ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ THANH PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH LỄ HỘI
CỦA NGƢỜI KHMER TỈNH SÓC TRĂNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Hà Nội, 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ THANH PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH LỄ HỘI
CỦA NGƢỜI KHMER TỈNH SÓC TRĂNG
Chuyên ngành: Du lịch
(Chương trình đào tạo thí điểm)
LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Phạm Hùng
Hà Nội, 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 8
1. Lý do chọn đề tài 8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 9
3. Mục đích nghiên cứu 13
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 14
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 15
6. Bố cục luận văn 15
7. Đóng góp mới của luận văn 16
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI 18
1.1. Những vấn đề lý luận về du lịch lễ hội 18
1.1.1. Lễ hội 18
1.1.1.1. Khái niệm lễ hội 18
1.1.1.2. Đặc trưng của lễ hội 20
1.1.1.3. Ý nghĩa của lễ hội 21
1.1.2. Du lịch lễ hội 22
1.1.2.1. Khái niệm du lịch 22
1.1.2.2. Du lịch lễ hội 24
1.1.3. Vai trò của lễ hội trong phát triển du lịch văn hóa 25
1.1.4. Các nguyên tắc khai thác và phát triển du lịch lễ hội 26
1.2. Những lĩnh vực nghiên cứu du lịch lễ hội 27
1.2.1. Vấn đề cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch lễ hội 27
1.2.2. Vấn đề sản phẩm du lịch lễ hội và việc xây dựng sản phẩm du lịch
đặc thù 28
1.2.3. Vấn đề thị trường và khách du lịch lễ hội 29
1.2.4. Vấn đề tổ chức, quản lý du lịch lễ hội 30
1.2.5. Vấn đề nhân lực trong du lịch lễ hội 31
1.2.6. Vấn đề tuyên truyền, quảng cáo du lịch lễ hội 31
1.2.7. Vấn đề bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch lễ hội 32
1.2.8. Du lịch lễ hội và điểm đến du lịch 34
1.3. Những bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, phát triển du lịch lễ hội 34
1.3.1. Một số kinh nghiệm phát triển du lịch lễ hội ở Việt Nam 34
1.3.2. Những bài học kinh nghiệm trong phát triển du lịch lễ hội ở các
nước phát triển 39
Tiểu kết 44
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH LỄ HỘI CỦA
NGƢỜI KHMER TỈNH SÓC TRĂNG 46
2.1. Giới thiệu khái quát về tỉnh Sóc Trăng và lễ hội của người Khmer 46
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của tỉnh Sóc Trăng 46
2.1.2. Đặc điểm lịch sử, xã hội của tỉnh Sóc Trăng 48
2.1.2.1. Lịch sử hình thành vùng đất Sóc Trăng 48
2.1.2.2. Đặc điểm kinh tế – xã hội tỉnh Sóc Trăng 50
2.1.3. Người Khmer tỉnh Sóc Trăng 51
2.1.3.1. Lịch sử hình thành tộc người Khmer 51
2.1.3.2 Vài nét về văn hóa của người Khmer tỉnh Sóc Trăng 55
2.1.3.3 Thống kê, phân loại lễ hội của người Khmer 56
2.2. Tìm hiểu thực trạng hoạt động du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc
Trăng 59
2.2.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch lễ hội 59
2.2.2. Sản phẩm du lịch lễ hội 61
2.2.2.1. Thưởng thức các nghi lễ trong lễ hội 61
2.2.2.2. Các sản phẩm du lịch được tạo ra ở phần hội 62
2.2.2.3. Không gian văn hóa của sản phẩm du lịch lễ hội 66
2.2.2.4. Một số sản phẩm du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc
Trăng 69
2.2.3. Thị trường và khách du lịch lễ hội 79
2.2.3.1. Khái quát chung về thị trường khách du lịch tỉnh Sóc Trăng 79
2.2.3.2. Thị trường và khách du lịch lễ hội 80
2.2.4. Nhân lực trong du lịch lễ hội 80
2.2.5. Tuyên truyền, quảng bá du lịch lễ hội 81
2.2.6. Tổ chức, quản lý du lịch lễ hội 83
2.2.7. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch lễ hội 86
2.3. Những hạn chế, yếu kém trong hoạt động du lịch lễ hội của người Khmer
tỉnh Sóc Trăng 88
Tiểu kết 93
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN DU LỊCH
LỄ HỘI CỦA NGƢỜI KHMER TỈNH SÓC TRĂNG 95
3.1. Căn cứ khoa học để đề xuất giải pháp 95
3.1.1. Chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam 95
3.1.2. Chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Sóc Trăng 96
3.1.3.Một số căn cứ khác 97
3.2. Những giải pháp cụ thể phát triển du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh
Sóc Trăng 98
3.2.1. Giải pháp về phát triển cơ sở vật chất du lịch lễ hội của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng 98
3.2.2. Giải pháp về sản phẩm du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc
Trăng 101
3.2.3. Giải pháp về thị trường và khách du lịch lễ hội của người Khmer
ở Sóc Trăng 103
3.2.4. Giải pháp về nhân lực du lịch lễ hội của người Khmer Sóc Trăng104
3.2.5.Giải pháp về xúc tiến, quảng bá sản phẩm du lịch lễ hội của
người Khmer ở Sóc Trăng 106
3.2.6. Giải pháp về bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch lễ hội của
người Khmer ở Sóc Trăng 107
3.2.7. Giải pháp về tổ chức, quản lý du lịch lễ hội của người Khmer ở
Sóc Trăng 109
3.3. Kiến nghị 111
Tiểu kết 114
KẾT LUẬN 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
ASEAN
Associaton of Southeast Asia Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
2
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
3
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
4
NĐ-CP
Nghị định Chính Phủ
5
Nxb
Nhà xuất bản
6
TCN
Trước công nguyên
7
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
8
UBND
Ủy ban nhân dân
9
UNESCO
United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc
10
USD
United States Dollars
Đô la Mỹ
11
WTO
World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Du lịch là ngành công nghiệp không khói, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội
vô cùng to lớn cho nhiều nước trên thế giới cũng như trong khu vực Châu Á. Vì
vậy, phát triển du lịch vừa tạo điều kiện phát triển kinh tế vừa góp phần giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa bản địa. Đây cũng là cơ hội để giao lưu, trao đổi và tiếp
thu tinh hoa văn hóa các dân tộc của các vùng miền trong và ngoài nước.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập, giao lưu và phát triển có nhiều nước trên thế
giới đã thành công trong phát triển du lịch lễ hội. Đối với Việt Nam, du lịch lễ hội
đang được ví như “mỏ vàng” bị bỏ hoang. Bởi lẽ, Việt Nam có 54 dân tộc anh em
tạo nên bức tranh văn hóa đa màu sắc vô cùng phong phú và hấp dẫn. Mỗi dân tộc,
mỗi vùng, miền đều có những lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của từng dân tộc.
Nhưng thực tế, du lịch lễ hội ở nước ta nói chung và ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng
chưa tạo được điểm nhấn để thu hút du khách, nhất là đối với khách quốc tế.
Với sự phong phú, đa dạng của hệ thống lễ hội tại Việt Nam, lễ hội được
nhìn nhận như một “bảo tàng sống” về phong tục tập quán và đời sống của cư dân
văn hóa bản địa. Lễ hội truyền thống dân gian của các tộc người ở Việt Nam là một
“tài nguyên du lịch lễ hội” vô cùng quý giá đối với sự phát triển du lịch. Đồng bằng
sông Cửu Long là nơi có nhiều hoạt động lễ hội diễn ra trong năm, với các loại hình
lễ hội như lễ hội lịch sử, lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội dân gian đặc trưng của
mỗi dân tộc. Các lễ hội đặc sắc nhất của ĐBSCL tập trung tại Sóc Trăng, An Giang,
Trà Vinh, Kiên Giang và Bến Tre.
Với nét đặc trưng rất riêng, tỉnh Sóc Trăng là nơi có nhiều tộc người cùng
sinh sống, ngoài người Kinh còn có người Hoa, Chăm, Khmer… tạo nên nền văn hóa
phong phú, hình thành một tiềm năng du lịch hấp dẫn thu hút nhiều du khách đến
tham quan và chiêm ngưỡng. Điểm đặc biệt của tỉnh Sóc Trăng là nơi có đông đồng
bào Khmer sinh sống nhất cả nước và lễ hội của người Khmer diễn ra hầu như
quanh năm. Trong đó, các lễ hội như Chol Chnam Thmay, Đôn-ta, Ooc Om Boc, lễ
hội Thác Côn, lễ Nhập Hạ, lễ Xuất Hạ,… là nét sinh hoạt văn hoá, thể thao độc đáo
và đặc sắc của đồng bào dân tộc Khmer. Hàng năm, Sóc Trăng thu hút rất đông du
khách từ mọi miền đất nước đến tham quan du lịch. Tuy nhiên, vấn đề phát triển du
lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng vẫn chưa được quy hoạch và quan tâm
đầu tư đúng mức để lễ hội của người Khmer thực sự là “điểm sáng”, điểm du lịch
văn hóa đặc trưng ở ĐBSCL. Do vậy, vấn đề phát triển du lịch lễ hội của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng là một vấn đề cần thiết và cấp bách nhằm đưa du lịch tỉnh
nhà thoát khỏi sự trùng lắp, đơn điệu của sản phẩm du lịch tại các tỉnh ĐBSCL.
Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch lễ hội của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Hơn thế nữa, từ nhỏ tôi đã được sống gần phum, sóc của người Khmer và có nhiều
bạn bè là người Khmer nên phần nào hiểu được phong tục tập quán và lễ hội của
người Khmer, nhận diện được nét đặc sắc trong lễ hội truyền thống của người
Khmer càng thôi thúc tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này. Đề tài được thực hiện với
mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé vào sự phát triển du lịch lễ hội của
người Khmer tỉnh Sóc Trăng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về lễ hội, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về lễ hội nói chung
và lễ hội cụ thể ở một số địa phương. Các công trình nghiên cứu đã được công bố
như:
- Tác giả Đinh Gia Khánh và Lê Hữu Tầng đã công bố quyển Lễ hội truyền
thống trong đời sống xã hội hiện đại, năm 1994. Công trình này bao gồm 34 bài
phát biểu, báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học quốc tế khái quát sinh hoạt lễ hội
ở một số nước, một số vùng văn hóa Việt Nam và vai trò của lễ hội truyền thống
trong xã hội hiện đại.
- Tác giả Hoàng Thanh Minh có quyển Văn hoá lễ hội Việt Nam, với tập 3
là Lễ hội truyền thống tại miền Nam, xuất bản năm 2010. Quyển sách đã giới thiệu
một số lễ hội truyền thống ở miền nam tiêu biểu như vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, các
lễ hội, lễ hội đua ghe truyền thống, ca hát cải lương
- Tác giả Nguyễn Sơn Anh có quyển Lễ hội cầu phúc cầu lành ở Việt Nam,
năm 2009 đã chọn một số lễ hội tiêu biểu ở địa phương, phân ra từng loại lễ hội,
giới thiệu đầy đủ về nguồn gốc và loại hình của lễ hội như lễ hội nông nghiệp, lễ
hội thờ cúng thiên nhiên và thần, lễ hội tưởng niệm các anh hùng dựng nước và giữ
nước, hội chùa chiền thăm cảnh thiên nhiên.
- Tác giả Lê Ngọc Canh năm 1999 có quyển Văn hóa dân gian Việt Nam –
những thành tố đề cập đến ý nghĩa và đặc trưng của lễ hội dân gian Việt Nam.
Trong đó, tác giả đã miêu tả khá tỷ mỷ về những thành tố văn hoá dân gian Việt
Nam, giới thiệu những vấn đề lý luận về thành tố văn hoá dân gian với nhiều dẫn
chứng tư liệu quý giá của một số tộc người ở Việt Nam.
Về văn hóa Khmer và lễ hội của người Khmer, đã và đang thu hút sự quan
tâm của nhiều cơ quan nghiên cứu cũng như các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau. Một số công trình nghiên cứu về văn hóa của người Khmer tiêu biểu
như:
- Tác giả Phan An có quyển Dân tộc Khmer Nam Bộ được Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2009. Quyển sách này đề cập khá sâu sắc
về lịch sử, thực trạng đời sống kinh tế - xã hội, bản sắc văn hóa tộc người của cộng
đồng cư dân Khmer tại ĐBSCL. Nội dung quyển sách tập trung giới thiệu về điều
kiện địa lý, dân cư, đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là những sinh hoạt văn hóa
giàu bản sắc của dân tộc Khmer trong đại gia đình 54 dân tộc anh em cùng sinh
sống ở Việt Nam.
Tiến Sĩ Trần Văn Ánh (Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh)
có công trình nghiên cứu Văn hóa phum sóc của người Khmer Tây Nam Bộ và
vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Công trình nghiên cứu này tập trung
giới thiệu những giá trị văn hóa phum sóc Khmer nhằm giữ gìn, bảo tồn, kế thừa và
phát huy hết những giá trị của nó trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngoài ra, công trình nghiên cứu về phum, sóc của người Khmer còn có tác
phẩm Phum sóc Khmer ở ĐBSCL của tác giả Nguyễn Khắc Cảnh, năm 1988. Tác
phẩm này trình bày khá toàn diện và có hệ thống về phum, sóc của người Khmer.
Nội dung chính của tác phẩm được thể hiện trên một số khía cạnh như quan hệ
huyết thống và quan hệ hôn nhân, gia đình trong phum, các nghi lễ sinh hoạt cộng
đồng và ý thức cộng đồng trong phum sóc của người Khmer. Thông qua tác phẩm,
người đọc sẽ có một cái nhìn bao quát, toàn diện và đầy đủ về hình thái tổ chức xã
hội truyền thống, cùng sự phát triển xã hội của người Khmer ở ĐBSCL.
Tác giả Trần Văn Bổn là một người có nhiều năm nghiên cứu về văn hóa
Khmer với một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như Phong tục và nghi lễ vòng
đời người Khmer Nam Bộ được nxb Đại học quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2002,
Một số lễ tục dân gian người Khmer ĐBSCL vào năm 1999. Trần Văn Bổn với vai
trò là hội viên hội Văn học Nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam đã có nhiều
công trình nghiên cứu về văn hóa Khmer phản ánh một cách sâu sắc, toàn diện về
phong tục, lễ nghi, bản sắc văn hóa của người Khmer vùng ĐBSCL. Quyển Một số
lễ tục dân gian người Khmer ĐBSCL được tiếp cận nghiên cứu dưới hình thức giới
thiệu về nguồn gốc, xuất xứ của tục hội thông qua truyền thuyết, truyện cổ tích của
người Khmer. Đây là một cách tiếp cận nghiên cứu về văn hóa Khmer rất đặc trưng,
mang phong cách riêng của tác giả.
Năm 1999, tác giả Sơn Phước Hoan có công trình nghiên cứu Các lễ hội
truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ (Song ngữ). Công trình này chủ yếu
khái quát về lễ hội truyền thống của dân tộc Khmer trên cơ sở các lễ hội được tác
giả sưu tầm. Vào những năm 1999 - 2000, Sơn Phước Hoan có công trình nghiên
cứu cho cơ quan đặc trách công tác dân tộc ở Nam Bộ về Vai trò của chùa đối với
đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ. Công trình này đã được Ủy ban
Dân tộc và Miền núi có quyết định phê duyệt năm 1999. Nội dung chủ yếu nghiên
cứu về Phật giáo trong đời sống tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ và vai trò
của chùa đối với đời sống văn hóa của đồng bào Khmer Nam Bộ.
Bên cạnh đó, có rất nhiều công trình nghiên cứu khác về người Khmer, về
văn hóa của người Khmer như tác giả Trường Lưu với tác phẩm Văn hóa người
Khmer vùng ĐBSCL, Đoàn Thanh Nô có quyển Người Khmer ở Kiên Giang,
Huỳnh Ngọc Trảng có tác phẩm Người Khmer tỉnh Cửu Long; và một số công
trình nghiên cứu của Viện văn hóa như Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam
Bộ, Văn hóa người Khmer vùng ĐBSCL,…
Ngoài ra, từ trước đến nay có nhiều nghiên cứu về Sóc Trăng như công trình
nghiên cứu Vấn đề dân tộc học và tôn giáo ở Sóc Trăng do Trần Hồng Liên chủ
biên năm 2002, nghiên cứu chủ yếu về hiện trạng vấn đề dân tộc, tôn giáo của
người Kinh, người Khmer và người Hoa ở Sóc Trăng. Về văn hóa Khmer ở Sóc
Trăng, Viện nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Đại học Cần Thơ có đề tài nghiên cứu
Tác động của phong tục tập quán đến phát triển kinh tế - xã hội cộng đồng người
Khmer tỉnh Sóc Trăng do TS.Trần Thanh Bé chủ biên năm 2007. Một số nghiên
cứu về du lịch Sóc Trăng gần đây nhất được thể hiện trong kỷ yếu hội thảo Nâng
cao chất lượng quảng bá, xúc tiến du lịch và các dịch vụ phục vụ khách du lịch
đến Sóc Trăng được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng tổ chức vào
tháng 08 năm 2011. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, đầy đủ về du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng dẫn đến
việc lãng phí tài nguyên du lịch đặc sắc này.
Tóm lại, tuy có rất nhiều công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống, lễ hội
hiện đại, lễ hội của các dân tộc,… nhưng chưa có công trình khoa học nào công bố
công trình nghiên cứu về du lịch lễ hội. Đối với người Khmer và văn hóa Khmer thì
có rất nhiều công trình đã nghiên cứu và công bố. Tuy nhiên, chỉ tiếp cận dưới góc
độ văn hóa, phong tục tập quán đơn thuần. Hiện tại, chưa có tài liệu nào công bố về
công trình nghiên cứu phát triển du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng.
3. Mục đích nghiên cứu
+ Mục đích
Khẳng định vai trò quan trọng của du lịch lễ hội của người Khmer ở Sóc
Trăng, qua đó góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa lễ hội của người Khmer
trong phát triển du lịch tỉnh Sóc Trăng.
+ Nhiệm vụ
- Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch lễ hội.
- Khảo sát, thu thập tài liệu, thông tin về tiềm năng và thực trạng phát triển
du lịch lễ hội của người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch lễ hội của người Khmer
tỉnh Sóc Trăng trong những năm qua.
- Đưa ra những định hướng và giải pháp phát triển du lịch lễ hội của người
Khmer ở tỉnh Sóc Trăng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng được tập trung nghiên cứu là tài nguyên và thực trạng du lịch lễ
hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu về lễ hội và du lịch lễ hội của người
Khmer trong phạm vi tỉnh Sóc Trăng.
- Phạm vi thời gian: Các hoạt động lễ hội và du lịch lễ hội của người Khmer
ở Sóc Trăng từ năm 2007 đến 2011.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu là phương pháp truyền thống thường
được sử dụng trong các nghiên cứu nói chung và nghiên cứu về du lịch nói riêng.
Nguồn tài liệu được tác giả thu thập và xử lý rất đa dạng và phong phú, bao gồm
sách, các tài liệu đã được xuất bản, tài liệu của các cơ quan lưu trữ, báo đài và
những tài liệu được đăng tải trên các trang web như Viện nghiên cứu Phát triển Du
lịch, Cổng thông tin điện tử Sóc Trăng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc
Trăng,…
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được, tác giả tiến hành lựa chọn, phân
tích, so sánh, tổng hợp các số liệu, thông tin nhằm kế thừa một cách có chọn lọc
những thành tựu nghiên cứu của quá khứ.
+ Phương pháp khảo sát thực địa
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã nhiều lần đến Sóc Trăng để thu thập
tài liệu, chụp ảnh, phỏng vấn du khách, tham quan tìm hiểu các điểm du lịch lễ hội
của người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Dựa vào phương pháp khảo sát thực địa, tác giả
có thể phát huy tính độc lập và nghiên cứu vấn đề mang tính toàn diện và sâu sắc
hơn.
+ Phương pháp điều tra xã hội học
Dựa vào phương pháp điều tra xã hội học, tác giả thu thập được thông tin đa
dạng, nhanh chóng, khách quan và được cập nhật. Điều tra xã hội học thông qua các
kỹ thuật phỏng vấn nhanh du khách, cư dân địa phương và chuyên gia du lịch.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Trên cơ sở nguồn thông tin, tư liệu, số liệu thu thập được từ các công trình
nghiên cứu trước đây, các sở ban ngành tỉnh Sóc Trăng, từ việc khảo sát thực
tiễn,… tác giả tiến hành phân tích, tổng hợp và so sánh, đối chiếu các thông tin theo
mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
6. Bố cục luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắc, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chủ yếu của luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về du lịch lễ hội.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc
Trăng.
- Chương 3: Một số giải pháp góp phần phát triển du lịch lễ hội của người
Khmer tỉnh Sóc Trăng.
7. Đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận: Đề tài góp phần củng cố cơ sở lý luận về du lịch lễ hội.
Về mặt thực tiễn: Đề tài giúp các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, chính
quyền và cư dân địa phương có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về lợi ích mà du lịch
lễ hội của người Khmer mang lại cho tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, đề tài cũng nêu lên
thực trạng phát triển du lịch lễ hội của người Khmer tỉnh Sóc Trăng. Từ đó, đề xuất
một số giải pháp phát triển du lịch lễ hội của người Khmer ở tỉnh Sóc Trăng theo
hướng phát triển bền vững và có sự tham gia của cộng đồng địa phương.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH LỄ HỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về du lịch lễ hội
1.1.1. Lễ hội
1.1.1.1. Khái niệm lễ hội
Người Việt Nam nói chung và người Khmer nói riêng, kinh tế chủ yếu dựa
vào nghề lúa nước, lao động theo mùa vụ. Vì thế, trong khoảng thời gian nông nhàn
người dân thường tổ chức rất nhiều lễ hội. Đây vừa là dịp để nông dân vui chơi giải
trí sau một mùa thu hoạch mệt nhọc; vừa cầu mong thần linh phù hộ cho mùa màng
bội thu vào năm sau. Lễ hội thường diễn ra vào mùa xuân và mùa thu với khí trời
mát mẻ, muôn hoa đua nở; cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp hòa cùng không khí tưng
bừng của lễ hội. Trong sinh hoạt lễ hội thường gắn với một cộng đồng dân cư nhất
định như lễ hội của người Khmer, người Tày, Nùng,… Chính vì vậy, lễ hội ở Việt
Nam vô cùng phong phú và mang tính tộc người rất rõ nét. Lễ hội được xem như
một bảo tàng văn hóa sống động lưu giữ các giá trị và sinh hoạt văn hóa như các trò
chơi, các tín ngưỡng dân gian, các hình thức diễn xướng dân gian… Về khái niệm
lễ hội, hiện nay có nhiều cách tiếp cận, cách giải thích khác nhau.
Theo Lễ hội Truyền thống và hiện đại của Thu Linh – Đặng Văn Lung [35,
tr.59-62], lễ hội là ghép nghĩa của hai từ lễ và hội. Lễ là nhằm biểu thị sự kính
trọng. Sự kính trọng thể hiện trong những mối quan hệ giữa người và người, giữa
người với thế giới tự nhiên. Lễ có hai cấp độ là lễ (lễ phép) trong sinh hoạt thường
ngày và lễ (cuộc lễ) nhân những sự kiện đặc biệt. Lễ trong những sự kiện đặc biệt là
một từ được dùng để chỉ cách thờ thần, tức là nói sự cúng tế thuộc các nghi lễ tôn
giáo, sau được dùng rộng ra gồm nhiều phương diện của đời sống như quan, hôn,
tang, tế, triều, sinh, tân, chủ,… Hội là nơi sinh hoạt vui chơi của cộng đồng.
Theo tạp chí người đưa tin UNESCO, tháng 12 năm 1989, “Lễ hội đã tạo
nên tấm thảm muôn màu. Mọi sự ở đó đều đan quyện vào nhau, thiêng liêng
và trần tục, nghi lễ và hồn hậu, truyền thống và phóng khoáng, của cải và
khốn khổ, cô đơn và kết đoàn, trí tuệ và bản năng”.
Theo Văn hóa dân gian Việt Nam – những thành tố của Lê Ngọc Canh thì
lễ là một hệ thống nghi thức, một hệ thống hành vi động tác, sự kiện có định ước,
quy cách chặt chẽ và ổn định theo lệ làng. Nhằm biểu hiện sự tôn kính của con
người, của dân làng đối với thần linh, lực lượng siêu nhiên trở thành thần thánh linh
thiêng. Kết thúc lễ là hội. Hội là khởi đầu của đám rước, đám rước là trung tâm cao
trào của hội. [13, tr.524-526]
Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm thì lễ hội là hệ thống
phân bổ theo không gian. Lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn
và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình, có ba loại lễ hội là lễ hội liên
quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa, lễ hội
xuống đồng, lễ hội đua ghe ngo, ), lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ
với môi trường xã hội (hội Gióng, hội đền Kiếp Bạc,…), lễ hội liên quan đến đời
sống cộng đồng (hội Chùa Hương, hội núi Bà Đen,…). Phần hội gồm các trò vui
chơi giải trí hết sức phong phú, xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con
người nông nghiệp. [64, tr.153-154]
Tóm lại, lễ hội là một hoạt động sinh hoạt văn hóa tổng hợp đa dạng và
phong phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt
nhọc, hoặc là một dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại như
ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống, hoặc là để giải quyết những nỗi âu lo,
những khao khát, ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được. Lễ hội gồm
hai phần là phần lễ và phần hội.
Phần lễ (nghi lễ) là những nghi thức nghiêm túc, trọng thể mở đầu ngày hội
theo thời gian và không gian. Phần lễ mở đầu ngày hội mang tính tưởng niệm lịch sử,
hướng về một sự kiện lịch sử. Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và linh thiêng chứa
đựng những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị thẩm mỹ và triết học sâu sắc của
cộng đồng. Nó mang ý nghĩa to lớn trong việc hấp dẫn du khách. Phần nghi lễ chính
là hạt nhân của lễ hội.
Phần hội diễn ra những hoạt động biểu tượng của tâm lý cộng đồng, văn hóa
dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế lịch sử, xã hội và thiên
nhiên. Trong hội thường có các trò vui chơi giải trí, thi đấu, biểu diễn,… mang lại niềm
vui, niềm phấn khởi cho mọi người. Đây chính là điểm tạo sự hấp dẫn, thu hút du
khách đến với lễ hội.
Như vậy, lễ hội được hiểu là một hình thức sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng
truyền thống của cộng đồng. Theo nhà nghiên cứu lễ hội Lê Trung Vũ, có 60 lễ hội
truyền thống đặc sắc trên tổng số 8.000 lễ hội lớn nhỏ ở Việt Nam. Trong đó, các lễ
hội cổ truyền, thường được diễn ra để tưởng nhớ công ơn các vị anh hùng đã có
công chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai, Bày tỏ tấm lòng tri ân đối với các bậc
tiền nhân, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng như nhắc nhở
những công lao to lớn của các vị thánh nhân. Đặc biệt, mỗi lễ hội sẽ gắn với làng,
xã, địa danh, vùng đất có một thành tố không thể thiếu vắng trong đời sống cộng
đồng nhân dân. Chính vì vậy, lễ hội có sức hấp dẫn đối với du khách không kém gì
các di tích lịch sử, văn hóa.
1.1.1.2. Đặc trưng của lễ hội
Lễ hội là biểu tượng văn hóa làng của người Kinh, hay phum, sóc của người
Khmer. Bởi vì, lễ hội bao hàm các diện mạo văn hóa, bản sắc văn hóa và giá trị
sáng tạo văn hóa và chúng hòa quyện, đan xen với nhau. Bản chất của văn hóa dân
gian là văn hóa làng xã, bản mường, phum sóc, buôn làng của từng cộng đồng tộc
người. Do đó, lễ hội của mỗi tộc người có biểu tượng riêng như lễ hội Ooc Om Boc
có biểu tượng là cốm dẹp, lễ hội Hoa Đăng có biểu tượng là đèn, lễ hội Gióng – Phù
Đổng có biểu tượng là ngựa sắt.
Lễ hội có phạm vi rộng, phong phú và đa dạng về thể loại và nội dung cũng
như hình thức. Lễ hội được xem là tiêu biểu cho văn hóa dân gian. Bởi vì, lễ hội
mang tính liên ngành, đa ngành, quy tụ thành lễ hội. Theo Văn hóa dân gian Việt
Nam – những thành tố của Lê Ngọc Canh [13, tr.535-536], lễ hội là một chỉnh thể
nguyên hợp gồm nhiều thành tố như phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, âm nhạc, múa,
ngữ văn, diễn xướng, tri thức, tập quán, luật tục (tục hội), tôn giáo, ca hát, sân khấu,
tạo hình, trò chơi, ứng xử. Chính vì vậy, muốn phát triển du lịch lễ hội thì phải tìm
hiểu đặc trưng của từng lễ hội để có thể thiết kế nên một sản phẩm du lịch lễ hội
hoàn chỉnh. Sản phẩm du lịch lễ hội là một sản phẩm đặc thù, mang bản sắc riêng
của từng tộc người. Vì vậy, khi phục dựng, tổ chức lễ hội phải thật sự cẩn trọng,
tránh hàng hóa hóa, tầm thường hóa bản sắc văn hóa của các dân tộc.
1.1.1.3. Ý nghĩa của lễ hội
Đối với từng lễ hội của từng tộc người sẽ có những ý nghĩa riêng biệt. Tuy
nhiên, trong cái nôi chung của văn hóa thì lễ hội vẫn mang những ý nghĩa chung rất
thiết thực như sau:
Lễ hội có ý nghĩa liên kết cộng đồng. Bởi vì, đối với các tộc người, tiếng
trống đình, trống hội được xem như biểu tượng của liên kết cộng đồng. Tiếng trống
ví như hiệu lệnh thông báo, triệu tập dân làng đi trẩy hội. Sự thúc giục, hối hả liên
hồi của tiếng trống càng tạo sự náo nức, tưng bừng của những người đi trẩy hội.
Bên cạnh đó, trong tâm niệm của mỗi người đi lễ đều cầu mong sự hạnh phúc, ấm
no, yên vui, hòa thuận, gắn bó và hướng thiện. Lễ hội là dịp tập hợp được đông đảo
cư dân, là một tổ chức có quy mô lớn, là nơi tạo sự phấn khích, vui vẻ cho mọi
người. Vì vậy, việc tổ chức lễ hội được xem như việc của toàn cộng đồng trong làng
hay phum, sóc. Mọi người hay ví von là vui như hội, đông như hội, đoàn kết như
hội và dân chủ như hội. Người xưa có câu ca rằng:
“Một miếng giữa làng
Hơn một sàng xó bếp” [13, tr.539]
Thật vậy, sự dân chủ, bình đẳng, vui vẻ, thoải mái trong lễ hội tạo nên sức
mạnh to lớn cho cộng đồng. Lễ hội mang ý nghĩa quan trọng đối với các tộc người
và nó tồn tại bền vững trong nhân dân.
Lễ hội còn mang ý nghĩa giáo dục đạo đức con người. Những đạo đức truyền
thống được thể hiện rất rõ nét trong phần lễ. Trong không khí trang nghiêm, đầm
ấm của các buổi lễ, con người dễ dàng tự giác ghi nhận những ý nghĩa giáo dục đạo
đức của lễ hội và tạo nên ý thức tốt đẹp cho con người.
Lễ hội là nơi hội tụ văn hóa. Bởi vì, lễ hội huy động phần lớn các thành tố
văn hóa dân gian như ca, múa, nghệ thuật biểu diễn truyền thống dân tộc, điêu khắc,
kiến trúc, hội họa, thủ công mỹ nghệ và các trò chơi diễn xướng dân gian, sân khấu,
ngôn từ, lễ nghi,… Thông qua lễ hội, con người có dịp nhận ra bản chất, giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc. Ngoài ra, lễ hội cũng là dịp để thi tài, biểu dương văn
hóa nghệ thuật của dân tộc.
Lễ hội mang ý nghĩa sáng tạo văn hóa. Trong không khí vui tươi, phấn khởi
của lễ hội, sẽ tạo nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nghệ nhân sáng tạo nghệ
thuật.
Điều quan trọng nhất là lễ hội mang ý nghĩa giải trí cho con người. Giá trị
đích thực mà lễ hội mang đến cho con người là sự phấn khởi, vui vẻ, tinh thần sảng
khoái và có ý thức gắn bó với cộng đồng dân tộc. Vì thế, trong lễ hội, phần hội
thường chiếm nhiều thời gian nhất. Những trò chơi, biểu diễn nghệ thuật,… mang ý
nghĩa giải trí của lễ hội tạo điều kiện thuận lợi trong phát triển du lịch lễ hội.
Ngoài ra, lễ hội còn mang ý nghĩa tái hiện hiện thực. Các sinh hoạt văn hóa
của cộng đồng như tín ngưỡng, phong tục, tôn giáo, nghi lễ,… tồn tại riêng biệt,
được tái hiện và liên kết chặt chẽ trong lễ hội. Do đó, lễ hội được ví như bức tranh
tổng thể, hoành tráng tái hiện lại hiện thực cuộc sống đầy sinh động, chứa đựng bản
sắc văn hóa riêng của từng cộng đồng. Lễ hội tái hiện hiện thực và phản ánh thế
giới tâm linh của con người, ước vọng và cầu mong hạnh phúc, ấm no.
Tóm lại, lễ hội là tổng hòa tất cả những giá trị vật chất và tinh thần của cộng
đồng tộc người thông qua các hiện tượng, các đề tài như lịch sử, nông nghiệp, tín
ngưỡng, tôn giao, văn nghệ, các hội thi và hoạt động thể thao truyền thống.
1.1.2. Du lịch lễ hội
1.1.2.1. Khái niệm du lịch
Du lịch là một khái niệm và có nhiều quan niệm khác nhau. Bởi vì, du lịch
cũng là một hiện tượng lịch sử xã hội mà nó có quá trình phát triển lâu dài và có
mối quan hệ rộng rãi. Du lịch là một sự vật, hiện tượng có lý do tồn tại và triết lý
sinh tồn. Triết lý sinh tồn của du lịch là “lạ”. Bởi vì, con người đi du lịch để tìm
kiếm cái mà mình chưa biết nhằm thõa mãn trí tò mò. Chính vì vậy, sự khác lạ của
tự nhiên chính là động lực của du lịch.
Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (World Tourist Organization), “Du lịch bao
gồm tất cả mọi hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham
quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí,
thư giãn, cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời
gian liên tục nhưng không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư,
nhưng ngoại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền”. Du lịch là một
dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư.
Theo Luật Du lịch thì “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi
của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.
[52, tr. 2]
Theo Du lịch và kinh doanh du lịch của Trần Nhạn, “Du lịch là quá trình
hoạt động của con người, rời khỏi quê hương, đến một nơi khác với mục đích chủ
yếu là thẩm nhận các giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo, khác lạ với quê
hương, không nhằm mục đích sinh lợi được tính bằng đồng tiền”. Định nghĩa này
xuất phát từ hiện tượng, bản chất cơ bản của du lịch và chỉ rõ nhu cầu, mục đích của
khách du lịch là thẩm nhận các giá trị vật chất và tinh thần khác lạ so với nơi mình
sinh sống. Bên cạnh đó, định nghĩa cũng nêu được nội dung của hoạt động du lịch,
nguồn lực và phương thức kinh doanh du lịch.
Theo các học giả biên soạn tự điển bách khoa toàn thư Việt Nam đã tách hai
nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Nghĩa thứ nhất của từ du lịch
là một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với
mục đích như nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công
trình văn hóa, nghệ thuật, Theo nghĩa thứ hai, du lịch được coi là một ngành kinh
doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt như nâng cao hiểu biết về thiên
nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình
yêu đất nước, đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình; về mặt
kinh tế du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình
thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại chỗ. [8, tr. 13]
Theo Nhập môn khoa học du lịch của PGS.TS Trần Đức Thanh, tách thuật
ngữ du lịch thành hai phần để định nghĩa nó, du lịch có thể được hiểu như sau:
Thứ nhất, du lịch là sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc
tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên
nghiệp cung ứng.
Thứ hai, du lịch là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu
cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian
rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khỏe,
nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. [60, tr. 14]
Từ những khái niệm khác nhau về du lịch, cho chúng ta cái nhìn toàn diện
hơn về du lịch. Du lịch không chỉ là một ngành kinh tế, mà còn là một hiện tượng
xã hội. Bởi vì, du lịch góp phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí, phục hồi sức
khỏe cho cộng đồng, mang lại sự cố kết cộng đồng của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, giáo dục tinh thần đoàn kết, tình yêu quê hương đất nước, Chính vì thế, nếu
chỉ cho rằng du lịch một ngành kinh tế và mục tiêu tiên quyết là lợi nhuận thì các
nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn sẽ bị khai thác một cách triệt để, dẫn đến
tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên. Đây là một thảm họa được báo trước và cần
phải khắc phục để bảo vệ các nguồn tài nguyên du lịch và khai thác chúng theo
hướng bền vững và lâu dài.
1.1.2.2. Du lịch lễ hội
Dựa trên cơ sở lý luận về lễ hội và khái niệm về du lịch, ta có thể hiểu du lịch
lễ hội là hoạt động của con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
mục đích tham quan, khám phá, tìm hiểu, trải nghiệm và vui chơi giải trí trong một
dịp lễ hội tại một địa điểm nhất định, vào một khoảng thời gian xác định.
Ngày nay, lễ hội là một tài nguyên du lịch nhân văn được xác định là quan
trọng trong việc tạo dựng sản phẩm du lịch đặc thù, đặc trưng của tỉnh so với các
tỉnh bạn trong khu vực và trong nước. Bởi vì, lễ hội chính là “linh hồn” của dân tộc,
lễ hội phản ánh khá đầy đủ và sâu sắc về phong tục tập quán, tín ngưỡng,… của dân
tộc và địa phương nơi dân tộc đó cư trú. Chính điều này, tạo nên sự khác biệt đặc
trưng trong từng dân tộc, từng vùng miền và từng địa phương. Đây chính là yếu tố
“lạ” thu hút sự quan tâm và tham quan du lịch lễ hội của du khách.
1.1.3. Vai trò của lễ hội trong phát triển du lịch văn hóa
Văn hóa là một khái niệm rộng. Hầu như không có ranh giới rõ rệt giữa văn
hóa và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Văn hóa thể hiện ở tác phong, thái
độ khi tiếp xúc của một cá thể hay một cộng đồng khi tiếp xúc với môi trường xung
quanh, như với các cá thể, cộng đồng khác với thiên nhiên, với đồ vật, với công
việc, Văn hóa là một khái niệm mà có rất nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa.
Bởi vì, văn hóa là một hiện tượng khách quan ngoài đời sống con người. Văn hóa
có ba đặc tính cơ bản là tính lịch sử, tính dân tộc và tính giai cấp. Hiện nay, có hơn
400 định nghĩa về văn hóa như quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh, Trần Ngọc
Thêm, Trần Quốc Vượng, GS. Từ Chi,… Quan niệm của GS.Từ Chi về văn hóa là
tất cả những gì không phải là tự nhiên thì là văn hóa, kể cả tác động vào tự nhiên để
làm thay đổi cuộc sống cũng là văn hóa. Tự nhiên cũng là văn hóa khi mà tự nhiên
đó bị con người can thiệp vào.
Trước tiên, cần xác định khái niệm du lịch văn hóa trước khi tìm hiểu vai trò
của lễ hội trong phát triển du lịch văn hóa. Theo sách Tổng quan du lịch của tác giả
Trần Văn Thông, “Du lịch văn hóa là loại hình mà du khách muốn được thẩm định
bề dày lịch sử, văn hóa của một nước, một vùng thông qua các di tích lịch
sử, văn hóa, những phong tục tập quán còn hiện diện” [69, tr.30]. Vậy, du lịch văn
hóa chủ yếu dựa trên khai thác tài nguyên du lịch nhân văn vật thể như các di tích
lịch sử văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật, đình, chùa,… và tài nguyên nhân văn
phi vật thể gồm các lễ hội, văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán và tôn giáo,…
của các dân tộc.