Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

việc làm cho người di cư tự do từ nông thôn ra đô thị khó khăn và sự thích ứng (Qua khảo sát tại thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 85 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN HÀ ĐÔNG




VIỆC LÀM CHO NGƯỜI DI CƯ TỰ DO
TỪ NÔNG THÔN RA ĐÔ THỊ: KHÓ KHĂN VÀ SỰ THÍCH ỨNG
(Qua khảo sát tại thành phố Hà Nội)



Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60.31.30



LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC








Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Bá Thịnh






HÀ NỘI, 2011

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 6
3. Mục tiêu nghiên cứu 7
4. Điểm luận tài liệu 7
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu 12
6. Phương pháp nghiên cứu 12
7. Câu hỏi nghiên cứu 15
8. Giả thuyết nghiên cứu 16
9. Khung lý thuyết 17
10. Cấu trúc của luận văn 18
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 19
1.1. Các lý thuyết và cách tiếp cận 19
1.2. Khái niệm, công cụ 26
1.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 33
1.4. Hạn chế của nghiên cứu 35

CHƯƠNG 2. KHÓ KHĂN VÀ SỰ THÍCH ỨNG VỚI VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DI
CƯ TỰ DO RA ĐÔ THỊ 36
2.1. Nguyên nhân di cư 36
2.2. Những khó khăn về việc làm với người di cư tự do 40
2.2.1. Những khó khăn trong thời gian đầu làm việc tại Hà Nội 41
2.2.2. Khó khăn trong công việc hiện tại 48
2.3. Sự thích ứng của người di cư tự do 54
2.3.1. Các biện pháp ứng phó 54
2.3.2. Việc làm 60
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 84


2

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Khó khăn do phải cạnh tranh cao theo giới tính, tuổi và học vấn 43
Bảng 2.2. Khó khăn do thu nhập hạn chế theo giới tính, tuổi và học vấn 45
Bảng 2.3. Khó khăn do thường lạc đường theo giới tính, tuổi khi di cư và học vấn 46
Bảng 2.4. Khó khăn do bị phạt, tịch thu hàng hóa theo giới tính, độ tuổi hiện tại,
trình độ học vấn và công việc hiện tại 52
Bảng 3.1: Tương quan giữa trình độ học vấn và công việc (đơn vị: %) 63
Bảng 3.2. Thời gian làm việc trung bình/tháng của lao động di cư tự do tại Hà Nội
theo nghề nghiệp và giới tính (đơn vị: ngày) 65
Bảng 3.3. Thu nhập bình quân hàng tháng giữa các nhóm nghề nghiệp khác nhau
theo giới tính. 68




3

DANH MỤC BIỂU

Biểu 2.1. Lý do di cư (%) 36
Biểu 2.2 . Lý do chọn Hà Nội thay cho các địa điểm di cư khác (%) 38
Biểu 2.3. Những khó khăn người di cư tự do gặp phải trong 41
thời gian đầu làm việc ở Hà Nội (%) 41
Biểu 2.4. Một số khó khăn trong công việc hiện tại (%) 49
Biểu 3.1. Các biện pháp ứng phó với những khó khăn trong thời kỳ 56
đầu làm việc tại Hà Nội (%) 56
Biểu 3.2. Các biện pháp ứng phó với những khó khăn trong công việc hiện tại (%) 57
Biểu 3.3. Nghề nghiệp của người di cư tự do tại Hà Nội hiện nay (%) 62
Biểu 3.4. So sánh thu nhập ở Hà Nội với thu nhập lúc còn ở quê (%) 67
Biểu 3.5. Trung bình thu nhập và tiền gửi về hàng tháng theo giới tính (nghìn đồng) 70
Biểu 3.6. Lý do thay đổi công việc (%) 73
Biểu 3.7. Dự định chuyển công việc khác (đơn vị: %) 75
Biểu 3.8. Dự định công việc làm ăn trong những năm tới (đơn vị %) 77


4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di dân từ nông thôn tới đô thị và các khu công nghiệp là một hiện tượng
kinh tế - xã hội tất yếu khách quan trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của mọi quốc gia. Ở nước ta, năm 1999, chính phủ đã thông qua hướng dẫn về
quản lý và phát triển đô thị với ước tính 45% dân số sẽ sống ở đô thị vào năm
2020 [20, tr.5]. Con số này chỉ có thể đạt được với tốc độ đô thị hóa nhanh, trong
đó việc di cư từ nông thôn ra đô thị có một vai trò quan trọng. Cùng với đó, sự

phát triển kinh tế với tốc độ khá cao trong những năm gần đây và sự bùng nổ
nhiều loại hình dịch vụ ở khu vực đô thị khiến cho luồng di cư tự do từ nông
thôn tiếp tục đổ về các đô thị, đặc biệt là các đô thị lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Hà Nội ngày càng tăng.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số tháng 4 năm 2009, trong 5 năm 2004-
2009, số người di cư tăng hơn 2,2 triệu người so với thời kỳ 1994-1999, đặc biệt
là số người di cư tăng theo khoảng cách di cư. Trong khi di cư trong huyện chỉ
tăng 275 nghìn người và di cư giữa các huyện trong cùng tỉnh tăng 571 nghìn
người, thì di cư giữa các tỉnh tăng gần 1,4 triệu người và di cư giữa các vùng
tăng hơn 1 triệu người [3, tr.4]. Điều này chứng tỏ sự phát triển nhanh về kinh
tế-xã hội và sự mở rộng thị trường lao động đã tác động mạnh đến các luồng di
cư trong 10 năm qua. Yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến di cư là việc làm.
Trong giai đoạn 2004-2009 ở nước ta, các khu công nghiệp, chế xuất được xây
dựng ở nhiều nơi trên cả nước với nhịp độ cao, đòi hỏi số lượng lao động lớn
nhưng lao động địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, trong thời kỳ
này đã có những luồng di dân lớn từ nông thôn vào thành thị. Cụ thể là trong 5
năm trước Tổng điều tra dân số năm 2009, số nhập cư thuần từ khu vực nông
thôn vào thành thị là 1,395 triệu người. Các thành phố lớn vẫn tiếp tục là địa
điểm thu hút mạnh luồng di cư, tỷ suất di cư thuần ở Bình Dương (340 phần
nghìn), thành phố Hồ Chí Minh (136 phần nghìn), Đà Nẵng (77 phần nghìn),
Đồng Nai (66 phần nghìn), Đắc Nông (66 phần nghìn) và Hà Nội (50 phần

5
nghìn) [3, tr.4-5]. Tuy nhiên, đây chỉ là những con số khiêm tốn vì nó mới chỉ
phản ánh số lượng dân số di cư có đăng ký với cơ quan sở tại. Trên thực tế, số
người di cư tới các đô thị kiếm việc làm chiếm số lượng không nhỏ và hầu như
không được quản lý về mặt hành chính [8, tr.10; 15, tr.70].
Cùng với các dòng di cư ngày càng tăng, cuộc tranh luận về những ảnh
hưởng tích cực và tiêu cực của hiện tượng di cư, đặc biệt là di cư tự do, trở nên
ngày càng gay gắt. Ở Châu Á, theo FAO, có các quan điểm tranh luận cho rằng

di cư nông thôn đô thị không những không mang lại lợi ích mà còn tạo ra những
vấn đề nghiêm trọng cho cả nơi đi lẫn nơi đến. Sự ra đi của tầng lớp thanh niên
nông thôn trẻ khoẻ, có giáo dục tốt một mặt đã tạo ra sự thiếu hụt hoặc sự già
hoá lực lượng lao động cho nông nghiệp, đồng thời, đặt mọi gánh nặng gia đình
như chăm sóc trẻ em, công việc nội trợ lên vai những người già và những người
trẻ hơn [14, tr.13]. Ngược lại, đối với nơi nhận cư, di cư cũng tạo ra những áp
lực không nhỏ như sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội, sự tăng lương chậm vì nhân
lực lao động tràn ngập, sự gia tăng các tệ nạn xã hội và các vấn đề xã hội.
Tuy còn nhiều cái nhìn tiêu cực, di cư thực sự đã thúc đẩy kinh tế phát
triển, đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay và được coi là một trong những
biện pháp hiệu quả nhằm tái phân bổ lao động giữa các vùng lãnh thổ, bảo đảm
sự liên kết về cơ hội việc làm và lượng lao động dư thừa giữa các vùng khác
nhau [8, tr.20]. Càng ngày, người ta càng thừa nhận rằng quá trình phát triển và
di cư luôn đi đôi với nhau. Di cư vừa là động lực thúc đẩy, vừa là kết quả của sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia [22, tr.6]. Đối với các đô thị, mặc dù
di dân tự do gây trở ngại cho công tác quản lý hành chính, tăng thêm sức ép đối
với hệ thống cơ sở hạ tầng vốn đang xuống cấp, nhưng người di cư từ nông thôn
đã thực sự trở thành một nguồn bổ sung lao động không nhỏ cho thị trường lao
động của thành phố. Trong khảo sát của mình ở Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố
Hồ Chí Minh, Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc đã chỉ ra rằng nhờ có làn
sóng di cư, những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, thường bị các cư dân đô thị
từ chối nay đã có người gánh vác [16, tr.77]. Cùng với tác dụng nâng cao dân trí,
di cư nông thôn-đô thị còn là biện pháp tăng thu nhập và nâng cao mức sống cho

6
khu vực nông thôn, góp phần vào sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo. Trên thực tế,
di cư nông thôn – đô thị ở cả nam và nữ không chỉ là động lực cá nhân mà còn là
một chiến lược tồn tại và phát triển của hộ gia đình nông dân [26, pg.288]. Di
dân là một hành vì có tính toán lý trí nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc
sống của cá nhân và gia đình người di cư [8, tr.16]. Xét về phương diện kinh tế

của hộ gia đình, ít nhất, di cư cũng làm tăng thu nhập của các gia đình có người
di cư. Tiền gửi về của người di cư cho gia đình, nếu được đem đầu tư sẽ là một
phương tiện rất tốt để thúc đẩy phát triển kinh tế trong các làng quê. Chính vì
vậy, dòng người tự phát đổ về các thành phố lớn trong đó có Hà Nội để tìm việc
làm ngày một nhiều hơn. Tuy nhiên, trước đây hầu hết các nghiên cứu về di cư
đều tập trung vào loại hình di cư có tổ chức với mục tiêu đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của loại hình di cư này. Trong khi đó, đối với những
người di cư tự do, một số nghiên cứu cho rằng họ nằm trong số những nhóm bị
bỏ quên trong các cuộc tổng điều tra dân số và các cuộc điều tra và ít được lưu tâm
nhất trong quá trình lập kế hoạch của chính phủ [21, tr.5-6]. Các vấn đề giới trong
di cư tuy quan trọng nhưng cũng chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều [1, tr.23].
Vậy người di cư tự do tại Hà Nội hiện nay gặp những khó khăn gì trong quá trình
làm việc? Họ đã sử dụng các biện pháp ứng phó nào? Mặc dù có nhiều nghiên cứu
với quy mô lớn về di cư đã được tiến hành nhưng chưa có nghiên cứu nào thực sự đi
sâu vào vấn đề này. Các nghiên cứu về di cư tự do chưa nhiều, đặc biệt là nghiên
cứu về khả năng thích ứng của người di cư tự do. Đó chính là lý do khiến chúng tôi
lựa chọn khảo sát đề tài “Việc làm cho người di cư tự do từ nông thôn ra đô thị: khó
khăn và sự thích ứng” (Qua khảo sát tại thành phố Hà Nội).
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này vận dụng lý thuyết mạng xã hội, lý thuyết thị trường lao
động đôi và cách tiếp cận giới vào nghiên cứu những khó khăn khi làm việc cũng
như những biện pháp thích ứng của những người di cư tự do.

7
Việc tiến hành nghiên cứu là một cơ hội tốt để thực hành và tích lũy kinh
nghiệm triển khai nghiên cứu thực địa. Đồng thời, đề tài cũng là một minh chứng về
việc vận dụng lý thuyết vào giải quyết một chủ đề nghiên cứu về di cư hiện nay.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu nhằm cung cấp những phân tích, đánh giá về những khó

khăn người di cư tự do gặp phải cũng như những biện pháp ứng phó của họ nhằm
thích nghi với việc làm ở Hà Nội. Nghiên cứu hy vọng sẽ bổ sung thêm thông tin
giúp cho các nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách có thể điều chỉnh, bổ sung kịp
thời các chính sách, biện pháp đối với người di cư tự do.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu những khó khăn trong quá trình lao động của người
di cư tự do từ nông thôn ra Hà Nội cũng như chiến lược ứng phó của họ trong vấn đề
việc làm, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chính sách nhằm tăng cường vai trò
quản lý của chính quyền và tận dụng tốt hơn những đóng góp của người di cư tự do.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu về những khó khăn khi làm việc của người di cư tự do.
- Những biện pháp ứng phó của người di cư để giải quyết những khó khăn đó.
- Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thích ứng của người di cư tự do
đối với công việc
4. Điểm luận tài liệu
Di cư là một trong những chủ đề quan trọng và thu hút được nhiều sự quan
tâm trong lĩnh vực khoa học xã hội. Đã có khá nhiều nghiên cứu tập trung vào phân
tích các vấn đề liên quan đến việc làm, điều kiện lao động của người di cư.
Trên cơ sở phân tích số liệu tổng điều tra dân số năm 1999, Nguyễn Nam
Phương chỉ ra rằng trong số những người di cư từ nông thôn ra Hà Nội, nhóm người
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đa số với trên 70%. Vì vậy, nghề
nghiệp của người di cư tới Hà Nội chủ yếu là lao động giản đơn (40% tổng số người

8
có việc làm của những người di dân ra Hà Nội), tập trung trong một số nhóm ngành
nghề như: nghề xây dựng và sản xuất thủ công vật liệu xây dựng; đạp xích lô; các
nghề thu gom phế liệu, bới rác, làm dịch vụ và các công việc khác; những lao động
tập trung chờ việc ở các tụ điểm mà người ta thường gọi là chợ lao động [13]. Tuy
nhiên, nghiên cứu mới tập trung phân tích những đặc trưng về việc làm của người di

cư tự do chưa đi sâu phân tích khó khăn và khả năng thích ứng của họ.
Nghiên cứu về lao động nữ di cư tự do nông thôn – đô thị của nhóm tác giả
Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc tại ba thành phố là Hà Nội, Đà Nẵng và
thành phố Hồ Chí Minh là một trong những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam bước
đầu tìm hiểu về quá trình hội nhập, thích ứng về việc làm của lao động nữ. Dựa trên
các kết quả nghiên cứu định tính, nhóm tác giả chỉ ra rằng lao động nữ có khả năng
tìm việc làm khá cao, hầu hết đại bộ phận người dân nhập cư đều tìm được việc làm
sau một thời gian ngắn. Do nhận thức rõ khả năng và năng lực hạn chế của mình,
nhất là vốn và tay nghề, khi đi tìm việc ở thành phố, lao động nữ sẵn sàng làm mọi
việc, miễn là hợp pháp và làm ra tiền dù đó là công việc họ không thích hay nặng
nhọc, nguy hiểm. Mặt khác, dựa vào mạng lưới quan hệ như cha mẹ, anh, em, bạn bè,
người thân, người lao động nhập cư thường có thông tin về cơ hội việc làm trước khi di
chuyển đến thành phố. Tuy nhiên, công việc của họ chủ yếu nằm trong khu vực kinh tế
phi chính thức, kinh tế tư nhân và gia đình, còn trong khu vực kinh tế Nhà nước hoặc liên
doanh thì người lao động gặp nhiều khó khăn do trình độ nghề nghiệp thấp và họ không
có hộ khẩu chính thức. Các tác giả cũng dự báo rằng sự phát triển của các thành phố lớn
có phần chậm lại hiện nay, các cơ sở sản xuất mới ra đời ít hơn, công nghệ hiện đại khiến
cho nhu cầu tuyển dụng lao động chân tay giảm và khả năng kiếm việc làm của lao động
nữ di cư hiện nay ngày càng trở nên khó khăn hơn so với giai đoạn đầu. Tuy vậy, thành
phố vẫn là nơi có nhiều cơ hội việc làm đối với những người di cư tự do có trình độ học
vấn và chuyên môn thấp. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ phân tích dựa
trên các kết quả nghiên cứu định tính mà thiếu số liệu định lượng để củng cố thêm bằng
chứng. Mặt khác, nghiên cứu chỉ đi sâu vào nhóm lao động nữ di cư nói riêng chứ chưa
đi vào phân tích và so sánh với nhóm lao động nam [16].

9
Dựa trên kết quả nghiên cứu định tính tại Hà Nội và xã Xuân Thượng, Xuân
Trường, Nam Định, tác giả Nguyễn Thị Bích Nga đã vận dụng quan điểm giới và
phát triển để xem xét mối tương quan giữa nam và nữ trong vấn đề di chuyển lao
động nông thôn – đô thị. Kết quả nghiên cứu cho thấy lao động nam và nữ tại Hà

Nội làm những nghề tương tự nhau, chủ yếu là công việc lao động đơn giản, phổ
thông và sử dụng lao động cơ bắp là chính nhưng không hoàn toàn giống nhau về
cách thức thực hiện. Nam thường chọn những công việc nặng nhọc, phải đi xa do
sức khỏe tốt hơn còn nữ thường cho những việc nhẹ nhàng hơn. Hầu hết trong số họ
đã xác định công việc sẽ làm trước khi lên Hà Nội, chỉ có một số ít người sau khi
lên Hà Nội mới tìm việc do được người khác chỉ dẫn hoặc chuyển lại khi họ không
tiếp tục nữa. Lao động nữ ít phải chờ việc hơn lao động nam do họ đã chắc chắn
công việc trước khi quyết định di cư. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng người
lao động thường phải làm việc trong điều kiện cường độ cao, thời gian lao động
trong ngày trung bình từ 9-10 giờ, cá biệt có người không tính được thời gian, họ
làm cả ngày lẫn đêm nếu có việc. Ngoài công việc chính, người di cư còn làm thêm
bất cứ công việc gì có thể tạo ra thu nhập. Thu nhập tại Hà Nội được người dân
đánh giá là cao hơn rất nhiều so với lao động ở quê nhưng nam giới thường có thu
nhập cao hơn nữ dù làm cùng một nhóm nghề. Khả năng chuyển đổi vị trí làm việc
của người lao động thấp. Tác giả kết luận rằng người lao động không mấy khó khăn
khi hội nhập và thị trường lao động của Hà Nội. Tác giả cũng chỉ ra một số khó
khăn của người di cư khi làm việc tại Hà Nội như ế hàng, bị quỵt tiền, trả công thấp,
bị bắt làm thêm giờ… Khi gặp khó khăn, người lao động thường có tâm lý nhún
nhường và chấp nhận thiệt thòi trong một số trường hợp để yên ổn làm ăn “nơi đất
khách quê người”. Như vậy, ngoài nghiên cứu về điều kiện lao động của người di
cư, tác giả đã bước đầu quan tâm đến những khó khăn và sự ứng phó của người di
cư nhưng còn sơ sài, chưa có phân tích sâu [12].
Cuộc điều tra chọn mẫu trên 11 tỉnh/thành phố đại diện cho 5 khu vực trên
toàn quốc của Tổng cục Thống kê năm 2004, là một trong những cuộc điều tra về di
cư lớn nhất từ trước đến nay ở nước ta. Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 5.000
người di cư và 5.000 người không di cư để đưa ra một bức tranh khá toàn diện về

10
đời sống của người di cư trong tương quan so sánh với người không di cư từ đăc
trưng và các yếu tố quyết định di cư, hoạt động kinh tế đến điều kiện sống, sức khỏe

và các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Về vấn đề việc làm, kết quả nghiên cứu
chủ yếu đi vào phân tích thực trạng việc làm của người di cư. Khoảng 90% số người
di cư được khảo sát đang có việc làm trong đó gần ½ đang làm các công việc lao
động giản đơn trong khu vực kinh tế phi chính thức. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
phần lớn người di cư cho biết họ tìm được việc làm và có thu nhập tốt hơn so với khi
ở nhà. Tuy nhiên, cuộc khảo sát mới chỉ tập trung phân tích thực trạng điều kiện việc
làm hiện tại mà chưa đi sâu vào phân tích khả năng thích ứng của người di cư đối với
việc làm. Hơn nữa, nghiên cứu này cũng mới chỉ tập trung vào các nhóm đối tượng
người di cư được quản lý chính thức về mặt hành chính chứ chưa khảo sát được
những người di cư tự do [17].
Cũng trong năm 2004, Viện nghiên cứu phát triển xã hội đã tiến hành khảo sát
trên 917 lao động di cư trong đó có 43% lao động nữ tại ba thành phố lớn gồm Hà
Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh nhằm đánh giá đúng hiện trạng và nhu cầu của lao
động di cư về bảo trợ xã hội. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người di cư không khó khăn
để tìm được việc làm tại đô thị với tỷ lệ hoạt động kinh tế rất cao, chiếm 97% số
người được hỏi. Họ chủ yếu hoạt động trong khu vực kinh tế tư nhân hoặc tự kinh
doanh. Dù không gặp khó khăn để tìm được việc làm nhưng hầu hết người di cư đều
gặp nhiều khó khăn khi di cư đến thành phố để làm việc, trong đó có một số khó khăn
cơ bản như thu nhập thấp, thu nhập không ổn định và công việc không ổn định [6].
Để vượt qua những khó khăn trên, người di cư tự do chủ yếu tìm đến sự giúp đỡ từ họ
hàng và bạn bè. Những nguồn trợ giúp chính thức từ chính quyền địa phương, các tổ
chức đoàn thể quần chúng và công an rất ít được nhắc đến. Từ đó, nghiên cứu khẳng
định tầm quan trọng của mạng lưới hỗ trợ không chính thức đối với lao động di cư
trong lúc khó khăn, hoạn nạn. Đồng thời, các tác giả cũng nhận định rằng những
người di cư trong diện nghiên cứu “đều sống ở ngưỡng của sự tồn tại”[5, tr.114]. Như
vậy, nghiên cứu này đã quan tâm đến những người di cư tự do, vốn bị bỏ quên trong
các nghiên cứu quy mô quốc gia, tìm hiểu về những khó khăn của họ trong khi làm
việc cũng như những biện pháp mà họ tìm kiếm để vượt qua các khó khăn đó. Tuy

11

nhiên, vì nghiên cứu hướng đến đánh giá hiện trạng và nhu cầu bảo trợ xã hội của
người di cư nên khi tìm hiểu về các cách thức người lao động di cư tự do sử dụng để
giải quyết các khó khăn, nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào mạng lưới xã hội và
coi đây như một nguồn bảo trợ xã hội đầy tiềm năng đối với người di cư mà chưa
quan tâm đến các biện pháp từ bản thân người di cư hoặc các biện pháp khác. Nghiên
cứu cũng chưa đi sâu tìm hiểu xem có sự khác biệt nào giữa nam và nữ di trong trong
các khó khăn cũng như trong việc sử dụng các biện pháp ứng phó.
Ngoài ra, một số ngành nghề cụ thể phổ biến của người di cư như công nhân
hoặc bán hàng rong cũng đã bước đầu được quan tâm nghiên cứu. Nghiên cứu của
Viện Xã hội học năm 2008 khảo sát hơn 300 công nhân tại Hà Nội và hơn 30 phỏng
vấn sâu công nhân, quản lý doanh nghiệp đã tìm hiểu một số đặc điểm chung của
nhóm công nhân tự do cũng như những thuận lợi, khó khăn và nguyện vọng của họ
trong quá trình tìm bạn đời[9]. Đối với những nữ nhập cư làm nghề giúp việc nhà tại
thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu định tính của Đào Bích Hà năm 2007 tập trung
vào hiện trạng công việc và những khó khăn trong quá trình làm việc. Kết quả với
công việc làm nông ở quê nhưng cũng có những khó khăn riêng cả về mặt vật chất và
tình cảm như thời gian làm việc dài, cảm giác gò bó khi phải sống với gia chủ, xa
cách gia đình và quê hương, không có hợp đồng làm việc… Tác giả kết luận rằng nữ
di cư làm giúp việc đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn cả về vật chất, tình cảm
và giúp việc nhà vẫn “vô hình” mặc cho chúng đang tạo ra giá trị “thu nhập” và đóng
góp vào nền kinh tế quốc dân [10]. Bán hàng rong cũng là một trong những nghề của
người di cư nhận được sự quan tâm nghiên cứu. Rolf Jensen, Donald M. Peppard JR
và Vũ Thị Minh Thắng đã tiến hành một nghiên cứu có tính hệ thống đầu tiên về thu
nhập của người bán hàng rong trên cơ sở khảo sát hơn 1700 người và phỏng vấn sâu
một số phụ nữ di cư tuần hoàn ở Hà Nội trong hai năm: 2000 và 2003. Trên cơ sở đó,
các tác giả chỉ ra rằng thu nhập từ di cư có vai trò quan trọng đối với các gia đình ở
nông thôn và mạng lưới người quen, họ hàng có vai trò quan trọng trong việc lựa
chọn công việc tại Hà Nội của những người di cư [11].
Nhìn chung, trong các nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay dù đi sâu vào nhóm
người di cư nói chung hay một số nghề nghiệp cụ thể, chủ yếu vẫn tập trung vào phân


12
tích điều kiện việc làm, thu nhập của người di cư. Trong một số nghiên cứu đã bước
đầu quan tâm đến sự thích ứng thì chủ yếu là các nghiên cứu định tính, quy mô nhỏ và
cũng chưa phân tích sâu khả năng thích ứng của người di cư. Những khác biệt trong
các khó khăn mà nam và nữ gặp phải trong công việc cũng như cách thức họ lựa chọn
các biện pháp để ứng phó với những khó khăn đó cũng chưa được quan tâm nhiều. Họ
gặp phải những khó khăn gì trong quá trình làm việc? Họ tìm cách nào để giải quyết
khó khăn đó hay nói cách khác là để thích ứng với điều kiện làm việc ở thành phố? Đó
là những câu hỏi chúng tôi muốn trả lời trong phạm vi nghiên cứu này.
5. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu là những khó khăn về mặt việc làm và biện pháp
thích nghi của những người di cư tự do
5.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể chính của nghiên cứu là người di cư tự do trên địa bàn thành phố
Hà Nội (chưa mở rộng).
5.3. Phạm vi nghiên cứu
5.3.1. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu làm rõ những khó khăn gặp phải và những biện pháp ứng phó
của của người di cư trong quá trình làm việc.
5.3.2. Phạm vi thời gian
Từ tháng 6/2009 đến tháng 6 năm 2010
5.3.3. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi địa bàn Hà Nội (chưa mở rộng).
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Các phương pháp thu thập thông tin
6.1.1. Phân tích tài liệu
Phương pháp này nhằm thu thập thông tin sơ cấp và thứ cấp về các vấn đề
liên quan đến nội dung nghiên cứu.


13
a. Thông tin sơ cấp
Luận văn chủ yếu sử dụng dữ liệu gốc của đề tài “Sự thích ứng của người di cư
tự do từ nông thôn vào đô thị và các vùng phụ cận – nghiên cứu trường hợp Hà Nội”.
Đây là đề tài cấp bộ do Viện Gia đình và Giới, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tiến
hành trong năm 2008 – 2009 (chủ nhiệm đề tài thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Tâm). Việc
sử dụng dữ liệu từ nghiên cứu này đã được sự đồng ý của Viện Gia đình và Giới.
Nghiên cứu được tiến hành chủ yếu tại bốn phường Ô Chợ Dừa (quận Đống
Đa), phường Phúc Xá (quận Ba Đình), phường Phúc Tân và Bạch Đằng (quận Hoàn
Kiếm). Theo báo cáo của điều tra di cư của tổng cục thống kê năm 2004 các phường
Phúc Xá, Ô Chợ Dừa là những phường tập trung đông dân nhập cư tạm thời nhất.
Ngoài ra, nghiên cứu còn khảo sát một số người di cư một số phường và xã của Hà
Nội như Thanh Nhàn, Thanh Xuân Bắc, Sài Đồng, Thịnh Liệt Tại các địa bàn
nghiên cứu, nhóm điều tra viên đã tiếp cận với nhiều nam giới làm các nghề bốc
vác, xây dựng, thợ tự do, bán hang rong; và tiếp xúc với một số phụ nữ làm các
nghề nấu ăn, xe đẩy, bán hàng rong, giúp việc gia đình để phỏng vấn họ. Tại Gia
Lâm, ngoại ô của Hà Nội, các điều tra viên cũng đã đến một khu phòng trọ trên địa
bàn huyện, phỏng vấn nhóm công nhân làm hợp đồng theo các thời vụ cho một số
nhà máy và công ty tư nhân quanh khu vực huyện Gia Lâm.
Luận văn phân tích dữ liệu gốc của đề tài bao gồm cả dữ liệu định lượng và
dữ liệu định tính với cỡ mẫu cụ thể được sử dụng như sau:
- Dữ liệu định lượng: gồm nội dung của 700 phỏng vấn đối với người di cư
tự do trong đó có 319 nam và 381 nữ. Những người di cư tự do là nhóm người đặc
thù, chỗ ở không ổn định và rất khó quản lý về mặt hành chính. Một số lượng lớn
người di cư không đăng ký hộ khẩu tại nơi đến trong khi tên của họ vẫn ở trong
danh sách của hộ gia đình tại nơi đi. Một số khác ban đầu đăng ký hộ khẩu tạm trú
nhưng sau đó không đăng ký lại khi giấy phép hết hạn. Vì vậy, những người di cư
tự do không đăng ký tạm trú và không được thống kê nên ngay cấp chính quyền địa
phương cũng không quản lý được những người này. Do đó, mẫu nghiên cứu được

lựa chọn bằng phương pháp quả bóng tuyết để đảm bảo có thể chọn lựa được tương

14
đối đầy đủ các đối tượng người di cư tự do. Thông tin định lượng được thu thập bằng
phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.
- Dữ liệu định tính: Nghiên cứu phân tích 24 cuộc phỏng vấn sâu (12 nam và 12
nữ) và 4 phỏng vấn người cung cấp thông tin chủ chốt trong tổng số 100 người tham
gia nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm) từ đề tài “Sự thích ứng
của người di cư tự do từ nông thôn vào đô thị và các vùng phụ cận – nghiên cứu
trường hợp Hà Nội”. Đây là những phỏng vấn có liên quan trực tiếp đến vấn đề khó
khăn và sự thích ứng của người di cư tự do. Đối tượng của phỏng vấn sâu bao gồm
những người di cư tự do và cán bộ phường tại một số địa bàn phường. Trong phạm vi
nghiên cứu này, dữ liệu định tính có vai trò quan trọng trong việc góp phần làm sáng tỏ
những thông tin định lượng thu được. Đồng thời, nghiên cứu định tính còn cung cấp
những thông tin chi tiết và sâu sắc trong việc lý giải chính xác vấn đề nghiên cứu.
b. Thông tin thứ cấp
Thông tin thứ cấp bao gồm các nguồn sau:
- Các văn bản, chính sách liên quan đến vấn đề di cư
- Các báo cáo, nghiên cứu đã có của các tác giả trong và ngoài nước về vấn
đề di cư nói chung và vấn đề việc làm của người di cư tự do nói riêng.
Các chính sách, báo cáo và nghiên cứu này có vai trò cung cấp các thông tin
ban đầu và định hướng cho việc làm rõ các vấn đề trong nội dung nghiên cứu. Đồng
thời, nguồn số liệu và các kết luận từ trong các báo cáo này sẽ được sử dụng để so
sánh và củng cố thêm các kết luận trong luận văn.
c. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Mẫu được chọn theo phương pháp quả bóng tuyết với cơ cấu mẫu như sau:

15
- Cơ cấu về giới tính:
45.6

54.4
Nam
Nữ

- Cơ cấu về trình độ học vấn:
10.1
67.7
22.3
Tiểu học
THCS
PTTH

6.2. Phương pháp xử lý dữ liệu và phân tích thông tin
Dữ liệu định lượng trong nghiên cứu được phân tích bằng phần mềm SPSS
12.0 for Window và được áp dụng một số phép phân tích thống kê mô tả và thống
kê suy luận để làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu.
Dữ liệu định tính được xử lý bằng NVIVO 7 nhằm cung cấp bằng chứng và
minh họa đầy đủ hơn cho nghiên cứu.
7. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này hướng đến trả lời câu hỏi người di cư tự do từ nông thôn ra
đô thị gặp phải những khó khăn nào về việc làm và họ đã làm gì để thích ứng với
hoàn cảnh mới. Các câu hỏi cụ thể như sau:

16
- Người di cư tự do gặp phải những khó khăn nào khi mới bắt đầu ra Hà Nội
làm việc và hiện nay?
- Người di cư tự do đã có những biện pháp gì để giải quyết những khó khăn đó?
- Những yếu tố nào tác động đến những khó khăn về việc làm và khả năng thích
ứng của người di cư tự do?
8. Giả thuyết nghiên cứu

- Người di cư tự do không gặp nhiều khó khăn để tìm việc nhưng việc làm
của họ thường phải cạnh tranh cao, không ổn định và thu nhập thấp
- Nhìn chung, họ chủ yếu tự bằng lòng và chấp nhận những khó khăn này, ít
có khả năng thay đổi
- Mạng xã hội có vai trò quan trọng trong việc giúp người di cư tự do vượt
qua khó khăn và thích ứng với cuộc sống ở đô thị


17
9. Khung lý thuyết









Điều kiện
kinh tế xã
hội
Khó khăn hiện tại
Các đặc
điểm nhân
khẩu học
khác
Mạng xã
hội
Khó khăn ban đầu

Biện pháp ứng phó
hiện tại
Biện pháp ứng phó
thời gian đầu
Yếu tố
giới

Khó khăn
Sự thích
ứng

18
10. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được trình bày với cấu trúc gồm các phần: mục lục, danh mục bảng
biểu, phần mở đầu, chương 1, chương 2, phần kết luận và khuyến nghị, danh mục
tài liệu tham khảo và phần phụ lục. Trong đó:
Chương 1 có tiêu đề “Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài”. Chương này
được tác giả sử dụng để tổng quan về lịch sử vấn đề nghiên cứu liên quan đến đề tài
và đưa ra những điểm khái quát về địa bàn nghiên cứu. Bên cạnh đó tác giả cũng
trình bày chi tiết những lý thuyết được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như lý
thuyết mạng lưới di cư, lý thuyết thị trường lao động đôi và cách tiếp cận giới. Mỗi
lý thuyết đều được đi sâu khai thác vào những chi tiết được vận dụng là cơ sở
phương pháp luận để phân tích, lý giải các kết quả nghiên cứu. Trong phần cuối của
chương, tác giả đưa ra một số khái niệm công cụ tạo cơ sở khoa học cho quá trình
nghiên cứu của đề tài.
Chương 2 có tiêu đề là “Khó khăn và sự thích ứng với việc làm của người di
cư tự do từ nông thôn ra đô thị”. Trong chương này, tác giả trình bày về những khó
khăn của người di cư tự do thời kỳ đầu mới ra Hà Nội cũng như khó khăn trong công
việc hiện tại. Từ đó, tác giả tìm hiểu về những biện pháp ứng phó mà người di cư đã
sử dụng trong thời kỳ đầu cũng như hiện tại. Ngoài ra, nghề nghiệp hiện tại và kế

hoạch tương lai của người di cư cũng được phân tích như một bằng chứng, một kết
quả cụ thể của những nỗ lực thích ứng với Hà Nội của người di cư.

19
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các lý thuyết và cách tiếp cận
1.1.1. Các lý thuyết
Những công trình nghiên cứu về quá trình thích ứng của người di cư ra đời
trong những thập kỷ 70-90 của thế kỷ 20 và gần đây, những vấn đề này lại được đề
cập lại trong các nghiên cứu di dân quốc tế.
Xuất phát từ luận điểm về tính thích ứng trong quá trình tiến hóa của Đác-
Uyn, một số nhà nghiên cứu xã hội về di cư lập luận rằng sự thích ứng không chỉ
xảy ra trong tự nhiên mà còn xảy ra trong xã hội. Ngay từ những năm 1930, Fisher
đã cho rằng sự thích ứng không phải là sự chọn lọc tự nhiên. Sự thích ứng (hay đáp
ứng) là sự di chuyển, là quá trình thay đổi của các nhóm dân cư theo những hình
thái nhất định để phù hợp tốt nhất với môi trường hiện tại [27, pg.119]. Như vậy,
hiểu theo nghĩa này, di cư chính là một hình thức đáp ứng của con người khi những
hoàn cảnh sống thay đổi, hay ngắn gọn hơn, di cư chính là một quá trình thích ứng.
Để phân tích khó khăn và khả năng thích ứng với việc làm của người di cư tự
do từ nông thôn ra Hà Nội, trong phạm vi nghiên cứu này, chung tôi sử dụng lý
thyết mạng lưới di cư và lý thuyết thị trường lao động đôi.
1.1.1.1. Lý thuyết mạng lưới di cư
Nghiên cứu người nông dân Ba Lan ở châu Âu và Hoa Kỳ ('The Polish
Peasant in Europe and America) của William Thomas and Florian Znaniecki được
xem là một trong những nghiên cứu đầu tiên mang tính chất bước ngoặt cho lĩnh
vực nghiên cứu xã hội học về di cư ở Hoa Kỳ. Đây cũng được xem là một trong
những tác phẩm nghiên cứu kinh điển về sự thích ứng khi di cư và có ảnh hưởng
sâu sắc đến các nhà khoa học xã hội đương thời nói chung và góp phần dẫn tới sự ra
đời của trường phái Chicago trong xã hội học. Dựa trên việc phân tích các bức thư
của những người di cư gửi cho gia đình họ, các tác giả đã phân tích sự thay đổi về

đặc tính văn hóa và xã hội trong cộng đồng người Ba Lan di cư đến Hoa Kỳ trong
những năm đầu của thế kỷ XX. Các tác giả khẳng định tầm quan trọng của mạng
lưới xã hội (gia đình, hàng xóm và các mối quan hệ xã hội khác) và cho rằng khi di
cư, người di cư không đi đơn lẻ mà họ đi theo nhóm [37, pg.xii].

20
Một số nghiên cứu gần đây về di cư cũng đã đề cập đến tầm quan trọng của
gia đình và bạn bè ở nơi đến trong các chiến lược thích ứng của người di cư. Nghĩa
là người di cư, để đối phó với những khó khăn, thường tìm hiểu thông tin về nơi đến
và công việc qua những người thân, họ hàng, làng xóm, thường đến những nơi đã
có sẵn thành viên khác trong gia đình hay bạn bè, chứ không tìm đến nơi mà họ
hoàn toàn không quen biết ai. Hơn thế nữa, nếu một thành viên trong gia đình di cư
đến nơi mới, kiếm được công ăn việc làm, có thu nhập và nhà cửa ổn định, họ
thường thu hút được nhiều thành viên khác cùng di cư theo, tạo nên một dây chuyền
di cư và một chuỗi cơ hội cho cả một mạng lưới họ hang. Chính vì thế đã xuất hiện
khái niệm lý thuyết "di cư dây chuyền" (chain migration) [26, pg.292]. Người di cư
thường cư trú co cụm với nhau ở nơi mới để tạo ra mạng lưới xã hội giúp nhau
trong những vấn đề kinh tế và xã hội, để thích nghi với nơi mới.
Nhà nghiên cứu di dân nổi tiếng của Trung Quốc như Cai Fang (1998) đã tập
trung vào nghiên cứu những sự thích ứng và những biến đổi của các nhóm dân cư từ
nông thôn lên Bắc Kinh và thấy rằng phụ nữ di cư nói riêng và người di cư nói
chung, thường sử dụng thông tin từ các mạng lưới di cư để có những thích ứng tốt
nhất tại nơi đến [14, tr.13].
Mạng xã hội được định nghĩa là một tập hợp các mối quan hệ liên cá nhân
kết nối người di cư hoặc những người di cư trở về với họ hang, bạn bè hoặc những
người đồng hương. Mạng xã hội có vai trò cung cấp thông tin, hỗ trợ tài chính, tìm
việc làm và chỗ ở, và các hình thức trợ giúp khác. Vì vậy, mạng xã hội giúp người
di cư giảm bớt chi phí và những rủi ro không lường trước trong khi di cư. Dựa trên
quan điểm về vốn xã hội, Douglas Massey, cùng với các nhà nghiên cứu hàng đầu
trong lĩnh vực này như James Coleman, Pierre Bourdieu, là người đầu tiên đề xuất

quan điểm coi mạng xã hội như một dạng vốn xã hội [26, pg.291].
Lý thuyết mạng lưới di cư miêu tả vai trò của mạng lưới trong việc cung cấp
thông tin và chức năng thích ứng [31, pg.5]. Đây điểm ưu việt của lý thuyết này vì nó
mô tả những lợi ích nhất định mà người di cư nhận được từ các mối quan hệ với những
người khác trong mạng lưới và làm thế nào để phát huy hiệu quả mạng lưới này với

21
sinh kế của người di cư. Vốn xã hội, dưới dạng các mạng lưới xã hội của người di cư,
ảnh hưởng đến các động lực để di cư và khả năng thích ứng một cách hiệu quả với
hoàn cảnh ở nơi nhập cư [31, pg.5]. Nhìn chung, đối với người di cư, mạng xã hội có
hai chức năng gồm chức năng cung cấp thông tin và chức năng thích ứng.
Chức năng cung cấp thông tin chủ yếu diễn ra dưới dạng các kênh truyền dẫn
thông tin, các nguồn lực và các cấu trúc quy chuẩn. Thông tin được truyền dẫn qua
mạng lưới cho phép người di cư biết được thông tin về các điều kiện, cơ hội và
những khó khăn sẽ gặp phải như một phần của sự di cư. Nhờ đó, người di cư sẽ có
được nhưng hình dung ban đầu về nơi đến để có thể có sự chuẩn bị nhất định.
Chức năng thích ứng thể hiện ở sự trợ giúp mà các thành viện khác trong
mạng xã hội hỗ trợ người di cư để họ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với các nguồn
tài nguyên khác như nhà ở, tiền và thông tin, do đó, trong thời hạn ngắn, mạng xã
hội đóng vai trò như một vật trung gian làm giảm chi phí và những khó khăn do di
cư gây ra. Về dài hạn, mạng lưới xã hội có thể tạo thuận lợi cho sự hội nhập của
người di cư thông qua các mối liên kết văn hóa với những người di cư khác ở nơi
đến và duy trì mối liên hệ với nơi xuất cư. Những mối liên kết quan trọng có thể đóng
vai trò như là những vật trung gian ngăn chặn những xung đột ở mức tối đa và là
nguồn an ủi về mặt tình cảm đối với người di cư nhưng đồng thời cũng làm tăng sự
trông chờ của họ vào sự trợ giúp từ mạng lưới [31, pg.5].
Như vậy, theo lý thuyết mạng lưới, mạng xã hội hay vốn xã hội có vai trò
quan trọng trong quá trình thích ứng của người di cư với công việc nói riêng và với
đời sống ở nơi nhập cư nói chung. Tuy có quan điểm cho rằng tầm quan trọng của
mạng xã hội đang bị nói quá lên nhưng thực tế nhiều nghiên cứu ở Việt Nam đã

khẳng định tầm quan trọng của mạng lưới này. Theo Liên Hiệp quốc tại Việt Nam,
người di cư đã hình thành một mạng xã hội mạnh mẽ cho chính họ, hướng dẫn việc
di cư bằng cách lôi kéo bạn bè và gia đình từ quê hương. Những mạng lưới này đặc
biệt quan trọng đối với người di cư do họ không thể trông chờ vào mạng lưới hỗ trợ
của chính phủ hay các hỗ trợ chính thức khác vì tình trạng chưa đăng ký hộ khẩu
hoặc đăng ký tạm trú, tạm vắng [22, tr.33]. Tác giả Đặng Nguyên Anh cho rằng

22
mạng xã hội giữ một vai trò then chốt trong quá trình di cư và sự đóng góp của quá
trình này đối với nguồn sinh kế. Chính các mạng lưới quan hệ xã hội đó đã tạo ra
nguồn “vốn xã hội” – không chỉ là tiền bạc, mà các thông tin và sự hỗ trợ trực tiếp –
giúp người lao động di cư ứng phó được với rủi ro, bất trắc [6, tr.108]. Trong phạm
vi nghiên cứu này, sự trợ giúp từ gia đình, họ hàng, bạn bè, hàng xóm cũng đóng
vai trò quan trọng trong quá trình tìm việc và thích ứng với công việc của người di
cư. Không chỉ dừng lại ở những thông tin và sự hỗ trợ ban đầu khi người di cư mới
ra Hà Nội, trong nhiều trường hợp, những người di cư cùng làng, cùng xã đã tập
trung thành các nhóm để cùng làm ăn, buôn bán và là nguồn động viên tinh thần
giúp người di cư vững tin hơn để hòa mình vào cuộc sống khắc nghiệt nơi đô thị.
1.1.1.2. Lý thuyết thị trường lao động đôi
Lý thuyết thị trường lao động đôi cho rằng trong thị trường lao động thực chất
tồn tại hai thị trường lao động phân biệt, độc lập gồm một thị trường lao động chính
thức gồm những công việc tốt, ổn định và có sự đảm bảo an toàn, bảo hiểm cho người
lao động và một thị trường lao thứ hai là những công việc không đòi hỏi kỹ năng,
lương thấp và không an toàn. Vì thiếu những kỹ năng cần thiết theo yêu cầu của thị
trường lao động chính thức và do bị phân biệt đối xử, người di cư thường phải lao động
trong thị trường thứ hai, nơi họ bị sử dụng với giá rẻ và ít có cơ hội thăng tiến. Đồng
thời, khả năng di chuyển ra khỏi khu vực kinh tế này cũng rất hạn chế [32, pg.81].
Các nghiên cứu về hoạt động kinh tế và việc làm đô thị ở các nước đang phát
triển cũng xác định ra hai khu vực kinh tế: chính thức và phi chính thức trong đó
các công ty và đặc tính công việc rất khác nhau về mặt các quy tắc gắn bó, các yêu

cầu về kỹ năng, lương và lợi nhuận, cơ hội thăng tiến và tính ổn định của công việc.
Những người di cư ra đô thị ở các nước đang phát triển chủ yếu làm việc trong các
khu vực kinh tế phi chính thức. Các công việc chủ yếu bao gồm kinh doanh nhỏ ở
quy mô hộ gia đình, công việc trong các cơ sở sản xuất hoặc sửa chữa nhỏ, bán
hàng rong. Sự đóng góp của những người di cư vào lực lượng lao động đô thị đã
thúc đẩy sự tăng trưởng của khu vực kinh tế phi chính thức tại các nước đang phát
triển vượt xa so với khu vực chính thức. Sự xuất hiện của khu vực kinh tế phi chính

23
thức lớn và năng động có phải là biểu hiện của giai đoạn chuyển đổi của sự phát
triển kinh tế, và liệu điều này có gây ra ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến sự phát
triển kinh tế lâu dài còn đang là một chủ để tranh luận nóng bỏng [29, pg. 318].
Một số nghiên cứu tại Việt Nam cũng khẳng định sự tham gia của người di
cư tự do vào khu vực kinh tế phi chính thức. Theo Guest, có sự phân biệt đối xử
trong thị trường lao động đối với người di cư, có thể phân chia thành hai khu vực:
khu vực được bảo vệ và khu vực không được bảo vệ. Người di cư, đặc biệt là người
di cư tạm thời ít có khả năng được đảm nhận các công việc có các quyền lợi hợp
pháp cũng như mức độ ổn định công việc cao [8, tr.29]. Kết quả nghiên cứu của Hà
Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc đối với lao động nữ di cư tự do vào các thành
phố cũng cho thấy tại thành phố luôn có những công việc mà theo lao động thành
phố là nặng nhọc, kém hấp dẫn và không phù hợp với họ mà người nhập cư lại cần
và có thể đáp ứng được [16, tr.77]. Người di cư có xu hướng làm việc ở khu vực
dịch vụ (gồm cả xe ôm, taxi, công việc làm tại nhà hoặc khách sạn) và khu vực sản
xuất, xây dựng. Một tỷ trọng lớn người dân di cư ra thành thị tự kinh doanh hoặc
làm những công việc ngắn hạn, tạm thời trong khi những người không di cư có xu
hướng làm việc ở văn phòng, hành chính và công việc chuyên môn [22, tr.29]. Tại
Hà Nội, thị trường lao động phi chính thức có đặc điểm là điều kiện hoạt động tạm
bợ, thu nhập thấp và điều kiện lao động tồi tàn, tập trung nhiều lao động nữ và có sự
phân biệt đối xử với họ dù thời gian lao động, trình độ học vấn và thâm niên công
tác của nữ và nam không khác biệt nhau lớn. Công việc của nữ cũng kém an toàn và

ít ổn định hơn nam giới [4, tr.20].
Thuật ngữ “thị trường lao động phi chính thức” đầu tiên do Hart (1973) đề
xuất để mô tả một khu vực kinh tế truyền thống ở các nền kinh tế đang phát triển
[23, tr.17]. Khu vực phi chính thức ngày càng được quan tâm nhưng khái niệm và
định nghĩa thì vẫn mơ hồ. Nhìn chung, có thể hiểu khu vực phi chính thức là “tất cả
các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân sản xuất ít nhất một hoặc một vài sản
phẩm và dịch vụ để bán hoặc trao đổi không đăng ký kinh doanh” [23, tr.24].

24
Dưới góc nhìn của lý thuyết thị trường lao động đôi, trong nghiên cứu này,
những người di cư tự do từ nông thôn ra đô thị chủ yếu làm những việc lao động
chân tay, nặng nhọc, vất vả, không ổn định mà ít người thành phố làm. Vì vậy, họ
không gặp nhiều khó khăn để tìm được việc làm nhưng họ lại gặp nhiều trở ngại
trong quá trình làm việc. Và giống như một phân khúc thị trường dành riêng cho họ,
việc chuyển đổi sang những ngành nghề ổn định hơn, tốt hơn trở nên khó thực hiện
và người di cư chủ yếu phải bằng lòng với những công việc phi chính thức.
1.1.2. Tiếp cận nghiên cứu di dân từ góc độ giới
Khi nghiên cứu về di cư, Guest cho rằng giới là một vấn đề quan trọng vì quá
trình di dân có sự chọn lọc về giới và do tác động của di dân đến nam và nữ có sự
khác biệt đáng kể [8, tr.30]. Trong lịch sử nghiên cứu di cư, theo nhận định của
FAO, các khía cạnh về giới của di cư thường là bị bỏ qua [14, tr.15]. Trong khi nam
giới di cư nhận được một sự quan tâm đáng kể của nhiều nghiên cứu thì phụ nữ di
dân trở nên vô hình trong các tài liệu về di dân. Cho đến giữa những năm 80 của thế
kỷ 20, ở châu Âu, phụ nữ di cư dường như vẫn chưa được quan tâm đúng mức, phụ
nữ được xem như một thành viên của gia đình, di cư phụ thuộc theo nam giới.
Gothard chỉ ra rằng ở Úc vào thế kỷ 19, dù những người phụ nữ di cư độc thân đã
được chính phủ chú ý đến nhưng vai trò kinh tế của họ vẫn bị bỏ qua [30, pg.6]. Ở
các nước đang phát triển, vào cuối thế kỷ 20, bất chấp một thực tế là phụ nữ chiếm
gần một nửa số lượng người trong dòng chảy di dân nông thôn-đô thị và di dân
quốc tế, họ vẫn không phải là đối tượng nghiên cứu độc lập trong nhiều đề tài. Di

dân nữ đã đem đến nhiều thay đổi cho bộ mặt kinh tế xã hội cả nơi họ đi và nơi họ
đến nhưng vai trò của họ không được công nhận, bị che khuất hoặc vẫn bị gán cho
chỉ là người trợ giúp mà thôi.
Mô hình của trường phái tân cổ điển cho rằng nam giới là tác giả của di cư
và của những thay đổi trong xã hội. Mô hình này được xây dựng trên quan niệm
truyền thống cho rằng phần lớn nam giới đi ra thành phố tìm việc với tư cách là
người kiếm tiền cho gia đình, phụ nữ ở lại và nhận tiền gửi để nuôi nấng chăm sóc
con cái và cha mẹ già. Trong những trường hợp có phụ nữ di cư, phụ nữ được giả

×