Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học
Nguyễn Việt Hà
Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền
hôn nhân
(Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội)
Hà Nội, 2/2009
1
Đại học quốc gia Hà Nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học
Nguyễn việt Hà
Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền
hôn nhân
(Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số : 60 31 30
luận văn thạc sĩ xã hội học
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYễn Thị Kim Hoa
Hà Nội, 2009
3
Mục lục
Phần I: Mở đầu 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
2.1. Mục đích nghiên cứu 3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
3. Giả thuyết nghiên cứu 3
4. Đối tượng, khách thể nghiên cứu 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu 4
4.2. Khách thể nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Sơ đồ tương quan các biến số 5
7. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 6
7.1. ý nghĩa khoa học 6
7.2. ý nghĩa thực tiễn 6
8. Kết cấu của luận văn 7
Phần II: Nội dung 8
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 8
1.1. Cơ sở lý luận 8
1.1.1. Lý luận nhận thức Macxit 8
1.1.2. Các lý thuyết đặt cơ sở cho việc nghiên cứu 9
1.1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề hôn nhân - gia đình 16
1.1.4. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình 17
1.2. Những vấn đề đang đặt ra trong nghiên cứu về hôn nhân, gia đình
và Luật Hôn nhân và gia đình 22
1.3. Địa bàn nghiên cứu và đối tượng khảo sát 24
1.4. Các khái niệm cơ bản 26
Chương 2: Thực trạng nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên nam nữ
trước kết hôn 33
2.1. Nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình 33
2.2. Nhận thức về các nội dung cụ thể trong Luật Hôn nhân và gia đình 37
2.2.1. Về các nội dung liên quan đến kết hôn 38
2.2.2. Hiểu biết về những quy định trong quan hệ vợ chồng 50
2.2.3. Đánh giá nhận thức về các quan hệ khác trong gia đình 57
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiểu biết của thanh niên trước kết hôn
4
về Luật Hôn nhân và gia đình 65
2.3.1. Tiếp cận qua các phương tiện truyền thông đại chúng
và truyền thông trực tiếp
2.3.2. Cách thức nghiên cứu, tìm hiểu Luật và các văn bản dưới luật
Chương 3: Xu hướng biến đổi quan điểm về hôn nhân và gia đình trong thanh niên hiện nay
3.1. Xu hướng biến đổi quan điểm về giải quyết những vấn đề trong gia đình
3 2. Quan hệ tình dục trước hôn nhân
3.3. Sống thử
3.4. Ly hôn
Phần III: Kết luận và một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
Luật Hôn nhân và gia đình của thanh
4.1. Kết luận
4.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu biết về Luật hôn nhân gia đình trong thanh niên
trước hôn nhân
4.3 Một số khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Phiếu trưng cầu ý kiến
Một số kết quả nghiên cứu định tính
Luật Hôn nhân và gia đình
5
Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. ở
các nước đang phát triển cũng đang diễn ra quá trình này. Giao lưu và hội nhập
đã tác động tích cực đến sự phát triển chung của nhiều nước. Tuy nhiên quá
trình này cũng mang theo nó những ảnh hưởng trái chiều, tiêu cực đến đời sống
xã hội. Điều có thể nhận thấy trong chiều sâu của sự thay đổi chính là hệ thống
giá trị và chuẩn mực, đặc biệt là giá trị chuẩn mực của gia đình - những cái mà
lâu nay vẫn được nhìn nhận như những thành tố tạo nên nét đặc biệt của văn hoá
ở từng quốc gia, dân tộc.
ở Việt Nam, những năm gần đây, mở cửa đổi mới đã làm cho hệ giá trị,
chuẩn mực xã hội có những biến đổi bước đầu. Trong đó có sự pha trộn các yếu
tố của cả phương Đông và phương Tây. Cái truyền thống và cái hiện đại đã đan
xen và tác động mạnh mẽ đối với thanh niên - nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù về
lứa tuổi với những đặc điểm tâm, sinh lý có nhiều biến động trong quá trình tiếp
cận và học tập những yếu tố văn hoá từ bên ngoài. Thanh niên tuy có sức khoẻ,
hiểu biết, tri thức nhưng lại bồng bột, dễ bị cám dỗ bởi những giá trị ảo. Hiện
tại, quá trình xã hội hoá thanh niên diễn ra khá đa chiều, phức tạp với việc xuất
hiện nhiều quan niệm mới lạ về tình bạn, tình yêu, hôn nhân gia đình và quan hệ
tình dục. Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến đổi về hành vi,
lối sống của thanh niên trong quá trình thiết lập hôn nhân và gia đình.
Một trong những vấn đề đang được dư luận quan tâm là tình trạng quan
hệ tình dục trước hôn nhân và hiện tượng chung sống trước hôn nhân. Một số
khảo sát gần đây cho thấy, quan hệ tình dục và chung sống trước hôn nhân trong
thanh niên đang có xu hướng gia tăng. Điều này vừa do ảnh hưởng của lối sống,
quan niệm sống ngoại lai vừa do tình trạng thiếu tri thức, thiếu thông tin, thiếu
hiểu biết về pháp luật. Tất cả đưa đến những hậu quả xấu về sức khoẻ, đạo đức,
tâm lý, hạnh phúc gia đình cho thanh niên, đặc biệt nữ thanh niên và cho toàn xã
hội.
6
ở một vài thập niên trước, các nhà quản lý lo ngại về hiện tượng thanh
niên quan hệ tình dục trước hôn nhân và quan hệ tình dục sớm thì những năm
gần đây, như một hệ quả tất yếu của quá trình mở cửa, đổi mới, tình trạng quan
hệ tình dục trước hôn nhân, chung sống trước hôn nhân của thanh niên đang có
chiều hướng gia tăng. Hiện tại, ở nước ta, tuy chưa có những số liệu thống kê
chính thức về hiện tượng này nhưng từ những điều tra ít nhiều có liên quan cho
thấy, chung sống trước hôn nhân đang phát triển trong giới trẻ sống xa gia đình,
ít chịu sự kiểm soát của gia đình như học sinh, sinh viên, những người lao động
nhập cư vào các thành phố lớn. Một khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy
đã có 12.712 đôi bạn trẻ đã chung sống trước, kết hôn sau và 10.148 đôi chung
sống không kết hôn. [12]
Thực tế, quan hệ tình dục trước hôn nhân và chung sống trước hôn nhân
đã và đang để lại những hậu quả xã hội trên nhiều phương diện như: sức khoẻ,
đạo đức, lối sống và sự bền vững của gia đình. Đây cũng chính là nguyên nhân
dẫn đến hàng chục vạn ca nạo phá thai hàng năm và hàng ngàn gia đình tan vỡ
sau đó. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, song một phần, do thiếu sự
hiểu biết và ý thức tuân thủ pháp luật còn kém của cộng đồng nhất là của thanh
niên.
Hiện nay, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân và chung sống ngoài hôn nhân
giữa những thanh niên có gia đình và thanh niên chưa lập gia đình cũng đang
ngày càng gia tăng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng ly hôn tăng nhanh qua các năm, đặc biệt là ở các thành phố lớn. [14] Theo
số liệu của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc Hội, số vụ vợ chồng xin ly hôn
đã tăng từ 22.000 vụ năm 1991 lên 44.000 vụ năm 1998. Còn theo thống kê của
Toà án nhân dân tối cao, năm 2000 có 51.361 vụ vợ chồng xin ly hôn, năm 2001
có 54.226 vụ, năm 2002 có 56.487 vụ, năm 2003 có 60.004 vụ và năm 2004 có
tới 63.735 vụ. ở một số thành phố lớn, tỷ lệ ly hôn đã trở thành một vấn đề xã
hội rất đáng được quan tâm. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ lệ ly
hôn cao nhất trong cả nước, năm 1998, số vụ ly hôn chiếm 20% tổng số các vụ
kết hôn. [16]
7
Hà Nội là thủ đô của cả nước, nơi tập trung bộ phận quan trọng lực lượng
lao động trẻ ở mọi trình độ, số lượng sinh viên, học sinh đông. ảnh hưởng của
lối sống ngoại lai mạnh. Do vậy, các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội kể cả
chuẩn mực luật pháp lẫn những chuẩn mực đạo đức, lối sống diễn ra ngày
càng nhiều. Trên lĩnh vực hôn nhân gia đình, do những quan niệm thoáng hơn
về tình dục, tình yêu và hôn nhân tự do, nên những hành vi lệch chuẩn ngày
càng nhiều. Điều này tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống xã hội, đặc
biệt đến sự phát triển bền vững của gia đình. Do vậy, tìm hiểu, đánh giá về nhận
thức luật hôn nhân gia đình ở nam nữ trước khi kết hôn, cũng như những nguyên
nhân ảnh hưởng tới nhận thức của họ về vấn đề này là hết sức cần thiết. Với ý
nghĩa đó, tôi đã chọn đề tài “Mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của
đối tượng tiền hôn nhân” (Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội) làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
2.1. ý nghĩa khoa học
- Luận văn sẽ góp phần khẳng định hơn nữa những lý thuyết xã hội học
như: lý thuyết Hành động xã hội và lý thuyết Xã hội hóa cá nhân trong một lĩnh
vực đặc thù - tình yêu, tình dục, hôn nhân và gia đình.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ giúp gợi mở những
hướng nghiên cứu tiếp theo để đẩy mạnh việc tuyên truyền thực hiện Luật Hôn
nhân và gia đình và những văn bản luật pháp khác có liên quan.
2.2. ý nghĩa thực tiễn
- Từ chỗ góp phần làm rõ nhận thức, hiểu biết của thanh niên tiền hôn
nhân về Luật Hôn nhân và gia đình trên cơ sở này giúp cho các cơ quan truyền
thông, tư vấn có định hướng và biện pháp phù hợp hơn trong việc tuyên truyền,
giáo dục thanh niên thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình, đặc biệt là với đối
tượng tiền hôn nhân.
- Luận văn sẽ cung cấp thêm thông tin, dữ liệu cho việc nghiên cứu, giảng
dạy xã hội về giới, gia đình cho sinh viên, học sinh và những nhóm xã hội khác
có yêu cầu.
3. Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
8
Làm rõ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên nam nữ
trước kết hôn đồng thời lý giải những nhân tố ảnh hưởng tới hiểu biết của họ
nhằm đề xuất một số giải pháp chủ yếu để nâng cao sự hiểu biết của thanh niên
nam, nữ trong thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập, xử lý và phân tích những thông tin có sẵn gồm: những báo
cáo, luật, sách, bài báo, công trình khảo sát đã hoàn thành có liên quan đến hiểu
biết và thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên.
- Điều tra xã hội học bằng bảng câu hỏi có cấu trúc nhằm thu thập những
thông tin liên quan đến hiểu biết của thanh niên nam nữ trước khi kết hôn về
Luật Hôn nhân và gia đình.
- Xử lý, phân tích, tổng hợp các thông tin thu được qua điều tra định tính
và định lượng để làm rõ mức độ hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình ở nam
nữ trước khi kết hôn.
- Phân tích, tổng hợp những kết quả thu được để đưa ra những kết luận và
những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao trình độ hiểu biết của thanh niên
trong độ tuổi kết hôn về Luật Hôn nhân và gia đình.
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Việc tuyên truyền, giáo dục, thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình tuy đã
được quan tâm chú ý nhưng chư a tìm được những hình thức phù hợp cho thanh
niên tiền hôn nhân, do vậy, hiểu biết Luật của họ còn chưa đầy đủ, thiếu chính
xác.
- Nam nữ thanh niên trước khi kết hôn đang còn ít quan tâm tới việc tìm
hiểu văn bản Luật, chính sách liên quan đến vấn đề hôn nhân, gia đình đặc biệt
là Luật Hôn nhân và gia đình nên hiểu biết về luật còn chưa cao.
- Hiểu biết của nam nữ thanh niên trong độ tuổi kết hôn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố như giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, khu vực cư trú và đặc
trưng văn hoá gia đình
5. Đối tƣợng, khách thể và địa bàn nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
9
Mức hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân.
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Thanh niên nam, nữ trước kết hôn đang sống và làm việc trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
- Cán bộ làm công tác thanh niên, công tác lao động, thương binh và xã hội và
cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật ở Hà Nội.
5.3. Địa bàn nghiên cứu
Đối tượng được chọn để tiến hành khảo sát là thanh niên nam, nữ chưa
kết hôn tại phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy và xã Vĩnh Ngọc, huyện Đông
Anh Nhóm đối tượng này được chọn theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Số phiếu
phát ra là 400 phiếu, số phiếu thu về 397 phiếu. Tất cả các phiếu đều hợp lệ,
trong đó:
- Cơ cấu tuổi:
Độ tuổi: từ 16-17 tuổi: 11,3%
Độ tuổi 18-22 tuổi: 45,7%
Độ tuổi 22-30 tuổi: 43%
- Cơ cấu trình độ học vấn:
Chưa tốt nghiệp PTTH: 26,9%
Tốt nghiệp PTTH: 39,2%
TC, CĐ: 22,5%
ĐH, trên ĐH: 11,4%
- Cơ cấu giới tính :
Nam: 53,4%
Nữ: 46,6%
- Cơ cấu nghề nghiệp:
Đang đi học: 51,3%
Chưa đi làm: 10,2%
Đang đi làm: 38,5%
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như
thống kê, logic-lịch sử điều tra xã hội học. Trong đó, những phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau đây được sử dụng:
- Phân tích tài liệu có sẵn:
Trên cơ sở tổng quan các tài liệu đã có gồm sách, tạp chí, thống kê công
trình nghiên cứu đã được thực hiện, hồ sơ văn bản lưu trữ và các báo cáo của các
10
cơ quan chức năng… để có thêm thông tin làm rõ cả cơ sở lý luận lẫn thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu.
- Điều tra định lượng:
Tiến hành phỏng vấn theo phiếu trưng cầu ý kiến với 400 thanh niên chưa
kết hôn. Cách thức chọn mẫu: sử dụng phương pháp ngẫu nhiên phân tầng. Cụ
thể, ở nội thành, tác giả chọn quận Cầu Giấy, phường Nghĩa Tân; ở ngoại thành,
chọn huyện Đông Anh, xã Vĩnh Ngọc. Sau khi xác định 2 phường/xã, tác giả lập
danh sách thanh niên từ 16 tuổi trở lên chưa lập gia đình; sau đó chọn ngẫu
nhiên hệ thống cho đủ 400 mẫu theo dự định để tiến hành phát phiếu khảo sát.
- Nghiên cứu định tính:
Ngoài phát phiếu điều tra định lượng, cuộc khảo sát còn tiến hành 2 cuộc
thảo luận nhóm tập trung, mỗi nhóm 10 người và 10 phỏng vấn sâu đối với
những người đại diện cho nhóm thanh niên chưa lập gia đình, nhóm cán bộ và
chủ hộ gia đình có thanh niên chưa lập gia đình.
- Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu điều tra định lượng được làm sạch và xử lý bằng chương trình
SPSS 12.5. Các tương quan cơ bản được xác định và đưa ra với những bảng số
liệu nhằm đáp ứng các mục tiêu mà cuộc khảo sát hướng đến là đánh giá mức độ
hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của đối tượng tiền hôn nhân.
7. Sơ đồ tƣơng quan các biến số
11
Biến độc lập
- Đặc điểm nhân khẩu của thanh niên chưa lập gia đình: Giới tính (nam, nữ),
Tuổi (từ 16 đến hết 17 tuổi, từ 18-22 tuổi và trên 22 tuổi), Trình độ học vấn (Tốt
nghiệp PTTH trở xuống, trung cấp, cao đẳng, đại học và trên đại học), Địa bàn
cư trú (nội thành, ngoại thành).
- Đặc điểm xã hội nghề nghiệp cán bộ LĐQL (cán bộ tư pháp, cán bộ LĐTBXH,
cán bộ văn hoá, thể thao, du lịch)
- Chủ hộ gia đình có thanh niên chưa kết hôn (nam/nữ)
Biến phụ thuộc
- Hiểu biết của đối tượng tiền hôn nhân với Luật Hôn nhân và gia đình theo các
vấn đề:
+ ý nghĩa, tầm quan trọng của luật và các văn bản dưới luật.
+ Nội dung của luật
+ Phạm vi tác động và đối tượng điều chỉnh của luật và văn bản dưới luật.
- Một số kết quả bước đầu trong thực hiện Luật.
Biến điều kiện
Các yếu tố kinh tế, xã hội trong đó đặc biệt là sự phát triển của kinh tế thị
trường và các yếu tố liên quan đến phong tục tập quán, truyền thống văn hoá và
Kết quả thực hiện Luật
Phạm vi tác
động và đối
tượng điều
chỉnh
Điều kiện kinh tế – xã
hội
Hiểu biết của thanh niên
trước kết hôn về Luật Hôn
nhân và gia đình
Tầm quan
trọng của
Luật
Nam, Nữ thanh
niên chưa kết
hôn
- Giới
- Tuổi
- Học vấn
- Địa bàn cư
trú
Đối tượng khác
- CBLĐQL (CB tư
pháp, CB
LĐTBXH )
- Chủ hộ gia
đình có TN chưa
kết hôn
Nội dung của
Luật Hôn nhân
& gia đình
12
thông tin truyền thông. Đây là những yếu tố tác động đến cả hiểu biết, thái độ
của đối tượng tiền hôn nhân trong việc tìm hiểu và thực hiện Luật Hôn nhân và
gia đình.
8. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thực trạng nhận thức về Luật Hôn nhân và gia đình của thanh niên
nam nữ trước kết hôn.
Chương 3: Xu hướng biến đổi quan điểm về hôn nhân và gia đình và một số giải
pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình
của thanh niên tiền hôn nhân hiện nay
13
Phần II: nội dung
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của Vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận nhận thức Macxit
Nhận thức và sự hiểu biết của con người từ đâu mà có? Con người có
nhận thức được chân lý khách quan không và quá trình nhận thức của con người
thế nào đã và đang là vấn đề mà triết học duy vật và duy tâm tranh luận.
Theo quan điểm duy vật, nhận thức của con người là sự phản ánh của thế
giới khách quan - Thế giới khách quan được con người nhận thức từ cảm giác,
tri giác, biểu tượng đến tư duy trừu tượng. Nhờ tư duy trừu tượng mà con người
hiểu biết được bản chất của các sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên và xã
hội, nắm được các quy luật và tính quy luật chi phối quá trình vận động và phát
triển của nó - tiếp cận được với chân lý. Chủ nghĩa duy vật Macxit cũng chỉ ra
rằng, sở dĩ con người nhận thức được thế giới khách quan, do con người có lao
động. Nhờ lao động mà đầu óc con người được phản ánh những hiện tượng,
những sự kiện, những quá trình của thế giới hiện thực. Con người hiểu biết thế
giới hiện thực. Nhưng sự phản ánh này không chỉ là sự sao chép đơn thuần thế
giới hiện thực mà còn là sự phản ánh bản chất của chúng với những mối liên hệ
bên trong, tất yếu, tự nhiên của nó. Con người, vì vậy, ngày càng khám phá bản
chất của các sự vật, hiện tượng, phát hiện thêm các quy luật, tiến gần hơn đến
chân lý tuyệt đối. Như vậy, nhận thức của con người là một quá trình từ đơn
giản đến phức tạp, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ hiểu biết ít
đến hiểu biết nhiều - đến chân lý.
áp dụng lý luận nhận thức vào việc nghiên cứu quá trình tiếp cận một hiện
tượng, một sự vật của nhóm xã hội - thanh niên tiền hôn nhân là việc không dễ.
Vì vậy, làm rõ hiểu biết của họ về ý nghĩa, tầm quan trọng của luật, nội dung các
điều khoản chính yếu của luật và việc áp dụng luật trên thực tế là những việc cần
làm. ở đây, xuất phát từ những nguyên lý và lý luận nhận thức cần làm rõ thực
trạng, nguyên nhân sự hiểu biết về Luật Hôn nhân và gia đình của nhóm thanh
niên tiền hôn nhân với quan điểm duy vật, biện chứng, phát triển, lịch sử và hệ
14
thống. Điều này đòi hỏi khi làm rõ hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về
Luật Hôn nhân và gia đình cần làm rõ những đặc điểm sinh học của nhóm, hoàn
cảnh kinh tế, xã hội của gia đình và cộng đồng mà họ đang sống; trình độ học
vấn, khả năng tiếp cận thông tin, mức độ tham gia các hoạt động xã hội mà
những thành viên trong nhóm hiện có
Ngoài ra, theo quan điểm lịch sử và phát triển, hiểu biết của thanh niên
tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình còn được nghiên cứu trong sự so
sánh với thời gian. ở đây, thời gian được tính theo độ tuổi của khách thể nghiên
cứu đồng thời tính theo các giai đoạn phát triển về nhận thức của cộng đồng
trong đổi mới. Điều này sẽ giúp cho việc làm rõ những thay đổi trong nhận thức,
hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân về Luật Hôn nhân và gia đình qua các
giai đoạn phát triển của lịch sử cũng như qua quá trình phát triển sinh học và xã
hội ở mỗi con người.
Hôn nhân và gia đình là lĩnh vực luôn vận động, phát triển và biến đổi.
Theo đó, cơ cấu gia đình, chức năng gia đình, vai trò và vị trí của gia đình cũng
như những quan niệm về giá trị, chuẩn mực trong gia đình đã có nhiều biến đổi
theo thời gian. Nghiên cứu hiểu biết của thanh niên tiền hôn nhân với Luật Hôn
nhân và gia đình phải hết sức căn cứ vào những biến đổi của gia đình và những
biến đổi của cộng đồng xã hội để xem xét những biến đổi trong nhận thức của
nhóm xã hội đặc thù này. Trong điều kiện mở cửa, đổi mới, chuyển sang kinh tế
thị trường, quan niệm thoáng đãng hơn về tình dục, tình yêu và hôn nhân cũng là
những yếu tố phải tính tới khi nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật, biện
chứng và lý luận nhận thức Macxit.
1.1.2. Các lý thuyết xã hội học đặt cơ sở cho việc nghiên cứu
a. Lý thuyết Hành động xã hội
Lý thuyết xã hội học về hành động xã hội đã được các nhà xã hội học như
V.Pareto, M.Weber, F.Znaniecki và một số nhà xã hội học khác đưa ra. Nội
dung chủ yếu của lý thuyết này coi hành động xã hội có cơ sở xuất phát từ nhu
cầu, động cơ của cá nhân xã hội và kết quả của nó là sự thiết lập các quan hệ xã
hội.
15
Các lý thuyết gia khẳng định khi mỗi cá nhân tham gia vào cuộc sống xã
hội, họ tất yếu phải thực hiện các hành động xã hội. Hành động xã hội xuất hiện
ngay từ khi con người được hình thành, nhu cầu hợp tác để tồn tại và phát triển
đã làm xuất hiện quan hệ tương tác giữa các chủ thể hành động; đến lượt mình,
các hành động xã hội lại tạo kết quả là các mối quan hệ cá nhân - cá nhân, cá
nhân - xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà cá nhân thực hiện hành động, ngược
lại, họ hành động nhằm đạt được các mục đích riêng của bản thân và những mục
đích chung.
Mặc dù mỗi nhà xã hội học trên đều tiếp cận hành động xã hội ở các góc độ
khác nhau, song họ đều thống nhất ở một số điểm:
- Hành động xã hội bao giờ cũng có sự tham gia của yếu tố ý thức dù ở
mức độ khác nhau, có nghĩa là chủ thể hành động luôn gắn cho hành động
một ý nghĩa chủ quan nhất định.
- Hành động xã hội có tính định hướng mục đích
- Hành động xã hội là hành động hướng tới người khác
Trên thực tế, không phải hành động xã hội nào cũng có tính xã hội hay
đều là hành động xã hội. Những hành động chỉ nhằm tới các sự vật mà không
tính đến hành vi của người khác như việc hai người đi xe đạp vô tình va quệt
vào nhau trên đường phố không phải là hành động xã hội, hành động giống nhau
của các cá nhân trong một đám đông như khi mọi người cùng mặc áo mưa do
đột nhiên trời đổ mưa cũng không được coi là hành động xã hội. Với những
hành động như thế này, chúng ta thấy hầu như không có sự tham gia của yếu tố
ý thức mà đó chỉ là sự phản ứng một cách tự nhiên trước hoàn cảnh mà thôi.
Thêm nữa, những hành động này thường diễn ra bất chấp ý chí hay mong muốn
chủ quan của chúng ta. Các nhà xã hội học gọi đây là hành động vật lý - bản
năng.
Chúng ta cũng có thể so sánh hành động của loài vật với hành động của
con người. Chẳng hạn, khi một con thú bị đói, nó sẽ ăn một cách ngấu nghiến
những gì mà nó có thể ăn được chỉ để thoả mãn cơn đói. Trong khi đó, ngay cả
khi con người bị bỏ đói, họ cũng ăn theo văn hoá, theo thói quen; cách ăn của họ
16
cũng hướng đến những người xung quanh, nghĩa là làm sao để việc ăn của mình
không gây phản cảm cho người khác và họ lựa chọn thức ăn phù hợp với họ; ví
dụ như một nhà tu hành theo Phật giáo thì khi đói vẫn chỉ lựa chọn thức ăn chay,
hay một người theo ấn Độ giáo sẽ không chọn món thịt bò để ăn khi đói.
So sánh như vậy để thấy sự khác biệt giữa con người và con vật khi
thực hiện hành động. Rõ ràng, hành động ăn của con người trong trường hợp
nêu trên được coi là hành động xã hội, vì nó có tính chất văn hoá, tính chủ
định và sự định hướng đến người người khác của các cá nhân xã hội khi thực
hiện hành động.
Lý thuyết hành động xã hội ra đời nhằm phản ứng lại quan điểm của các
nhà hành vi luận cho rằng chúng ta không thể nghiên cứu được những yếu tố
bên trong qui định hành vi của các cá nhân mà chỉ có thể biết đến những phản
ứng bên ngoài. Theo các nhà xã hội học, chúng ta không đơn thuần chỉ nghiên
cứu phản ứng của các cá nhân trước các kích thích, mà chúng ta hoàn toàn có
thể nghiên cứu những gì đang diễn ra bên trong, những gì tiềm ẩn trong mỗi cá
nhân có tác dụng thôi thúc các nhân hành động để đạt mục đích.
Để minh chứng cho quan điểm của mình, các nhà xã hội học đã đưa ra mô
hình sau:
[11, 137]
Mô hình trên cho thấy cấu trúc của hành động xã hội, những nhân tố của
hành động xã hội được đề cập đến trong mô hình này có mối quan hệ nhân - quả
khăng khít với nhau. Xem xét các nhân tố của hành động xã hội, chúng ta có thể
nhận thấy mỗi hành động xã hội của con người có “điểm gốc” là nhu cầu, động
cơ của chủ thể, và “điểm ngọn” là mục đích cần đạt được của chủ thể đó. Tất
nhiên, chu trình của hành động chịu sự chi phối của yếu tố hoàn cảnh thực hiện
hành động của chủ thể. Chúng ta hãy quay lại ví dụ về một cá nhân khi bị đói,
Nhu cầu
Động cơ
Chủ thể
Hoàn cảnh
Công cụ
phương
tiện
Mục
đích
17
họ có nhu cầu là được ăn. Tuy nhiên nếu anh ta ở nơi mà anh ta chỉ có một
mình, anh ta có thể ăn nhanh hơn để đạt đích "được ăn no" nhanh hơn; ngược
lại, khi anh ta đang ở trong một đám đông, anh ta sẽ lựa chọn cách ăn từ tốn
hơn, vì hành động của anh ta lúc này là định hướng vào đám đông nơi anh ta
đang tham gia. Điều này cho thấy, hành động xã hội mà con người thực hiện
không phải là cách con người phản xạ trực tiếp đối với tác nhân kích thích, mà ở
đây, họ phản ứng qua các biểu trưng có ý nghĩa, có nghĩa là họ phản ứng một
cách gián tiếp. Nói như G.Mead, con người tiếp nhận kích thích, tư duy về tình
huống hành động, đặt mình vào vị trí của đối tượng hành động để dự đoán xu
hướng hành động, từ đó, họ mới đưa ra phản ứng trước kích thích. Những yếu tố
này khiến cho hành động của con người mang tính xã hội cao hơn (hành động
hướng đến người khác), và do đó, tính khách quan của hành động, tính định
hướng về môi trường hành động cũng được nâng lên.
Vận dụng lý thuyết này trong luận văn của mình, tác giả coi hiểu biết Luật
hôn nhân gia đình của thanh niên tiền hôn nhân như là một hành động xã hội.
Hành động này bao giờ cũng kèm ý thức cá nhân. ý thức đó có thể do từng cá
nhân nhận thức sự cần thiết phải tìm hiểu luật khi đang trong giai đoạn tiền hôn
nhân, các cá nhân tự giác tìm hiểu, không tự giác tìm hiểu luật hoặc chỉ tìm hiểu
khi bị một tác động nào đó.
Ngoài ra, việc tìm hiểu luật của đối tượng tiền hôn nhân được xem xét ở cả
tính tích cực của họ. Với nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị khác nhau, đối
tượng tiền hôn nhân có những cách thức, mục đích tìm hiểu khác nhau. Với
những đối tượng có nhu cầu tìm hiểu luật để nâng cao trình độ hiểu biết về luật
pháp thì mục đích là để nắm vững và thực thi nghiêm những quy định của pháp
luật. Những đối tượng này ý thức được sự cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ
luật nên họ chủ động tìm hiểu, cập nhật những văn bản pháp luật mới một cách
kịp thời. Cũng có những thanh niên không ý thức được tầm quan trọng của pháp
luật nên thụ động trong việc tìm hiểu những văn bản pháp luật hay thậm chí làm
sai luật mà không ý thức được. Điều này tạo nên những cách tiếp cận và tìm
18
hiểu khác nhau của thanh niên trước hôn nhân với tinh thần và nội dung của
luật.
b. Lý thuyết Xã hội hoá
Con người là một thực thể sinh học song còn là một thực thể xã hội. Để
sống, tồn tại và phát triển con người phải hội nhập vào nhóm, vào một cộng
đồng xã hội xác định. Mà để hội nhập mỗi con người phải tìm hiểu, tiếp cận, học
hỏi, thực hành những hệ thống giá trị và chuẩn mực mà một nhóm, một tầng lớp,
một cộng đồng đang thừa nhận, tuân theo. Đây chính là quá trình mà mỗi cá
nhân thiết lập quan hệ của mình với những cá nhân khác, thông qua đó cá nhân
học hỏi, tiếp nhận các tri thức, kinh nghiệm, quy tắc ứng xử phù hợp với vai trò
mà nhóm, cộng đồng xã hội yêu cầu, chờ đợi.
Với cách nhìn nhận cơ bản như vậy, các nhà xã hội học đã đưa ra những
quan niệm ít nhiều khác nhau về xã hội hoá.
Nhà xã hội học Mỹ Neil Smelser thì cho rằng: "Xã hội hoá là quá trình mà
trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình" [6,
tr.254] để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành động tương ứng với
hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình. Theo định nghĩa
này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hoá chỉ giới hạn trong việc tiếp
nhận các kinh nghiệm, tri thức, giá trị, chuẩn mực xã hội.
Trong đó, xã hội hoá cá nhân diễn ra dưới tác động của ba nhân tố cơ bản:
sự mong đợi, sự thay đổi hành vi và thói khuôn phép. ở đây, xã hội mong đợi mỗi
cá nhân tuân thủ những giá trị, chuẩn mực văn hoá của một nhóm, một cộng đồng
xã hội xác định mà cá nhân hội nhập vào. Trên cơ sở này mà cá nhân xác định
được vị thế của mình và đóng đúng được những vai trò mà vị thế ấy yêu cầu.
Để làm được những việc này, mỗi cá nhân phải hiểu được những khuôn
mẫu hành vi - những khuôn phép mà một nhóm, một cộng đồng xã hội đã định
dạng tuân theo. Đây chính là những khuôn mẫu xã hội đã được quy chuẩn bởi
các nền văn hoá hay các tiểu văn hoá nhóm.
Còn Fichter xem "Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này
và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và
19
thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó". [11] Như vậy, Fichter đã chú ý
tới tính thích ứng của cá nhân trong quá trình xã hội hoá. Đây là sự tương tác xã
hội mà các quan hệ cá nhân được chuyển hoá thành những quan hệ xã hội có
tính khuôn mẫu mà mỗi cá nhân khi hoà nhập vào từng nhóm, từng cộng đồng
xã hội phải tuân theo.
Nhà khoa học người Nga G.Andreeva nêu ra hai mặt của quá trình xã hội
hoá. Bà cho rằng: "Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận
kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống
các quan hệ xã hội. Mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống
các quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm
nhập vào các mối quan hệ xã hội đó". [11, tr.255]
Lý thuyết này nhấn mạnh đến không chỉ hoạt động cá nhân trong quá trình
xã hội hoá - đơn thuần thu nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển hoá nó thành
những giá trị, tâm thế, xu hướng của cá nhân để tham gia tái sản xuất chúng trong
xã hội. Mặt thứ nhất của quá trình xã hội hoá là sự thu nhận kinh nghiệm xã hội
thể hiện sự tác động của môi trường tới con người. Mặt thứ hai thể hiện sự tác
động của con người trở lại môi trường thông qua hoạt động của mình.
Tony Bilton lại cho rằng Xã hội hoá là “quá trình quá độ mà chúng ta có
thể tiếp nhận được nền văn hoá của xã hội mà trong đó chúng ta đã được sinh ra
- quá trình mà nhờ đó chúng ta đạt những đặc trưng xã hội của bản thân, học
được cách suy nghĩ và ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội của chúng ta -
được gọi là quá trình xã hội hoá”. [10]
Tony Bilton nhấn mạnh chủ yếu đến vai trò của xã hội trong việc truyền
đạt những giá trị văn hoá cho cá nhân, giúp cá nhân có đầy đủ những điều kiện
về mọi mặt để hoà nhập vào xã hội. Tuy nhiên, chúng ta thấy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của cá nhân gần như bị mờ nhạt trong quá trình xã hội hoá.
Xã hội hoá của mỗi cá nhân là một quá trình không thể thiếu từ khi còn là
trẻ thơ đến thời kỳ trưởng thành. Theo Tony Bilton môi trường xã hội hoá với
mỗi cá nhân rất quan trọng, đó là môi trường gia đình, nhà trường, xã hội.
20
Gia đình là một trong những môi trường xã hội hoá có tầm quan trọng đặc
biệt. ở đây, con người sinh học bắt đầu hội nhập vào xã hội, lĩnh hội những quy
chuẩn của xã hội thông qua cha, mẹ, người thân. Vì vậy, truyền thống gia đình
thể hiện qua gia đạo, gia giáo, gia phong, gia nghiệp có tác động không nhỏ hình
thành tính cách của mỗi cá nhân. Bầu không khí gia đình, sự hoà hợp hay xung
đột của các thành viên gia đình để lại những dấu ấn quan trọng trong sự phát
triển tính cách của thế hệ trẻ.
Trường học là toàn bộ hệ thống giáo dục được lập ra có chủ định. Theo
Tony Bilton trường học cũng là môi trường xã hội hoá chính yếu, giống như môi
trường gia đình. ở nhà trường, các cá nhân được tiếp thu cả tri thức tự nhiên, xã
hội và cả những hệ thống, những giá trị chuẩn mực được thể hiện qua các quy
chuẩn luật pháp, đạo đức, lối sống. Qua hệ thống chương trình, giáo trình và bài
giảng và qua cả sự tiếp xúc thầy - trò, trò - trò, mỗi cá nhân được xã hội hoá.
Các luật, văn bản dưới luật, quy chuẩn hành vi của con người, trong đó có quy
chuẩn về hôn nhân và gia đình đã được giáo dục, tuyên truyền trong nhà trường.
Xã hội là môi trường thứ ba giúp con người được xã hội hoá. ở đây, thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng và thông qua các hình thức truyền
thông trực tiếp, con người được truyền thông, tư vấn, tiếp thu những giá trị và
chuẩn mực xã hội. Các hệ tư tưởng, hệ thống các quan điểm chính trị, các khuôn
mẫu hành vi có tính chuẩn mực xã hội được truyền bá qua các hệ thống truyền
thông và qua giao tiếp người - người trong xã hội. Nhờ vậy, xã hội hoá cá nhân
được thực hiện. Các quy chuẩn luật pháp, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán
được mỗi cá nhân và cả cộng đồng tôn trọng, tuân theo thực hiện.
Tính chất của quá trình xã hội hoá: Theo Tony Bilton xã hội hóa là "Một
quá trình khó khăn, phức tạp và rộng khắp” [10, tr.29] bởi vì xã hội hoá chính là
việc tạo lập diện mạo của tất cả các quan hệ xã hội, của tất cả các hoạt động của
con người, cho dù con người và nhóm xã hội có thể nhận thức được hay không
nhận thức được trong quá trình hoạt động.
Vận dụng lý thuyết xã hội hoá vào việc phân tích hiểu biết của nhóm xã
hội thanh niên chưa kết hôn về Luật Hôn nhân và gia đình, cần phải đi sâu, làm
21
rõ đặc trưng xã hội của nhóm xã hội này, gồm: hoàn cảnh, điều kiện kinh tế-xã
hội mà họ đang sống và hoạt động; đặc trưng văn hoá tiểu gia đình mà họ đã
sinh ra, lớn lên; hệ thống giáo dục và tri thức tự nhiên, xã hội, nghề nghiệp mà
họ được đào tạo, những chuẩn mực xã hội và khuôn mẫu hành vi tác phong mà
họ được định hướng tới cùng hệ thống truyền thông mà họ có thể tiếp cận;
những hình mẫu tiêu biểu mà họ ngưỡng mộ, định hướng, noi theo. Thậm chí cả
những loại hành vi, sai lệch xã hội mà hệ thống quản lý nhà nước đang điều
khiển, kiểm sát, điều chỉnh trong quá trình thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình
cũng là những yếu tố cần phải điều tra, làm rõ. Trên cơ sở này mà tiến hành
những đo lường cần thiết về nhận thức, thái độ của họ đối với ý nghĩa, tầm quan
trọng, nội dung chính của Luật Hôn nhân và gia đình. Từ đây mà làm rõ mức
hiểu biết thực tế của nhóm xã hội đặc biệt - thanh niên trước kết hôn với luật và
các văn bản pháp lý dưới luật của Luật Hôn nhân và gia đình.
Trong quá trình xã hội hoá, cá nhân nào lĩnh hội được càng nhiều các điều
Luật Hôn nhân và gia đình thì bản thân các cá nhân đó có được ý thức pháp luật
tốt hơn. Đồng thời sẽ là chủ thể có tác động trở lại đối với môi trường xã hội
nhiều hơn. Đầu tiên, chính bản thân họ sẽ là người có nhận thức đầy đủ về Luật
Hôn nhân và gia đình, tìm hiểu một cách sâu sắc về nó và sau đó là truyền đạt nó
đến cho các đối tượng để quán triệt và thực hiện Luật này.
1.1.3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
hôn nhân - gia đình
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò của gia đình.
Người nói: “Hạt nhân của xã hội là gia đình, chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Điều đó có nghĩa rằng cơ sở cho một xã
hội mới cũng như sự đảm bảo cho thắng lợi của chúng ta trong tiến trình xây
dựng xã hội mới cần phải xây dựng một gia đình tốt.
Giữa gia đình và xã hội có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Gia đình là
nền tảng của xã hội. Sự giàu có của các gia đình, cá nhân tạo tiền đề cho một
quốc gia vững mạnh. Người nhấn mạnh: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt; gia đình tốt thì xã hội mới tốt”.
22
Theo sự hướng dẫn của Người, trong tiến trình phát triển Đảng ta luôn
nhấn mạnh vai trò quan trọng của gia đình. Chính việc củng cố xây dựng gia
đình truyền thống Việt Nam đã tạo cơ sở vững chắc đảm bảo thắng lợi của hai
cuộc trường kỳ kháng chiến bảo vệ đất nước. Trong điều kiện mới tập trung xây
dựng đất nước trên cơ sở phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng
ta càng chú ý và nhấn mạnh vai trò của gia đình. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đã xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới”.
Quan điểm trên đã được cụ thể hóa trong các văn bản chính sách về gia
đình và đã thể hiện trong thực tế. Trước yêu cầu mới của công cuộc phát triển
phải đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế, năm 2005 Ban Bí thư đã
ban hành Chỉ thị số 49-CT/TƯ về xây dựng gia đình Việt Nam, trong đó khẳng
định “Gia đình là tế bào của xã hội, nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát
huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Với việc coi trọng vai trò của gia đình, từ năm 2001 Đảng và Nhà nước đã
quyết định lấy ngày 28-6 hàng năm là “Ngày gia đình Việt Nam”. Bên cạnh đó
đã thể chế hóa thành luật và ban hành các pháp lệnh và nghị định để hỗ trợ và
điều chỉnh các quan hệ gia đình và công tác gia đình. Chẳng hạn như Luật Hôn
nhân và Gia đình (2000), Luật Bảo vệ, Chăm sóc trẻ em (1991), Luật Phòng
chống Bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới; Luật Đất đai, Pháp lệnh người tàn
tật…
Đường lối của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước về gia đình đã
mở ra điều kiện thuận lợi cho củng cố và phát triển gia đình Việt Nam. Trên
thực tế hơn hai mươi năm qua đất nước, xã hội và con người Việt Nam đều đổi
mới. Kinh tế hộ gia đình đã có bước phát triển mạnh, trở thành bộ phận quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân, góp phần không nhỏ vào quá trình xóa đói
giảm nghèo. Vai trò của phụ nữ trong xã hội và gia đình được đề cao. Các hoạt
động cưới xin và lễ hội cũng có nhiều tiến bộ. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn
23
kết xây dựng đời sống văn hóa", các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc
người có công thu hút sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Những
điều đó làm đẹp thêm những giá trị nhân văn của gia đình Việt Nam.
1.1.4. Hoàn cảnh ra đời và phát triển của Luật Hôn nhân và gia đình
Mục tiêu cuối cùng trong quá trình phát triển của mỗi một quốc gia là
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Chính vì vậy, Nhà nước ta ngay
từ khi thành lập đến nay, đã có nhiều biện pháp nhằm từng bước nâng cao đời
sống của nhân dân, đặc biệt đã ban hành, chỉnh sửa, bổ sung củng cố hoàn thiện
hệ thống luật pháp.
Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ tồn tại trong phát triển vận động trong
suốt đời sống con người. Nhà nước ta đã 3 lần ban hành Luật Hôn nhân và Gia
đình (1959, 1986, 2000). Luật Hôn Nhân và Gia Đình đầu tiên đã được Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 11, thông qua
tại phiên họp ngày 29 tháng 12 năm 1959 (có hiệu lực ngày 13/1/1960) gồm 6
chương, 35 điều. Mục đích của bộ luật này là loại bỏ hệ thống hôn nhân dưới
chế độ phong kiến, khuyến khích và cho mọi người quyền tự do tìm hiểu và kết
hôn với nhau. Luật cũng nêu rõ nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền hạn của chồng
và vợ trong hôn nhân, những mối quan hệ giữa cha mẹ, con cái và ly hôn.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, tình yêu trở thành một nền tảng hợp
pháp cho hôn nhân. Các tài liệu của Đảng về bộ luật mới này được xuất bản
trong Nếp Sống Văn hóa đã chỉ ra rằng hôn nhân phải xuất phát từ tình yêu và
được xây dựng trên nền tảng của sự tự nguyện giữa hai con người. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xem bộ luật năm 1959 như “một phần không thể thiếu của công
cuộc cách mạng chủ nghĩa xã hội” vì nó “nhằm mục đích giải phóng người phụ
nữ”. Sự ban hành bộ luật năm 1959 về hôn nhân và gia đình là biểu hiện cho
quyết tâm xây dựng một xã hội mới, một gia đình xã hội chủ nghĩa mới, tạo ra
những điều kiện hợp pháp cho phụ nữ (và cả đàn ông) để tham gia các hoạt động
bên ngoài gia đình.
Cần phải nói thêm rằng, do đặc điểm lịch sử của nước ta, Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 1959 sau khi ban hành, mới chỉ có hiệu lực ở miền Bắc. Ở
24
min Nam, thi im ỏp dng Lut Hụn nhõn v gia ỡnh 1959 l ngy
25/3/1977 (ngy ban hnh Ngh quyt 76/CP cụng b danh mc vn bn phỏp
lut ỏp dng trong c nc, trong ú cú lut Hụn nhõn v gia ỡnh nm 1959).
Trc nm 1959, Vit Nam quan h hụn nhõn nhiu v, nhiu chng cú ng
ký giỏ thỳ hoc khụng cú ng ký giỏ thỳ vn tn ti v c xó hi tha nhn.
Do tn ti lch s, sau nm 1959, min Bc nh nc Vit Nam ó khụng ch
tha nhn nhng quan h hụn nhõn cú ng kớ l hp phỏp m c nhng quan h
hụn nhõn thc t cha ng ký song thc t ó tn ti t trc vn c coi l
hp phỏp. Tng t nh min Bc, nhng quan h hụn nhõn xỏc lp trc
ngy 25/3/1977 min Nam tuy khụng tuõn theo nguyờn tc mt v mt chng
vn c cụng nhn hp phỏp.
K tha v phỏt trin Lut hụn nhõn v gia ỡnh nm 1959, tip tc xõy
dng v cng c gia ỡnh theo nh hng xó hi ch ngha, gi gỡn v phỏt huy
nhng phong tc, tp quỏn tt p ca dõn tc, xoỏ b nhng tc l lc hu,
nhng tn tớch ca ch hụn nhõn v gia ỡnh phũng kin, chng nh hng
ca ch hụn nhõn v gia ỡnh t sn. Ngy 29/12/1986, Quc Hi nc Cng
ho xó hi ch ngha khoỏ VII, k hp th 12, thụng qua Lut Hụn nhõn v gia
ỡnh sa i gm 10 chng, 57 iu (cú hiu lc vo ngy 3/1/1987).
cao vai trũ ca gia ỡnh trong i sng xó hi, gi gỡn v phỏt huy
truyn thng v nhng phong tc, tp quỏn tt p ca dõn tc Vit Nam, xoỏ b
nhng phong tc, tp quỏn lc hu v hụn nhõn v gia ỡnh trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; ng thi nõng cao trỏch nhim ca cụng dõn,
Nh nc v xó hi trong vic xõy dng, cng c ch hụn nhõn v gia ỡnh
Vit Nam, k tha v phỏt trin phỏp lut v hụn nhõn v gia ỡnh Vit Nam,
ngy 09 thỏng 6 nm 2000 Quc hi nc Cng hũa xó hi ch ngha Vit Nam
khúa X, k hp th 7 thụng qua Luật Hôn nhân và gia đình gm 13 chng
v 110 iu (cú hiu lc thi hnh vo ngy 1/1/2001).
mt vn bn lut c thc thi trong cuc sng, cn cú h thng
nhng vn bn di lut gii thớch, hng dn ỏp dng chỳng ú. Vớ d:
hng dn thi hnh Lut Hụn nhõn v Gia ỡnh 1959 cú Thụng t 60 ngy
25
22/2/1978 của Tòa án nhân dân tối cao… Tương tự như vậy, để hưíng dẫn thi
hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày
20-1-1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao…
Đáng lưu ý là, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (có hiệu lực từ ngày
1/1/2001) đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng và đặc biệt là có nhiều văn
bản pháp luật hướng dẫn áp dụng của Chính phủ. Những văn bản hướng dẫn của
Chính phủ không chỉ bao gồm những quy phạm mang tính chất của luật dân sự
chỉ để cơ quan hành chính thực hiện, áp dụng luật mà còn để Tòa án phải áp
dụng những quy định này khi giải quyết các án kiện về hôn nhân và gia đình. Cụ
thể: Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH ngày 9/6/2000 của Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình. Nghị quyết
số 35/2000/NQ-QH là văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 mà nội dung chủ yếu là xử lý đối với hôn nhân không có đăng ký kết
hôn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn theo NQ 35/2000 là:
+ Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ (Nghị
định 77/2001)
+ Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
3-1-2001.
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số
02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số qui
định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
+ Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành
Luật Hôn nhân và Gia đình.
- Nghị định của Chính phủ số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
- Nghị định 68/ 2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết một số điều của
Luật hôn nhân và gia đình.
- Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính