Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Nghiên cứu thị trường khách du lịch Nhật Bản đối với du lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 121 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




HÀ THÙY LINH

NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG KHÁCH DU LỊCH
NHẬT BẢN ĐỐI VỚI DU LỊCH VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: DU LỊCH HỌC



LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH HỌC




Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN PHÚ ĐỨC


HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC
Danh mục các chữ cái viết tắt trong luận văn



Danh mục bảng và tên bảng trong luận văn

Phần mở đầu
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
3
5. Đóng góp của luận văn
4
6. Bố cục của luận văn
4
PHẦN NỘI DUNG
5
CHƢƠNG 1: CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN
5
1.1. Nhật Bản dƣới góc nhìn du lịch
5
1.1.1. Khái quát về đất nƣớc và con ngƣời Nhật Bản
5
1.1.1.1. Đất nước
5
1.1.1.2. Con người
7
1.1.1.3. Kinh tế – xã hội

9
1.1.1.4. Du lịch Nhật Bản
9
1.1.2. Vài nét về văn hoá Nhật Bản
11
1.2. Ngƣời Nhật Bản trong cộng đồng
14
1.2.1. Đặc điểm tâm lý xã hội của ngƣời Nhật
14
1.2.1.1. Tính cách
14
1.2.1.2. Phong tục tập quán
16
1.2.1.3. Tín ngưỡng và tôn giáo
21
1.2.2. Khẩu vị ăn uống
22


1.2.3. Hấp dẫn của du lịch đối với ngƣời Nhật Bản
23
1.3. Điều kiện làm nảy sinh nhu cầu du lịch của ngƣời Nhật Bản
28
1.3.1. Thời gian rỗi
28
1.3.2. Khả năng tài chính của du khách Nhật Bản
30
1.3.3. Trình độ dân trí
30
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

31
CHƢƠNG 1: THỰC TRẠNG THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH
NHẬT BẢN
32
2.1. Những xu hƣớng chính tác động tới thị trƣờng khách Nhật đi
du lịch nƣớc ngoài
32
2.2. Thực trạng khai thác thị trƣờng khách Nhật Bản tại Việt Nam
40
2.3. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam
44
2.3.1. Số lƣợng khách
44
2.3.2. Cơ cấu khách
45
2.3.3. Chi tiêu của khách
48
2.3.4. Thời vụ du lịch
48
2.3.5. Độ dài trung bình của chuyến đi
48
2.3.6. Quyết định đi du lịch
49
2.3.7. Bạn đồng hành khi đi du lịch
49
2.3.8. Lựa chọn các công ty, đại lý du lịch phục vụ chuyến đi
50
2.3.9. Cách thức phục vụ khách du lịch Nhật Bản
50
2.3.10. Sự hấp dẫn của sản phẩm du lịch Việt Nam

54
2.3.11. Các tác nhân hạn chế
56
2.4. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản và vấn đề đối mặt với kinh
doanh du lịch Việt Nam
58
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
62
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC THỊ TRƢỜNG KHÁCH
63


DU LỊCH NHẬT BẢN LÀ THỊ TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM
3.1. Xây dựng mô hình chiếm lĩnh thị trƣờng khách du lịch Nhật
Bản
63
3.2. Định hƣớng khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là thị
trƣờng trọng điểm
66
3.3. Giải pháp khai thác thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản là thị
trƣờng trọng điểm
71
3.3.1. Đẩy mạnh công tác xúc tiến tuyên truyền, quảng bá du
lịch
71
3.3.2. Đa dạng hoá và nâng cao chất lƣợng sản phẩm
73
3.3.3. Nâng cao chất lƣợng đội ngũ lao động
74
3.3.4. Tăng cƣờng đầu tƣ kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch
77
3.3.5. Thúc đẩy hợp tác du lịch
77
3.3.6. Giáo dục du lịch toàn dân
78
3.3.7. Phối hợp liên ngành để phục vụ khách
79
3.4. Các khuyến nghị
80
3.4.1. Đối với Chính phủ và các ngành có liên quan về du lịch
80
3.4.2. Đối với Tổng cục du lịch
82
3.4.3. Đối với địa phƣơng
82
3.4.4. Đối với các doanh nghiệp
83
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
84
PHẦN KẾT LUẬN
85
THƢ MỤC SÁCH THAM KHẢO
88
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
TRONG LUẬN VĂN

OL: Office Lady (nữ viên chức)
GDP : Gross Domestic Product ( Tổng sản phẩm quốc nội)
JNTO: Japan National Tourist Organization (Tổ chức du lịch quốc gia Nhật
Bản)
JATA: Japan Association Travel Agencies (Hiệp hội lữ hành Nhật Bản)
SPDL: sản phẩm du lịch
KS: khách sạn
VC: vận chuyển
TNDL: tài nguyên du lịch
CQDL: cơ quan du lịch
TO: Tour Operator (Ngƣời điều hành tour)
TA: Travel Agent (Đại lý du lịch)
OTOP: One town one product (mỗi huyện một sản phẩm)
OVOP: One village one product (mỗi làng một sản phẩm)



DANH MỤC BẢNG VÀ TÊN BẢNG
TRONG LUẬN VĂN

Bảng 1. Số lƣợng khách Nhật Bản đến Việt Nam (2002 - 2006) – tr 45
Bảng 2. Mục đích đi du lịch của ngƣời Nhật Bản – tr 46
Bảng 3. Số lần đến Hà Nội của khách Nhật Bản – tr 47
Bảng 4. Phân loại khách đến Hà Nội theo độ tuổi – tr 47




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, trên phạm vi toàn thế giới du lịch đã trở thành nhu cầu không
thể thiếu đƣợc trong đời sống văn hoá - xã hội và hoạt động du lịch đang đƣợc
phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều
nƣớc trên thế giới.
Du lịch là sứ giả của hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia,
các dân tộc. Trên thế giới, du lịch hiện đƣợc xem là một trong những ngành
kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút đƣợc nhiều quốc gia tham
gia vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại. Điều này càng
thể hiện rõ hơn trƣớc xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Ở Việt Nam, Đại hội Đảng IX đã xác định “ Phát triển du lịch thật sự
trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lƣợng và hiệu quả
hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái,
truyền thống văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nƣớc và phát
triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu
vực ”, việc xây dựng chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam là rất cần thiết,
làm cơ sở để thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch và giải pháp phát triển
du lịch đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Du lịch Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh
tế, xã hội, văn hoá, mở rộng giao lƣu hợp tác quốc tế của đất nƣớc. Du lịch là
một trong những thế mạnh của Việt Nam. Vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên tự
nhiên và nhân văn đa dạng, phong phú có một ý nghĩa đặc biệt trong việc thu
hút khách du lịch quốc tế tại Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia mới phát triển du lịch nên việc tìm kiếm thị
trƣờng khách là rất cần thiết. Từ trƣớc đến nay, có thể nói việc nghiên cứu đặc
tính và xu hƣớng tiêu dùng của khách Nhật Bản còn là vấn đề hoàn toàn mới


mẻ. Thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đƣợc xác định là thị trƣờng đầy tiềm
năng và nay là thị trƣờng trọng điểm đối với du lịch Việt Nam. Để thị trƣờng
khách du lịch Nhật Bản thực sự là thị trƣờng khách du lịch trọng điểm đối với

du lịch Việt Nam cần có giải pháp cụ thể, thiết thực, ổn định và khả thi. Hiện
nay vẫn còn rất ít những công trình nghiên cứu về trị trƣờng trọng điểm này.
Từ yêu cầu bức xúc của việc phát triển thị trƣờng du lịch Nhật Bản, tác giả
mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch
Nhật Bản đối với du lịch Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm các giải pháp để thu hút
khách du lịch Nhật Bản trở thành thị trƣờng trọng điểm của du lịch Việt Nam.
Luận văn tiếp cận và nghiên cứu thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản với
mục đích góp phần phát triển thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản đến Việt
Nam, làm cho thị trƣờng khách Nhật thực sự là một thị trƣờng trọng điểm của
du lịch Việt Nam trong những năm tới.
Luận văn này chỉ là nghiên cứu thực trạng và khả năng khai thác thị
trƣờng khách du lịch Nhật Bản đối với Việt Nam cũng nhƣ đƣa ra những giải
pháp nhằm thu hút khách ngày càng đông hơn. Hiện nay Nhật Bản là thị
trƣờng du lịch giàu tiềm năng và sẽ phát triển rất mạnh trong những thập niên
tới nhất là thị trƣờng du lịch nƣớc ngoài (outbound). Nhật là một quốc gia có
số ngƣời đi du lịch hàng năm rất lớn (trên 17 triệu), chi phí của khách du lịch
Nhật Bản rất cao. Nghiên cứu về thị trƣờng khách Nhật Bản, luận văn đề cập
những vấn đề về đất nƣớc, con ngƣời và văn hoá Nhật Bản, đƣa ra những
nhận định đánh giá về thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản, về tâm lý, đặc tính
và xu hƣớng thị trƣờng khách Nhật Bản. Đồng thời luận văn cũng đƣa ra một
số phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm thu hút khách đến du lịch Việt Nam


đông hơn. Ngoài ra đề tài cũng phân tích các nguyên nhân cơ bản nhằm giúp
hoàn thiện các giải pháp có tính khả thi để nâng cao hiệu quả kinh doanh, góp
phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu nhập cho ngành.


3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu:
- Nghiên cứu khách du lịch Nhật Bản
- Các giải pháp nhằm thu hút khách du lịch Nhật Bản trở thành thị
trƣờng trọng điểm của du lịch Việt Nam
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Nghiên cứu khách du lịch Nhật Bản trên địa bàn Hà
Nội
Về thời gian: Tập trung phân tích đánh giá thực trạng khách du lịch
Nhật Bản giai đoạn từ 2001 - 2005.
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích và tìm hiểu đặc điểm tâm lý,
đặc điểm tiêu dùng của thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản cũng nhƣ các đặc
trƣng cuả thị trƣờng khách du lịch Nhật Bản dƣới góc độ thoả mãn các nhu
cầu có khả năng thanh toán đối với du lịch Việt Nam. Đặc biệt là khảo sát thị
trƣờng khách du lịch Nhật Bản ở Hà Nội, trong khoảng thời gian từ 5/2005
– 5/2006.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện, luận văn sử dụng các phƣơng
pháp chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin (sách, báo, tài liệu thu thập
từ các doanh nghiệp lữ hành, mạng Internet)
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
- Phƣơng pháp thống kê


- Phƣơng pháp điều tra xã hội (điều tra bảng hỏi về nhu cầu và sở thích
của khách du lịch Nhật Bản)
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu.
5. Đóng góp của luận văn

Luận văn muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào công
cuộc xây dựng và phát triển ngành du lịch nƣớc nhà, từng bƣớc hội nhập vào
du lịch khu vực và quốc tế. Mặt khác, những kết quả nghiên cứu của luận văn
là nguồn tƣ liệu tham khảo cho ngƣời nghiên cứu thị trƣờng và giúp cho các
doanh nghiệp du lịch Việt Nam có thêm những thông tin về thị trƣờng khách
Nhật trong việc kinh doanh du lịch nhằm đem lại kết quả tốt đẹp.

6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tiểu kết, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục
(bảng biểu, tranh ảnh minh hoạ), luận văn gồm có 3 chƣơng:
CHƢƠNG 1: NGHIÊN CỨU VỀ CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP KHAI THÁC THỊ TRƢỜNG KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN
LÀ THỊ TRƢỜNG TRỌNG ĐIỂM











CHƢƠNG 1
CẦU DU LỊCH NHẬT BẢN
1.1. Nhật Bản dƣới góc nhìn du lịch
1.1.1. Giới thiệu về đất nƣớc và con ngƣời Nhật Bản
1.1.1.1. Đất nước

Ngƣời dân Nhật Bản gọi đất nƣớc mình là Nihon hay Nippon đều có ý
muốn cả thế giới hãy biết đến Nhật Bản nhƣ là “Đất nƣớc mặt trời mọc”
(Nhật = mặt trời, Bản = gốc). Trên nền trắng của quốc kỳ Nhật Bản nổi lên
hình mặt trời đỏ, quốc kỳ còn đƣợc gọi là Hinomaru có nghĩa là “vầng
mặt trời”.
Nhật Bản là một nƣớc quân chủ lập hiến ở phía đông lục địa châu Á.
Quần đảo Nhật Bản chạy dài theo một hình trăng lƣỡi liềm từ đảo Sakhalin
(CHLB Nga) tới Đài Loan (Trung Quốc), dài chừng 3800 km từ 45
0
33 xuống
20
0
25 vĩ Bắc, bao gồm bốn hòn đảo lớn là Hokkaido, Honshu, Shikoku,
Kyushu và khoảng 6850 đảo nhỏ khác. Honshu là đảo lớn nhất chiếm 61,1%
tổng diện tích nƣớc Nhật.
Nhật Bản đƣợc chia thành 8 vùng với 47 tỉnh, dƣới đó là các quận, khu,
xã, thôn. Đảo Honshu, Shikoku và Kyushu là ba vùng. Riêng trên đảo
Honshu- hòn đảo lớn nhất, là năm vùng: Tohoku, Kanto, Chubu, Kansai và
Chugoku. Diện tích đất liền của toàn bộ đất nƣớc Nhật Bản vào khoảng
378.000 km
2
gần tƣơng đƣơng với diện tích Phần Lan (338.000 km
2
), gấp 1/5
lần diện tích nƣớc Anh, bằng 1/9 lần diện tích Ấn Độ, 1/25 diện tích nƣớc
Mỹ, chiếm chƣa đầy 0,3% diện tích toàn thế giới và lớn hơn diện tích Việt
Nam (329.465 km
2
) chừng 15%. Thủ đô là Tokyo, là một trong những thành
phố đông dân nhất trên thế giới và cũng là một trong những thành phố sạch sẽ

và an toàn nhất.


Dân số Nhật Bản tính đến ngày 12/10/1999 vào khoảng 126.500.000
ngƣời, đứng hàng thứ 9 trên thế giới. Trong đó 49% dân số sống tập trung ở
ba thành phố Tokyo, Osaka, Nagoya và các thành phố xung quanh đó.
Phần lớn nƣớc Nhật là những ngọn núi cao với thung lũng hẹp ở giữa.
Núi là một trong những cảnh thiên nhiên đẹp nhất Nhật Bản. Dãy Alps Nhật
Bản trên đảo Honshu rất nổi tiếng nhƣng nổi tiếng là Fuji san - có nghĩa là
“Núi rƣợu trƣờng sinh”, ngọn núi cao nhất Nhật Bản (3776 m). 1/10 tổng số
núi lửa trên thế giới nằm ở Nhật Bản. Rừng núi chiếm đến 2/3 diện tích nƣớc
Nhật, các triền núi thƣờng núi thƣờng có độ dốc cao và đƣợc bao bọc bởi cây
cối um tùm. Toàn bộ đƣờng bờ biển và đại dƣơng khiến cho cá trở nên quan
trọng trong bữa ăn cũng nhƣ trong nền kinh tế Nhật Bản. Nhật Bản còn có
những nguồn suối nóng tự nhiên đƣợc sử dụng để tắm dƣỡng sinh và nhiều
sông, hồ đẹp tuyệt vời.
Vì các hòn đảo trải dài nhƣ vậy nên thời tiết biến đổi rất nhiều. Ở miền
Bắc, mùa đông giá lạnh và có tuyết, mùa hè ôn hoà. Còn những đảo ở phía
Nam nhƣ Kyushu, Okinawa ấm áp hơn nhiều. Mùa xuân (haru) bắt đầu vào
tháng 3 khi cây cối ra hoa và ngày thì ấm dần lên. Sau mùa xuân là đến mùa
hè (natsu), kéo dài từ khoảng tháng 5 cho tới đầu tháng 9. Từ tháng 9 đến hết
tháng 11 là mùa thu (aki), trời trở nên khô và mát dịu hơn mặc dù đôi khi vẫn
có mƣa thậm chí còn có cả những trận cuồng phong hoặc những cơn bão lớn.
Vào mùa đông (fuyu), từ cuối tháng 11 đến tháng 2, những trận gió lạnh từ
vùng Xibiri và Mông Cổ thổi tạt ngang qua nƣớc Nhật.
Sự đa dạng về đất đai và khí hậu tạo nên sự phong phú tuyệt vời về thực
vật. Một số loài hoa và cây cối có ý nghĩa quan trọng trong đời sống Nhật
Bản. Hoa anh đào biểu trƣng cho vẻ đẹp chóng lụi tàn, cây thông là biểu trƣng
sự trƣờng thọ còn cây tre tƣợng trƣng cho khả năng vƣợt qua khó khăn và
phát triển mạnh mẽ.



Địa hình phức tạp của Nhật Bản đã tạo nên những cảnh đẹp dễ gây xúc
động- những hồ tuyết trên núi, những hẻm đá và những con sông chảy xiết,
những đỉnh núi gồ ghề và những thác nƣớc thơ mộng. Chúng luôn là nguồn
cảm hứng và thú vị cho cả ngƣời Nhật lẫn các du khách nƣớc ngoài.
Nhật Bản đạt đƣợc bƣớc nhảy vọt về kinh tế thông qua sự phát triển thần
kỳ của ngành công nghiệp kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhật Bản
ngày nay là một trong những quốc gia phát triển và thịnh vƣợng nhất thế giới.
Phong cảnh và truyền thống của Nhật Bản ở từng vùng cũng có sự khác nhau.
Về thắng cảnh lịch sử, phải kể đến các ngôi đền thờ và lâu đài cổ kính ở
Honshu, đặc biệt là khu vực quanh Kyoto và Nara. Cũng có những thắng cảnh
hiện đại nhƣ khu mua bán và giải trí ở Tokyo và Osaka. Những lễ hội đặc biệt
nhƣ ở vùng Sapporo, Yokote và Fukuoka là một phần quan trọng của nền văn
hoá Nhật Bản. Đây là đất nƣớc của cảnh đẹp thiên nhiên và có nền
văn hoá đa dạng.
1.1.1.2. Con người
Nhật Bản là quốc gia thuần nhất cao độ về phƣơng diện sắc tộc. Ngƣời
Nhật chiếm tới 99% dân cƣ. Tiếng Nhật là quốc ngữ, Phật giáo và Khổng giáo
từ lâu đã giữ một vai trò to lớn trong việc hình thành hệ tƣ tƣởng kiến trúc
thƣợng tầng xã hội Nhật Bản. Bản sắc dân tộc cao hơn bản sắc cá nhân, yêu
thiên nhiên, tính kỷ luật cao, ôn hoà, tiết kiệm và năng động trong việc tiếp
thu cái mới. Một điều thật ấn tƣợng là ngƣời Nhật rất sạch sẽ. Bất cứ khi nào
bạn bƣớc vào nhà hàng, nhà tắm hơi hay phòng vệ sinh công cộng bạn đều
đƣợc phục vụ một chiếc khăn ẩm để lau tay.
Ngƣời Nhật có tính độ lƣợng và tôn trọng ngƣời nói chuyện với mình.
Trong khi nói chuyện, họ thƣờng nhìn vào mắt nhau và không ngừng nói


“Hai” có nghĩa là “tôi đang chăm chú lắng nghe bạn nói đây, bạn thân

mến ạ” [46,11].
Ngƣời Nhật rất tôn trọng truyền thống và đƣợc giáo dục rất cẩn thận. Họ
mong muốn giữ gìn nguyên vẹn phép xử thế và các hình thức văn hoá đã
đƣợc thừa hƣởng từ những thế hệ trƣớc. Ngƣời Nhật có thái độ đặc biệt trân
trọng đối với nếp sống đã hình thành cũng nhƣ đối với di sản văn hoá. Tính
truyền thống của ngƣời Nhật có ảnh hƣởng trên nhiều phƣơng diện đối với
sinh hoạt - xã hội - chính trị của nƣớc Nhật.
Ngƣời Nhật thích tất cả những gì cụ thể, có hình ảnh. Ở ngƣời Nhật, tính
cụ thể của tƣ duy gắn liền ở mức độ lớn với những đặc điểm của ngôn ngữ và
văn tự. Ngƣời Nhật có truyền thống sống cùng một gia đình lớn có cả ông bà,
cha mẹ và con cái. Bên cạnh đó, việc tiếp xúc thƣờng xuyên với thiên nhiên
phong phú và đa dạng đã làm cho ngƣời Nhật có thói quen “cảm nhận cái đẹp,
thích thƣởng thức cái đẹp”. Ngƣời Nhật coi giống liễu rủ (Yanaki) là linh mộc
vì nó là giống cây đem lại may mắn và thành đạt gợi đƣợc trong lòng ngƣời
Nhật khoái cảm thẩm mỹ. Ngƣời Nhật cũng quan tâm đến năm sinh, tháng đẻ,
tƣớng số, mặt, chỉ tay để đoán biết tính cách hậu vận và tƣơng lai. Nếu ngƣời
Nhật ở phía Nam (Osaka) thích vui vẻ xã giao rộng, thích thƣơng mại thì
ngƣời phía Bắc lại kín đáo, không thích hỏi về tuổi tác và đời tƣ của
ngƣời khác.
Có thể nói thiên nhiên Nhật Bản đẹp nhƣng thật khắc nghiệt đối với con
ngƣời. Những hòn đảo nghèo nàn này không đƣợc hƣởng thiên thời và địa lợi.
Vậy mà những con ngƣời Nhật Bản nhƣ càng đƣợc tôi luyện thêm trong thiên
nhiên nghiệt ngã, họ đã vƣơn lên một cách quả cảm, trở thành một trong
những dân tộc đứng đầu thế giới về sự phát triển kinh tế, kỹ thuật.


1.1.1.3. Kinh tế – xã hội
Nhật Bản là nƣớc rất nghèo nàn về tài nguyên trong khi dân số thì quá
đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ
trong chiến tranh, nhƣng với các chính sách phù hợp kinh tế Nhật Bản đã

nhanh chóng phục hồi (1945 – 1954), phát triển cao độ (1955 – 1973). Từ
1974 đến nay, tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một
nƣớc có nền kinh tế – công nghiệp – thƣơng mại – tài chính – dịch vụ – khoa
học kỹ thuật đứng thứ hai trên thế giới (sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu ngƣời là
36.217 USD (1999) [13, 27]. Cán cân thƣơng mại dƣ thừa và dự trữ ngoại tệ
đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tƣ ra nƣớc ngoài rất nhiều. Nhật
Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị
tiền tệ là đồng yên Nhật.
Nhật Bản đang xúc tiến 6 chƣơng trình cải cách lớn trong đó có cải
cách cơ cấu kinh tế, giảm thâm hụt ngân sách, cải cách khu vực tài chính và
sắp xếp lại cơ cấu chính phủ. Cải cách hành chính của Nhật đƣợc thực hiện từ
tháng 1 năm 2001. Dù diễn ra chậm chạp nhƣng cải cách đang đi dần vào quỹ
đạo, trở thành xu thế không thể đảo ngƣợc ở Nhật Bản và gần đây đã đem lại
kết quả đáng khích lệ, nền kinh tế Nhật đã phục hồi và có bƣớc tăng trƣởng
năm 2003 đạt trên 3%, quý 1/2004 đạt 4%. [32, 31]
1.1.1.4. Du lịch Nhật Bản
Phong cảnh và truyền thống của Nhật Bản ở từng vùng có sự khác
nhau. Về thắng cảnh lịch sử, phải kể đến các ngôi đền thờ và lâu đài cổ kính ở
Honshu, đặc biệt là khu vực quanh Kyoto và Nara. Cũng có những thắng cảnh
hiện đại nhƣ khu mua bán và giải trí ở Tokyo và Osaka. Những lễ hội đặc biệt
nhƣ ở vùng Sapporo, Yokote và Fukuoka là một phần quan trọng của nền văn


hoá Nhật Bản. Đây là đất nƣớc của cảnh đẹp thiên nhiên và có nền
văn hoá đa dạng.
Một số địa điểm du lịch nổi tiếng ở Nhật Bản nhƣ :
- Lễ hội Tuyết ở Sapporo, Hokkaido.
- Ở Yokote, Akita thuộc miền bắc Nhật Bản, trẻ em đắp những ngôi
nhà bằng tuyết (kamakura) nơi chúng vui chơi với bạn bè trong suốt
lễ hội Kamakura.

- Đền Toshogu ở Nikko, Tochigi, rất nổi tiếng với những bức chạm
gỗ tinh xảo.
- Khu Ginza ở Tokyo – không cho xe cộ qua lại vào ngày Chủ nhật và
các ngày lễ – là một địa điểm đƣợc ngƣời ta rất thích đến để mua
sắm cũng nhƣ dạo chơi.
- Mọi trẻ em Nhật đều mơ ƣớc đƣợc đến thăm khu Disneyland ở
Chiba, Tokyo.
- Tƣợng Đại Phật (Daibutsu) cao 13,35 mét ở Kamakura,Kanagawa,
đƣợc dựng năm 1252.
- Đền Kinkakuji phủ vàng ở Kyoto đƣợc xây dựng lần đầu vào
thế kỷ 14.
- Toà thƣợng điện và chùa ở đền Horyuji tại Nara đƣợc xây dựng từ
thế kỷ thứ 7.
- Đảo Nakanoshima là trung tâm hoạt động kinh doanh ở Osaka.
- Một phần lâu đài Himeji đƣợc xây dựng lần đầu vào thế kỷ 14, gợi
nhớ đến hình ảnh một con diệc trắng nhƣ tuyết.
- Các đụn cát Tottori chỉ là một trong nhiều phong cảnh khác nhau ở
Nhật Bản.
- Công viên tƣởng niệm hoà bình ở Hiroshima là nơi tƣởng niệm
những nạn nhân khi thành phố bị bom nguyên tử phá huỷ năm 1945.


- Lễ hội Hakata Dontaku đƣợc tổ chức từ ngày mùng 3 đến mùng 4
tháng 5 ở Fukuoka trên đảo Kyushu.
- Những vỉa san hô và vùng biển trong xanh quanh các hòn đảo cận
nhiệt đới ở Okinawa.

1.1.2. Vài nét về văn hoá Nhật Bản
Nền văn hoá và các đặc điểm tính cách của mỗi dân tộc đều chịu ảnh
hƣởng của các điều kiện lịch sử, địa lý và khí hậu.

Vị trí địa lý của Nhật Bản có ba đặc điểm lớn là: một quốc đảo có địa
hình nhiều núi non ở Đông Bắc Á (75% là rừng và núi), nằm tƣơng đối tách
biệt với lục địa châu Á và ở ngoại vi của các trung tâm văn minh của thế giới.
Nằm ở vùng khí hậu ôn hoà, Nhật Bản có nhiệt độ tƣơng đối ấm. Lƣợng mƣa
hàng năm từ 1600mm - 1700mm, đặc biệt có mƣa lớn khoảng đầu mùa xuân
và giữa mùa hè. Phía tây nam Nhật Bản là vùng có độ ẩm nhiệt đới, nền nông
nghiệp và cuộc sống có nhiều điểm giống nhƣ phía nam Thái Bình Dƣơng
trong 3 - 4 tháng mùa hè.
Những điều kiện đó dẫn đến một đặc điểm khái quát là Nhật Bản đủ để
xa châu Á để thoát khỏi những ảnh hƣởng của biến đổi của lục địa, nhƣng lại
đủ gần để có thể hƣởng những thành quả của nền văn minh đó. Hơn nữa, với
một cộng đồng dân tộc tƣơng đối thuần nhất, Nhật Bản có khả năng tiếp nhận
ảnh hƣởng văn hoá của nƣớc ngoài để phát triển cho mình nền văn hoá riêng.
Đó là một nền văn hoá mang đậm nét dân tộc với những đặc điểm sau:
*Nhật Bản - một nước có nền văn hoá với tính thuần nhất cao.
Từ hàng ngàn năm trƣớc, các hòn đảo Nhật Bản đã là ngôi nhà chung
của nhiều ngƣời nhập cƣ đến đấy, trải qua nhiều thời đại và từ nhiều nƣớc
khác nhau trên lục địa, và có thể từ những hòn đảo ở phía Nam. Trải qua
nhiều thời đại lịch sử, sự pha trộn đó đã sản sinh ra một dân tộc tƣơng đối


thuần nhất, phân biệt với cả các nƣớc láng giềng nhƣ Trung Quốc, Triều Tiên,
Mông Cổ, cả trong ngôn ngữ, sinh hoạt, tôn giáo, cơ cấu chính trị và xã hội.
Những nét riêng đó đã sớm trở thành bản chất của ngƣời Nhật Bản. Ở Nhật
Bản, điều quan trọng hàng đầu là truyền thống của một cộng đồng hơn là
truyền thống của một cá nhân, và đặc trƣng này đã đóng góp nhiều vào tính
chất đồng nhất của xã hội Nhật Bản.
*Dễ dàng tiếp thu văn hoá nước ngoài
Trong lịch sử đã luôn luôn có những sự gặp gỡ giữa văn hoá Nhật Bản
với các quốc gia văn minh khác nhƣ Trung Quốc và châu Âu. Từ xa xƣa,

ngƣời Nhật đã có sự khát khao đối với các nền văn minh khác và trong lịch sử
tiến hoá của mình, ngƣời Nhật hoan nghênh các yếu tố văn hoá nƣớc ngoài
mà không gạt bỏ các tập tục và truyền thống đã có. Có thể nói, nhân dân Nhật
Bản đã hấp thụ có chọn lọc nhiều phát kiến văn hoá của các nền văn minh lớn
trên thế giới. Sự dễ dàng tiếp thu văn hoá nƣớc ngoài là một truyền thống của
Nhật Bản đã có từ lâu đời. Đó là truyền thống không đóng cửa, không bảo
thủ, không cực đoan nhƣng cũng không đánh mất cốt cách của dân tộc mình.
*Tình yêu thiên nhiên
Thiên nhiên luôn luôn là ngƣời bạn gần gũi và quen thuộc đối với ngƣời
Nhật. Mặc dù họ từng dạy học sinh từ cấp tiểu học rằng: “Thiên nhiên không
dành cho nước ta những ưu đãi. Tất cả tương lai là ở trong tay các bạn” [7,
40] nhƣng họ không coi thiên nhiên là một lực lƣợng đối lập tàn khốc. Quan
niệm hoà vào thiên nhiên này là phù hợp với cách nhìn của những ngƣời dân
sống trên một quốc đảo có khí hậu ôn hoà và đầy mƣa. Tinh thần hoà hợp với
thiên nhiên nằm trong bản chất của ngƣời Nhật, đi vào triết học và tôn giáo
của họ, trong cảm xúc và sự thƣởng thức thiên nhiên của họ. Thiên nhiên
cũng chiếm một vị trí lớn trong văn học và hội hoạ Nhật Bản.


*Thích những cái gì đơn giản, nhỏ nhắn, tinh tế và khéo léo hơn là
những thứ to lớn, lộng lẫy và hiển nhiên.
Một trong những phong cách thẩm mỹ của nghệ thuật Nhật Bản là sự tế
nhị, đơn giản và gián tiếp. Sự tế nhị hàm ý không thật hiển nhiên và đòi hỏi
nghiên cứu kỹ những gì đáng trân trọng.
Công viên của Nhật đƣợc thiết kế sao cho giống tự nhiên và không đƣa
vào đó những dáng vẻ nhân tạo. Đó là một điều khác với phƣơng Tây. Ở Nhật
Bản, không chỉ trong cảnh quan kiến trúc mà trong các hình thức nghệ thuật
khác, tính tự nhiên hết sức đƣợc coi trọng và đánh giá cao.
Trà đạo Nhật Bản có truyền thống hàng thế kỷ là một thứ nghệ thuật,
đồng thời là một trò tiêu khiển có tính thẩm mỹ. Tinh thần cơ bản của việc

thƣởng thức trà là hài hoà, tôn kính, tinh khiết và trong trẻo.
Bonsai là nghệ thuật trồng cây trong chậu nhỏ. Nó tạo ra những cây cảnh
đẹp tự nhiên và cho ta sự thƣởng thức thiên nhiên trong hình ảnh thu nhỏ lại.
*Sự thờ cúng tổ tiên
Đạo Phật, đạo Shinto (thờ cúng tổ tiên và thánh thần), đạo Khổng, đạo
Thiên Chúa là những tôn giáo lớn ở Nhật. Có một sự trộn lẫn của cả bốn thứ
tôn giáo đó trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân, nhƣng sự thờ cúng tổ
tiên có ảnh hƣởng to lớn nhất. Xã hội Nhật Bản tạo đủ điều kiện chấp nhận đa
tôn giáo, dù có nguồn gốc trong nƣớc hay ngoài nƣớc, trong khi truyền thống
lâu đời của họ là một đất nƣớc của những gia đình và những cộng đồng.
*Bên cạnh đó, sự bền bỉ, kiên trì cũng là một tính cách của người Nhật.
Đó cũng là một dạng khác của sự tinh tế, khéo léo, ƣa nhỏ nhắn và cụ thể
của họ. Trƣớc bất kỳ sự kiện nào, dù trong lĩnh vực nào, họ không vội vã,
không nhiều lời, không bàn đến những cái quá xa và viển vông. Họ bình tĩnh,
xem xét từng điều kiện cụ thể, chia việc lớn ra thành nhiều việc nhỏ, giải
quyết xong cái trƣớc sẽ đến cái sau, cứ thế mà đi đến đích.


“Nếu phải thử định rõ tính cách văn hoá Nhật Bản chỉ bằng vài từ thôi,
ta có thể nói là nó bộc lộ sự ưa thích cái duyên dáng tế nhị bên trong được
hiểu như là sự đối lập với cái tráng lệ bên ngoài”. [24, 17]
Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia đều nằm ở châu Á - Thái Bình
Dƣơng. Hai nƣớc không chỉ gần nhau về mặt địa lý mà còn có nhiều điểm
tƣơng đồng và có quan hệ lâu đời về kinh tế, văn hoá.
Có thể nói Việt Nam và Nhật Bản còn có nhiều tiềm năng để có thể mở
rộng hơn nữa hợp tác văn hoá và cả hai bên đều tỏ rõ sự quan tâm thúc đẩy.
Mọi sự hợp tác đều phải dựa trên sự hiểu biết lẫn nhau. Hiện nay ở Nhật Bản
đã có một Hội nghiên cứu Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Còn ở Việt Nam,
cũng đã hình thành Hội đồng phối hợp nghiên cứu Nhật Bản. Đây là một
trong những tác nhân quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác nói chung, quá

trình giao lƣu văn hoá nói riêng. Hơn nữa, trong bối cảnh quan hệ kinh tế
Nhật - Việt đã đạt đƣợc những thành công nhất định, đây chính là thời điểm
chúng ta phải nâng cao hiểu biết về Nhật Bản, phải có kế hoạch đào tạo
chuyên gia trong lĩnh vực này. Hy vọng đến một thời điểm nào đó ngƣời Việt
Nam sẽ quen với âm nhạc Gagaku (âm nhạc cung đình xa xƣa), biết thế nào là
Bunraku, là Kabuki, Buto đồng thời ngƣời Nhật Bản cũng có thể phân biệt
đâu là chèo, tuồng, ca trù và đặc biệt là nhã nhạc cung đình Huế
của Việt Nam.

1.2. Ngƣời Nhật Bản trong cộng đồng
1.2.1. Đặc điểm tâm lý xã hội của ngƣời Nhật
1.2.1.1. Tính cách
- Đặc điểm chung:
Ngƣời Nhật rất yêu lao động và nhiệt tình trong mọi lĩnh vực hoạt động,
lao động là đặc điểm quan trọng nhất trong tính cách dân tộc Nhật.


Yêu thiên nhiên: tình gắn bó với thiên nhiên của ngƣời Nhật Bản có sắc
thái tín ngƣỡng và tôn giáo trong tiềm thức dân gian. Đối với ngƣời Nhật, mỗi
loại cây và hoa đều có ý nghĩa tƣợng trƣng. Thông, tre và mận biểu tƣợng tuổi
thọ, sự lâu bền. Hoa cúc nở muộn và lâu tàn thƣờng dùng để mừng thọ và
cũng là hoa biểu tƣợng của hoàng gia. Tre từ xƣa vốn đƣợc nhân dân tôn kính,
đƣợc coi là nơi có thần ở. Tre và măng đƣợc thờ ở các đền Thần đạo. Đi ngắm
hoa, ngắm cảnh thiên nhiên là một phong tục đẹp của ngƣời dân Nhật Bản.
Tính cách dân tộc Nhật còn đƣợc thể hiện ở sự thông minh, cần cù, khôn
ngoan. Bản sắc cộng đồng cao hơn bản sắc cá nhân. Trong tính cách của
ngƣời Nhật, những yếu tố tƣơng phản, đối lập hiện lên một cách rõ rệt, sắc
nét, quyết liệt: “Người Nhật có thể thưởng thức cái đẹp mong manh của hoa
anh đào và cái ánh thép lạnh người của một thanh bảo kiếm” [24, 116].
Tâm tính của ngƣời Nhật còn đƣợc thể hiện qua lối sống truyền thống

của cƣ dân. Uống trà là cả một nghệ thuật, một nghi lễ, đƣợc gọi là “trà đạo”.
Cùng với trà đạo, uống rƣợu sakê cũng là một phong tục truyền thống của
ngƣời Nhật, đòi hỏi những nghi lễ riêng. Bên cạnh đó ngƣời Nhật còn có óc
thẩm mỹ rất phát triển điều này đƣợc thể hiện rõ qua kiến trúc nhà và vƣờn.
- Đặc điểm hành vi của nhóm người
Ngƣời Nhật có tính kỷ luật cao. Trong quan hệ giữa các cá nhân của
ngƣời Nhật, tính kỷ luật biểu hiện nhƣ là sự mong muốn đạt tới tính điều
chỉnh. Đặc điểm này của họ đòi hỏi phải nghiêm chỉnh tuân theo một trật tự
đã đƣợc qui định. Bên cạnh tính kỷ luật, ngƣời Nhật còn trung thành với nhân
vật có uy quyền, chu toàn bổn phận với nhóm. Ngay từ nhỏ, ngƣời Nhật đã có
thói quen đặt “cái tôi” của mình dƣới lợi ích của nhóm. Ngƣời Nhật đƣợc giáo
dục ý thức phụ thuộc vào gia đình. Những cái cúi chào đầu tiên mà ngƣời trên
dạy cho đứa bé Nhật giúp cho nó có khái niệm sự phụ thuộc về vị trí của nó
trong nhóm. Ý nghĩa đạo đức Khổng giáo mà ngƣời Nhật lĩnh hội đƣợc thể


hiện qua câu châm ngôn: “Quan hệ giữa người trên và người dưới cũng như
quan hệ giữa gió và ngọn cỏ: cỏ phải rạp xuống khi gió thổi” [46, 58 -59].
- Đặc điểm trong cuộc sống thường ngày
Lịch sự, chu đáo, nhẫn nại, tằn tiện, ham học hỏi đó là tính cách trong
cuộc sống thƣờng ngày của ngƣời Nhật.
Có thể nói, lịch sự là một trong những chuẩn tắc quan trọng nhất của
cuộc sống thƣờng ngày trong tính cách dân tộc của ngƣời Nhật. Bất kỳ lời
nói, cử chỉ, hành vi nào của ngƣời Nhật, kể cả sự thúc giục, cũng đều mang
dấu ấn lịch sự. Trƣớc khi cầm một vật gì đó lên tay, ngƣời Nhật xin lỗi và xin
phép chủ nhân. Ăn nói lịch sự là thuộc tính bất di bất dịch của sự giao tiếp ở
Nhật Bản. Trên đƣờng phố, trong công viên và ở các nơi công cộng có thể bắt
gặp những tấm bảng nhỏ kêu gọi mọi ngƣời giữ phép lịch sự: “Con người
chẳng phải lệ thuộc một cái gì khác, ngoài điều tốt và phép lịch sự” [46, 63].
Nhiều ngƣời lần đầu tiên đến thăm Nhật Bản đều ngạc nhiên trƣớc sự

sắp xếp nhà cửa, cách ăn mặc và sự bài trí trong phòng. Tất cả đều mang dấu
ấn nghiêm túc và trật tự. Khắp nơi đều sạch sẽ lạ thƣờng. Tính cẩn thận và
tính ƣa sach sẽ kết hợp với tính tằn tiện là cơ sở để có đƣợc những kỹ xảo nổi
tiếng trong thực tiễn sản xuất của ngƣời Nhật - những kỹ xảo cho phép họ tạo
ra các sản phẩm với độ chính xác và hoàn hảo đáng kinh ngạc, khiến nhiều
hãng nƣớc ngoài phải ghen tị. Ở đây còn phải kể đến tính ham học hỏi của
ngƣời Nhật. Ngƣời Nhật đƣợc dạy cách nhận thức bản chất của sự việc mà
không cần đến trừu tƣợng hoá, vì thế nên sự ham học hỏi của ngƣời Nhật
cũng mang tính cụ thể. Có thể điều này có liên quan trực tiếp đến những đặc
điểm trong ý nguyện sáng tạo của họ.

1.2.1.2. Phong tục tập quán


Do điều kiện tự nhiên và xã hội, những phong tục tập quán đã định hình
trong các cộng đồng. Phong tục tập quán là những qui ƣớc sinh hoạt phần lớn
không thành văn đƣợc cả cộng đồng tuân thủ. Nó khá bền vững trƣớc thời
gian và làm nên dấu hiệu sinh hoạt có tính đặc thù của từng dân tộc. Phong
tục tập quán của địa phƣơng, của sắc tộc cũng là một nhu cầu tâm lý, một nét
tâm lý. Nắm đƣợc phong tục tập quán của một địa phƣơng thì sẽ dễ nhập
cuộc, dễ hoà đồng, tránh đƣợc những phản ứng tiêu cực trong tâm lý ngƣời
bản địa. Ví dụ: đến nhà ngƣời Nhật tuyệt nhiên không đƣợc đi thẳng vào
phòng khi chƣa để giày dép và áo khoác ở ngoài, đến phòng ngƣời châu Âu
muốn vào nhất thiết phải gõ cửa xin phép, sang đất Campuchia phải chắp tay
trƣớc ngực chào chứ không chìa tay ra bắt.
Nƣớc Nhật là một tấm gƣơng phản ánh sự thần kỳ về một tinh thần nỗ
lực vô bờ bến hƣớng về tƣơng lai của một đất nƣớc đang trong cảnh lạc hậu,
nghèo nàn.
- Trong cuộc sống thƣờng nhật ngƣời Nhật lịch lãm, gia giáo, chu tất,
kiên trì, căn cơ, ham học hỏi. Nguyên tắc sống của họ là “Biết được chỗ cần

dừng tất sẽ tránh khỏi hiểm nguy, thấu hiểu được thân phận mình tất khỏi bị
sỉ nhục” [9,156]. Và vì thế ngƣời Nhật có tính tự chủ rất cao, điềm
tĩnh và ôn hoà.
- Chúng ta đã quen cho rằng nụ cƣời xuất hiện trên gƣơng mặt khi ngƣời
ta đang có điều gì đó dễ chịu và tiếng cƣời rộn rã vang lên khi ngƣời ta bắt
gặp một niềm vui bất ngờ, hoặc tâm trạng đầy phấn khích. Đối với ngƣời
Nhật thì lại không phải thế. Nụ cƣời hay tiếng cƣời ngƣời Nhật có nhiều ý
nghĩa khác nhau - đó có thể là dấu ấn thân thiện, lại cũng có thể là biểu hiện
lạnh lùng, kín đáo, là sự bộc lộ cảm xúc một cách cởi mở và đồng thời cũng là
dấu hiệu lúng túng trong một tình huống khó xử. Nụ cƣời của ngƣời Nhật có
thể có ý nghĩa “tôi hiểu” hoặc “tôi không hiểu”. Không có gì đáng ngạc nhiên,


một trong những nụ cƣời phổ biến nhất là nụ cƣời “bí ẩn”. Và ngƣời Nhật sợ
nhất khi bị mất mặt, mất thể diện, tai tiếng.
- Trong giao tiếp với ngƣời Nhật họ tìm cách lẩn tránh các từ “không”,
“tôi không biết”, “tôi không thể”. Ngƣời Nhật thƣờng diễn đạt vòng vèo, bóng
gió, trở thành tập quán nói vòng vèo đƣợc rèn luyện từ đời này sang đời khác.
Để tránh tự ái và mất thể diện cho đối tƣợng giao tiếp, trong kinh doanh tập
quán này cũng đƣợc áp dụng.
- Ngƣời Nhật rất mực lễ phép và tôn trọng nghi thức. Khi mới gặp
khách, việc trao đổi danh thiếp và đọc một cách tỉ mỉ là điều không thể xem
thƣờng. Không nên nhìn lƣớt qua rồi cất ngay vào túi.
- Với ngƣời Nhật cách chào hỏi truyền thống là cúi đầu càng thấp thì thể
hiện tình cảm càng nhiều, sự lễ phép và tôn kính càng cao. Cách cúi chào thể
hiện sự giao tiếp có văn hoá của ngƣời Nhật Bản. Đa số ngƣời Nhật chấp
nhận việc cúi chào, nhìn xuống hoặc nhìn sang bên, còn không chấp nhận cái
nhìn trực diện, chăm chú. Ngƣời Nhật rất đỗi ngạc nhiên nếu một ngƣời nƣớc
ngoài mà hỷ mũi vào khăn vừa “nhìn chòng chọc” vào họ. Ngƣời nào, trong
lúc trò chuyện cứ tò mò nhìn thẳng vào ngƣời khác bị ngƣời Nhật xem là bất

lịch sự.
- Khi ngƣời Nhật trò chuyện với nhau, họ thƣờng tìm một vật trung gian
nào đó để nhìn. Đó có thể là một cuốn sách, một đồ trang sức, một lọ hoa.
- Ngƣời Nhật tiếp thu phong tục quốc gia khác rất nhanh. Họ thích học
tiếng nƣớc họ tới du lịch. Họ hài lòng khi chủ nhà thể hiện sự giao tiếp bằng
tiếng Nhật. Khi trở lại, họ sẽ chọn nơi họ đã ở lần trƣớc nếu nhƣ họ đã đƣợc
vui lòng.
- Phụ nữ Nhật rất sung sƣớng khi bạn tặng họ lời khen là “Mỹ nhân
tuổi tỵ”.


- Ngƣời Nhật rất tin vào tƣớng số, ngƣời dân rất kiêng kị con số 4. Trong
các khách sạn, cầu thang máy, bệnh viện, trƣờng học số phòng đều có sự
nhảy cóc bỏ qua con số 4. Lý do thật đơn giản, trong tiếng Nhật “shi” có
nghĩa là số 4 và cũng có nghĩa là chết. Ngƣợc lại, ngƣời Nhật rất thích những
số lẻ nhƣ 1, 3, 5, 7, 9. Đi du lịch ngƣời ta thích chọn toa lẻ của tàu, số ghế lẻ
và buồng khách sạn lẻ. Đặc biệt tặng hoa, hoặc quà cho ngƣời thân, ngƣời ta
cũng thích tặng theo số lẻ.
- Nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) thƣờng kết hợp cái đẹp với cái khắc khổ,
gợi ra cảnh sông núi bao la với một ít nƣớc và một cành hoa. Dân tộc nào
cũng có tục cắm hoa nhƣng ở Nhật hoa cắm trong bình phải có một phong
cách, một cách sắp xếp đƣợc qui định. Cắm hoa cũng là một nghệ thuật phải
dày công học tập. Ngày nay, ở Nhật Bản có từ 300 đến 400 trƣờng phái cắm
hoa khác nhau.
- Ngƣời Nhật rất thích hoa anh đào “Sakura”. Đây là nét thẩm mỹ rất tự
hào của ngƣời Nhật: “những gì đẹp trong thiên nhiên cũng như trong cuộc
đời thường hiếm khi tồn tại lâu. Chính sự tàn phai sớm cũng là nét đẹp vì nỗi
luyến tiếc về những cuộc đời đã tắt lụi đúng ở đỉnh cao rực rỡ của nó chính là
cái cao đẹp nhất” [20, 56]. Hoa anh đào còn là biểu tƣợng của tinh thần tập
thể, với sức sống tràn đầy. Mỗi năm một lần, ngƣời Nhật có thú vui cùng

nhau đi ngắm hoa (Hanami). Họ dành trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc vui
chơi ngắm hoa thoải mái. Ngắm hoa có thể mang lại sự sảng khoái về tinh
thần và tâm lý. Vào dịp hoa nở, nếu một ngƣời nào đó đang gặp chuyện buồn,
gia đình và bạn bè sẽ rủ họ đi chơi ngắm hoa, coi đó là phƣơng cách làm dịu
nỗi đau tinh thần của họ. Dƣới gốc hoa anh đào, họ uống rƣợu, hát hò, nhảy
múa và quên đi những gì buồn đau của riêng mình. Hoa cúc cũng đƣợc ngƣời
Nhật ƣa thích và họ quan niệm rằng nó là biểu tƣợng cho tình cảm thắm thiết,
tri kỷ và tôn trọng.

×