác biệt giữa công lập và ngoài công
lập nên bản thân sinh viên cũng có những hành động quyết tâm hơn trong việc

tìm kiếm việc làm, điều đó được thể hiện qua việc nỗ lực trong học tập để có
được điểm số cao, hy vọng với điểm số đó sẽ làm giảm bớt áp lực ngoài công
của chính sinh viên và khi đi nộp hồ sơ tuyển dụng thì nhà tuyển dụng sẽ
không gạt ra ngoài
Bên cạnh những vấn đề có liên quan đến chất lượng dạy và học của các
trường Đại học Ngoài công lập thì bộ máy tổ chức và điều hành của các
trường ngoài công lập cũng là một vấn đề có ảnh hưởng đến hình ảnh của các
trường Đại học ngoài công lập. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phải tổ chức một
hội nghị nhằm đánh giá thực trạng các trường ngoài công lập, qua đó cho thấy
đã tồn tại rất nhiều vấn đề còn bất ổn. Một trong những vấn đề còn tồn tại ở
hệ thống ngoài công lập là cơ sở vật chất chưa đủ điều kiện để sinh viên học
tập, hệ thống thư viện nghèo nàn, công tác nghiên cứu khoa học chưa được
17

chú trọng. Tất cả những vấn đề trên đã gây ra những thiệt thòi đáng kể cho
sinh viên ngoài công lập, và như vậy khi họ ra trường họ cũng vẫn phải đáp
ứng những nhu cầu chung của nhà tuyển dụng mới thấy sự nỗ lực của sinh
viên ngoài công lập là rất đáng trân trọng, Bên cạnh những khó khăn về cơ
sở vật chất, thì tình trạng thiếu giảng viên cũng gây nên những thiệt thòi nhất
định cho sinh viên ngoài công lập, khi mà những giảng viên thỉnh giảng biên
chế tại một trường đại học khác nên mọi thời gian và tâm huyết dành cho nơi
thỉnh giảng cũng hạn chế hơn. Theo thông tin của Vụ Đại học và sau Đại học
thì tỷ lệ giảng viên cơ hữu của các trường ngoài công lập còn rất thấp, có
trường chỉ đạt 15 % trên tổng số giảng viên, có những trường chỉ có trên dưới
50 giảng viên cơ hữu, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng
dạy và mở rộng ngành nghề. Theo ông Bành Tiến Long thì có những giảng
viên đứng tên ở 4 - 5 trường đại học khác nhau. (Hội nghị đánh giá thực trạng
các trường ngoài công lập trên cả nước, ngày 31/7/2007, lần thứ nhất, do Bộ
Giáo Dục và Đào tạo tổ chức). Qua đó cho thấy bản thân giảng viên cũng
không có đủ quĩ thời gian để nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên

môn phục vụ cho giảng dạy. Tính bình quân, tỉ lệ sinh viên/giảng viên của các
trường ngoài công lập hiện nay là 43 sinh viên/giảng viên. Đó là những khó
khăn chung của các trường Đại học ngoài công lập vì vậy có ảnh hưởng trực
tiếp đến vị thế của sinh viên.
Cho dù xu hướng ngoài công lập đang ngày càng phát triển mà cụ thể là
theo giáo sư Phạm Phụ hiện nay có tới 12% số sinh viên thuộc đại học ngoài
công lập và dự kiến tăng lên đến 40% vào năm 2010, đó cũng là mục tiêu của
Bộ giáo dục và Đào tạo, đây cũng là xu hướng giáo dục của thế giới. (“Giáo
dục Đại học và cơ chế thị trường” của GS Phạm Phụ, Đại học Bách khoa Hồ
Chí Minh) nhưng thực tế tâm lý ngoài công lập vẫn tác động đến các nhà tuyển
dụng và bản thân sinh viên. Theo chủ trương xã hội hóa giáo dục của Nhà nước
18

hiện nay các trường đại học thuộc khối ngoài công lập đã đóng vai trò đáng kể
trong chủ trương đó, (khoảng 12 % sinh viên trong tổng số sinh viên cả nước),
đồng thời góp phần tham gia đào tạo nguồn nhân lực cao cho xã hội.
Cho đến nay, chưa ghi nhận thấy có một công trình nghiên cứu riêng
biệt nào tìm hiểu về định hướng nghề nghiệp và việc làm của sinh viên ngoài
công lập sau khi tốt nghiệp, nhưng qua khảo sát mẫu tại Đại Học Đông Đô
cho thấy nhiều sinh viên theo học tức là lựa chọn nghề nghiệp khi không còn
sự lựa chọn nào khác, bởi định hướng ban đầu là thi vào các khối ngành ở một
số trường công lập khác, nhưng do không đủ điểm đậu nên đăng ký vào một
số ngành phù hợp với khối thi của mình. Do không định hướng ban đầu nên
sự lựa chọn trên chỉ mang tính bắt buộc, vì vậy ít có sự say mê nhiệt tình nên
kết quả học tập học tập cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Định hướng nghề nghiệp sau tốt nghiệp của sinh viên.
- Định hướng khu vực làm việc, nơi làm việc sau tốt nghiệp.


3.2. Khách thể nghiên cứu:
- Sinh viên năm cuối đại học Đông Đô
- Một số là sinh viên tốt nghiệp đại học Đông Đô và đã có việc làm.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Tiến hành khảo sát tại trường đại học:
+ Đại học Đông Đô
- Thời gian: Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2008.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp luận:
19

Đề tài của luận văn thực hiện các nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng để nhận thức và giải thích hiện tượng xã hội, nguyên
tắc lịch sử luôn được quan tâm và vận dụng và tuân thủ một cách chặt chẽ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
4.2.1. Phương pháp chọn mẫu:
- Cơ cấu giới tính:
Giới tính
Số lượng
Tỷ lệ
Nam
147
56,1%
Nữ
115
43,9%
Tổng số
262
100.0%


- Cơ cấu nơi ở:
Nơi ở
Số lượng
Tỷ lệ
Đô thị
125
47,7%
Nông thôn
112
42,7%
Vùng khác (núi, hải đảo)
25
9,5%
Tổng số
262
100.0%

- Tính chất mẫu: Với 6 khoa ngành, trong đó:
+ 2 khoa: Công nghệ Thông tin, Kiến trúc đại diện cho sinh viên thuộc
nhóm ngành khoa học kỹ thuật.
+ 2 khoa: Tài chính Ngân hàng, Quản trị Kinh doanh đại diện cho sinh
viên thuộc nhóm ngành kinh tế.
+ 2 khoa: Quan hệ Quốc tế, Du lịch đại diện cho sinh viên thuộc nhóm
ngành khoa học xã hội.
4.2.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi:
20

- Phỏng vấn bằng bảng hỏi cấu trúc và nội dung như sau:
+ Thông tin cá nhân và gia đình của sinh viên.

+ Những yếu tố để quyết định lựa chọn ngành học hiện nay.
+ Định hướng nghề nghiệp.
+ Định hướng về khu vực và nơi làm việc.
+ Những lý do để tìm việc làm ở Hà Nội.
+ Các giá trị của việc làm.
4.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu:
+ Tiến hành phỏng vấn sâu 25 sinh viên năm cuối và 15 sinh viên đã tốt
nghiệp có việc làm.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Mục đích nghiên cứu:
- Tìm hiểu định hướng nghề nghiệp trước khi thi đại học và định hướng
nghề nghiệp sau khi học tập từ năm thứ nhất và năm thứ 4.
- Định hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc của sinh viên Đại học
Đông Đô.
- Tìm hiểu định hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc sau tốt nghiệp
của sinh viên Đại học Đông Đô.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được các mục đích đã đưa ra ở trên, nhiệm vụ đề tài được xác
định là:
- Làm rõ những lý do mà sinh viên định hướng ngành học hiện nay.
- Nguồn gốc xã hội của gia đình có tác động như thế nào tới định
hướng nghề nghiệp và khu vực làm việc của sinh viên sau tốt nghiệp.
- Tìm hiểu quan điểm của sinh viên về định hướng nghề nghiệp sau tốt nghiệp.
- Xu hướng về khu vực và nơi làm việc của sinh viên sau tốt nghiệp.
21

- Năng lực học tập có tác động như thế nào tới việc khu vực làm việc
sau tốt nghiệp của sinh viên.
- Đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp Nhà trường và sinh viên xác
định ý nghĩa của định hướng nghề nghiệp và nâng cao chất lượng đào tạo

cũng như uy tín của nhà Trường.
6. Khung lý thuyết và giả thuyết nghiên cứu:
6.1. Giả thuyết nghiên cứu:
- Giả thuyết 1: Lựa chọn ngành học của sinh viên Đại học Đông Đô
hiện nay khác khá xa với định hướng nghề nghiệp ban đầu của họ.
- Giả thuyết 2: Định hướng nghề nghiệp có liên quan chặt chẽ năng lực
thực tế của sinh viên.
- Giả thuyết 3: Sinh viên có xu hướng tìm việc ở khu vực Liên doanh
và các đô thị lớn do môi trường làm việc và các quyền lợi khác.
- Giả thuyết 4: Vị thế xã hội của gia đình giúp sinh viên dễ dàng tiếp
cận được những cơ hội việc làm hơn.
6.2. Khung lý thuyết:



1


BỐI CẢNH KINH
TẾ - XÃ HỘI
Đặc trưng nhận
thức của sinh viên
Đông Đô
Định hướng khu vực
làm việc sau tốt nghiệp
Định hướng về nơi
làm việc sau tốt nghiệp
Định hướng nghề
nghiệp sau tốt nghiệp
Tự

tạo
việc
làm
Nhà
nước

nhân
Thàn
h thị
Nông
thôn
Sở
thích
Liên
doan
h
Ổn
định
Đúng
chuyê
n môn
Thu
nhập
cao
Khung lý thuyết

hội
coi
trọng
1


Chương 1: CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm:
1.1.1. Việc làm:
Khái niệm việc làm đã được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, nó vừa
mang ý nghĩa của phạm trù kinh tế, vừa mang ý nghĩa của phạm trù xã hội.
Cụ thể là:
- Việc làm là một phạm trù kinh tế bởi nó thể hiện mối quan hệ giữa
người lao động và chủ lao động, (hoặc tự bản thân trả công cho mình), việc
làm là điều kiện cần thiết để thỏa mãn giữa người lao động cần thu nhập và
người chủ cần lợi nhuận.
- Việc làm là một phạm trù xã hội bởi việc làm liên quan trực tiếp đến
đời sống văn hóa, tâm lý xã hội, liên quan đến sự phồn vinh và trật tự xã hội.
Cũng qua việc làm cho thấy tính phúc lợi và thể chế của xã hội.
Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 13
(năm 1994) đã ghi rõ:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Khái niệm trên cần phải làm sáng tỏ hai khía cạnh đó là: Hoạt động lao
động và nguồn thu nhập.
+ Hoạt động lao động:
- Lao động: Là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các
loại sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. (18, tr 941).
- Hoạt động lao động: Được xác định là việc làm bao gồm:
+ Làm các công việc được trả công dưới dạng tiền hoặc hiện vật.
+ Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo thu
nhập cho gia đình mình, nhưng không được trả công (bằng trả công hoặc hiện
vật) cho công việc đó.

×