Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Xây dựng mô hình du lịch vì người nghèo tại vườn quốc gia Cúc Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.31 MB, 116 trang )







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


LÊ THU HƢƠNG


Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn
quốc gia Cúc Phƣơng


LUẬN VĂN THẠC SĨ



Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Trần Đức Thanh



Hà nội - 2007







"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, lao động trong ngành du lịch tại Việt Nam chủ yếu tập trung
trong khu vực khách sạn, nhà hàng, các công ty du lịch, lữ hành ở các đô thị
và các trung tâm hành chính, kinh tế, văn hoá Du lịch tại các vùng nông
thôn, miền núi hay tại các vƣờn quốc gia - những nơi giàu tài nguyên chƣa
thực sự phát triển. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch và ngƣời nghèo
vẫn còn rất hạn chế. Ngƣời nghèo thiếu các kiến thức và kỹ năng cần thiết,
đặc biệt là cộng đồng dân cƣ của các vùng nông thôn và miền núi chƣa tiếp
cận đƣợc với các cơ hội về việc làm, kinh doanh và các lợi ích khác từ du
lịch. Lợi ích do du lịch mang lại chƣa đƣợc phân bố đều cho các đối tƣợng.
Mặc dù, Nhà nƣớc có chính sách khuyến khích, ƣu đãi về đất đai, tài chính,
tín dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nƣớc và tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài
đầu tƣ vào phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch ở vùng sâu, vùng xa,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhằm sử dụng lao động, hàng hoá
và dịch vụ tại chỗ, góp phần nâng cao dân trí, xoá đói, giảm nghèo, nhƣng
nhận thức về vai trò của du lịch đối với việc xoá đói giảm nghèo ở các địa
phƣơng còn rất hạn chế.
Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng nằm cách Hà Nội 120 km về phía Nam.
Đây là vƣờn Quốc gia đầu tiên của Việt Nam đƣợc thành lập vào năm 1962
và là một trong những kho báu lớn của thiên nhiên Việt Nam - nơi cƣ trú của
rất nhiều loài thực vật, động vật có vú, chim muông quý hiếm và là nơi sinh
sống của cộng đồng dân tộc Mƣờng với những giá trị văn hoá độc đáo. Cúc
Phƣơng từ lâu đã trở thành nơi thu hút hoạt động tham quan, giải trí, học tập,

nghiên cứu của khách du lịch trong nƣớc và quốc tế.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
2
Trong những năm gần đây, số lƣợng du khách đến Cúc Phƣơng ngày
càng tăng và đây cũng là một trong những vƣờn quốc gia có số lƣợng khách
đến vào loại cao nhất của Việt Nam. Mặc dù vậy, đời sống của nhân dân vùng
đệm còn rất nhiều khó khăn: dân số tăng nhanh, diện tích đất canh tác hạn
hẹp, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghịêp, sản xuất lâm nghiệp và các ngành
nghề khác chƣa phát triển. Một bộ phận dân cƣ sống giáp ranh vẫn chƣa tập
trung vào sản xuất mà còn nặng về khai thác lâm sản trong rừng để sinh sống.
Những lợi ích của họ từ hoạt động du lịch và sự tham gia của họ vào du lịch
còn nhiều hạn chế và bất cập. Hầu hết họ vẫn đứng ngoài hoạt động kinh
doanh và phát triển du lịch. Cần nhanh chóng tìm ra cơ chế và biện pháp để
thu hút cộng đồng này vào hoạt động du lịch, góp phần xoá đói giảm nghèo,
bảo vệ môi trƣờng và các giá trị thiên nhiên quý giá của Vƣờn Quốc gia.
Mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng có thể
sẽ là một trong những giải pháp xã hội hoá du lịch hữu hiệu nhằm đạt đƣợc
mục tiêu kể trên.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là tìm giải pháp thiết thực nhằm thu hút
cộng đồng địa phƣơng vào hoạt động du lịch, góp phần xoá đói giảm nghèo
cho ngƣời dân vùng đệm Vƣờn Quốc gia ở nƣớc ta.
Đề tài đặt ra mục tiêu cụ thể là tìm ra mô hình cụ thể nhằm phát triển
du lịch cho cộng đồng ngƣời dân các xã vùng đệm vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục tiêu đề ra, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ

sau:
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
3
 Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến du lịch vì
ngƣời nghèo, khảo sát kinh nghiệm phát triển du lịch vì ngƣời
nghèo ở một số nƣớc trên thế giới.
 Khảo sát đƣợc hiện trạng hoạt động du lịch tại Cúc Phƣơng; xác
định đƣợc vai trò và sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động du
lịch.
 Từ kinh nghiệm các nƣớc, từ thực tế hoàn cảnh địa phƣơng đƣa
ra mô hình tổ chức hoạt động du lịch phù hợp cho cộng đồng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Sự tham gia của cộng đồng dân cƣ thuộc các
xã vùng đệm tại Cúc Phƣơng vào hoạt động du lịch và mối quan hệ giữa du
lịch với vấn đề xoá đói giảm đối với ngƣời dân tại đây.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Hoạt động du lịch cộng đồng tại
vƣờn quốc gia Cúc Phƣơng.
+ Phạm vi về không gian: Các xã vùng đệm tại Cúc Phƣơng -
nơi có điều kiện phát triển du lịch nhằm xoá đói giảm nghèo.
+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tình hình và hiện trạng phát
triển du lịch cũng nhƣ đời sống kinh tế và khả năng chuyển đổi kinh tế của
ngƣời dân tại Cúc Phƣơng trong những năm vừa qua - cụ thể là từ năm 2006
đến nay và xu thế phát triển trong những năm tiếp theo.
4 . Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin số liệu
Thông qua phƣơng pháp này, một khối lƣợng lớn các tƣ liệu lý thuyết
đã đƣợc tập hợp nhƣ khái niệm ngƣời nghèo, chuẩn nghèo, hoạt động du lịch

cộng đồng và kinh nghiệm du lịch vì ngƣời nghèo ở các nƣớc nhƣ Thái Lan,
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
4
Malaysia, Uruguay, Paraguay và một số bài học thành công về kinh nghiệm
phát triển loại hình du lịch ở nhà dân tại Pháp, Bỉ
Bên cạnh đó, luận văn cũng đã thu thập đƣợc khá nhiều thông tin thực
tế về hoạt động du lịch tại Cúc Phƣơng cũng nhƣ điều kiện văn hoá - kinh tế -
xã hội của cƣ dân vùng đệm. Đây là thông tin hữu ích để làm căn cứ xác lạp
các phƣơng án xây dựng mô hình phát triển du lịch.
4.2. Phƣơng pháp khảo sát thực địa
Mặc dù những thông tin thu thập đƣợc khá lớn, song một số thông tin
chƣa phù hợp, thiếu chính xác và lỗi thời. Do vậy, tác giả đã tiến hành 4 đợt
khảo sát nhằm bổ sung và cập nhật thông tin. Các đợt khảo sát này đều nhận
đƣợc sự giúp đỡ rất nhiệt tình của Ban Quản lý Vƣờn Quốc gia Cúc Phƣơng
và Uỷ ban nhân dân các xã thuộc vùng đệm, đặc biệt là Uỷ ban nhân dân xã
Cúc Phƣơng, Kỳ Phú, Yên Quang và nhân dân bản Khanh.
Những thông tin thu thập đƣợc từ các đợt khảo sát này về đặc điểm
kinh tế - văn hoá - xã hội; về lối sống và về phong tục tập quán là tài liệu
quan trọng làm căn cứ để xây dựng mô hình trong luận văn.
4.3. Phƣơng pháp điều tra xã hội học
Bằng cách sử dụng kết hợp giữa phƣơng pháp khảo sát thực địa với các
phƣơng pháp phỏng vấn và quan sát tham dự, tác giả đã có đƣợc những thông
tin vê nhận thức, về khả năng và nguyện vọng của ngƣời dân đối với việc
tham gia vào hoạt động du lịch Từ đó đã thấy đƣợc những thuận lợi và khó
khăn trong việc quy hoạch và đào tạo nguồn nhân lực và các biện pháp thu
hút các hình thức đầu tƣ vốn khi xây dựng các tổ hợp dịch vụ du lịch tại Cúc
Phƣơng nhằm xoá đói giảm nghèo cho ngƣời dân.
5. Đóng góp của luận văn

"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
5
Tác giả hy vọng rằng những đóng góp của luận văn sẽ đƣa ra một mô
hình phát triển du lịch hữu hiệu tại các Cúc Phƣơng nói riêng và các vƣờn
quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên trên cả nƣớc nói chung nhằm giúp cho
cộng đồng ngƣời nghèo tại đó có thể xoá đói giảm nghèo thông qua các hình
thức tham gia vào hoạt động phục vụ du lịch.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
6
6. Nội dung luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề cơ bản về du lịch vì ngƣời nghèo
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động du lịch tại Cúc Phƣơng
Chƣơng 3: Xây dựng tổ hợp du lịch nhằm xoá đói giảm nghèo tại Cúc Phƣơng
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DU LỊCH VÌ NGƢỜI NGHÈO

1.1. Ngƣời nghèo
1.1.1. Khái niệm

Đói nghèo đang là một vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của nhiều

quốc gia trên thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề đƣợc các Chính phủ, các nhà lãnh
đạo, các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm các giải pháp hạn chế và tiến tới xoá
bỏ nạn nghèo đói trên phạm vi toàn cầu. Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có
thể sống một cuộc sống tƣơng ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định.
Thƣớc đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi
tuỳ theo địa phƣơng và theo thời gian.
Theo Bách khoa toàn thƣ, Tổ chức Y tế Thế giới đã định nghĩa nghèo
dựa trên thu nhập cá nhân: Một ngƣời là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn
một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu ngƣời hàng năm (Per Capita
Incomme, PCI) của quốc gia. [1]
Tuy nhiên, để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nƣớc
đang phát triển, Robert McNamara, nguyên giám đốc của Ngân hàng Thế
giới, đã đƣa ra khái niệm nghèo tuyệt đối nhƣ sau: Nghèo ở mức độ tuyệt đối
là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những ngƣời nghèo tuyệt đối là
những ngƣời phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong
tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vƣợt quá sức tƣởng tƣợng mang dấu ấn
của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức. [16]
Trong xã hội đƣợc coi là thịnh vƣợng, nghèo đƣợc định nghĩa dựa vào
hoàn cảnh xã hội của cá nhân: Nghèo tƣơng đối có thể đƣợc xem nhƣ là việc
cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những ngƣời
thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó. [16]
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
8
Nghèo tƣơng đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ
thuộc vào cảm nhận của những ngƣời trong cuộc. Ngƣời ta gọi là nghèo
tƣơng đối chủ quan khi những ngƣời trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ
thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất
(tƣơng đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan

trọng hơn.
Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng do
ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993: Nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cƣ không đƣợc hƣởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
con ngƣời mà những nhu cầu này đã đƣợc xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phƣơng. [5]
Bên cạnh đó, Chƣơng trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đƣa ra
định nghĩa nghèo theo tình trạng sống hay nói cách khác là "nghèo con
ngƣời". Trong đó lƣu ý đến những khía cạnh khác ngoài thu nhập nhƣ: cơ hội
đào tạo, mức sống, quyền tự quyết định, ổn định về luật lệ, khả năng ảnh
hƣởng đến những quyết định chính trị và nhiều khía cạnh khác. Chƣơng trình
Phát triển Liên Hiệp Quốc cũng đã đƣa ra chỉ số phát triển con ngƣời HDI
(human development index) bao gồm: tuổi thọ dự tính vào lúc mới sinh, tỷ lệ
mù chữ, trình đô học vấn, sức mua thực trên đầu ngƣời và nhiều chỉ thị khác
nữa. Trong Báo cáo phát triển thế giới năm 2000, Ngân hàng thế giới đã đƣa
ra bên cạnh các yếu tố quyết định khách quan cho sự nghèo là các yếu tố chủ
quan nhƣ phẩm chất và tự trọng.
1.1.2. Nguyên nhân

Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo đƣợc liệt kê ra là chiến tranh,
cơ cấu chính trị (chế độ độc tài, các quy định thƣơng mại quốc tế không công
bằng), cơ cấu kinh tế (phân bổ thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá
nhiều, nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
9
đƣợc), thất bại quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai,
dịch bệnh, dân số phát triển quá nhanh và không có bình đẳng nam - nữ.
Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tƣơng đối là thất nghiệp và thiếu

việc làm. Ngoài ra, những yếu tó nguy hiểm khác là phân bổ thu nhập quá mất
cân bằng, thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính.
Còn ở Việt Nam, có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói
nhƣng nói chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan nhƣ sau:
*Nguyên nhân lịch sử, khách quan
- Việt Nam là một nƣớc nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc
chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ
hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất
mát trong chiến tranh, thƣơng tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến
tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
- Chính sách nhà nƣớc thất bại: sau khi thống nhất đất nƣớc việc áp
dụng chính sách tập thể hoá nông nghiệp, cải tạo công thƣơng nghiệp và
chính sách giá lƣơng tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm
yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nƣớc và hộ gia đình
ở nông thôn cũng nhƣ thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
- Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nƣớc và tập thể của các tƣ liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã
làm thui chột động lực sản xuất.
- Việc huy động nguồn nhân lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ
đã làm cắt rời sản xuất với thị trƣờng, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công
nghiệp thiếu hiệu quả, thƣơng nghiệp tƣ nhân lụi tàn, thƣơng nghiệp quốc
doanh thiếu hàng hoá làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số
tăng cao.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
10
- Lao động dƣ thừa ở nông thôn không đƣợc khuyến khích ra thành thị
lao động, không đƣợc đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính

sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông
dân di cƣ, nhập cƣ vào thành phố.
- Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trƣớc thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tƣ thấp và thiếu hiệu quả vào các công trình thâm dụng vốn
của Nhà nƣớc.
*Nguyên nhân chủ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đƣợc một số thành tựu
nhƣng số lƣợng ngƣời nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4.6 triệu hộ)
do các nguyên nhân khác nhƣ sau:
Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho
gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nƣớc đang phát triển
làm tỷ lệ nghèo tăng lên.
Việt Nam là nƣớc nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống
ở nông thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm
quốc gia thấp. Hệ số Gini
*
là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình
đẳng cao trong khi thu nhập bình quân trên đầu ngƣời còn thấp.
Ngƣời dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chƣa có
các thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại: thiên tai, dịch bệnh,
sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản
phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trƣờng thế giới và khu vực nhƣ
khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi
không lƣờng trƣớc đƣợc, rủi ro hệ thống hành chính kém minh bạch, quan
liêu, tham nhũng.

*
Hệ số bất bình đẳng trong thu nhập
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"

Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
11
Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trƣởng tuy khá nhƣng chủ
yếu là do nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ
trong khi nguồn vốn đầu tƣ trong nƣớc còn thấp. Tín dụng chƣa thay đổi kịp
thời, vẫn còn ƣu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nƣớc có hiệu quả thấp,
không thế chấp, môi trƣờng sớm bị huỷ hoại, đầu tƣ vào con ngƣời ở mức cao
nhƣng hiệu quả còn hạn chế, số lƣợng lao động đƣợc đào tạo đáp ứng nhu cầu
thị trƣờng còn thấp, nông dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng nhà nƣớc.
Sự nghèo đói và HIV/AIDS có ảnh hƣởng rất lớn đến thiếu niên, nhi
đồng. Các em không đƣợc thừa hƣởng quyền có một tuổi thơ đƣợc thƣơng
yêu, chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc đƣợc khích lệ phát triển
hết khả năng của mình. Khi trƣởng thành và trở thành cha mẹ, đến lƣợt con
cái các em có nguy cơ bị tức đoạt các quyền đó vì các hiểm hoạ đối với tuổi
thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ngoài ra, tại Việt Nam còn có một số nguyên nhân chủ quan dãn đến
nghèo đói sau: sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn,
giữa các dân tộc cao; môi trƣờng sớm bị huỷ hoại trong khi đa số ngƣời nghèo
lại sống nhờ vào nông nghiệp; hiệu năng quản lý chính phủ thấp
1.1.3. Chuẩn đói nghèo

Phƣơng pháp xác định đƣờng đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng
cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định và đƣợc thực hiện trong các cuộc
khảo sát mức sống dân cƣ Việt Nam (năm 1992 - 1993 và năm 1997 - 1998).
Đƣờng đói nghèo thấp gọi là đƣờng đói nghèo về lƣơng thực, thực phẩm.
Đƣờng đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đƣờng đói nghèo chung (bao
gồm cả mặt hàng lƣơng thực, thực phẩm và phi lƣơng thực, thực phẩm).
Đƣờng đói nghèo về lƣơng thực, thực phẩm đƣợc xác định theo chuẩn
mà hầu hết các nƣớc đang phát triển cũng nhƣ Tổ chức Y tế thế giới và các cơ
quan khác đã xây dựng mức Kcal tối thiểu cần thiết cho mỗi thể trạng con

"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
12
ngƣời, là chuần về nhu cầu 2.100 Kcal/ngƣời/ngày. Những ngƣời có mức chi
tiêu dƣới mức chi cần thiết để đạt đƣợc lƣợng Kcal này gọi là nghèo về lƣơng
thực, thực phẩm. [16]
Đƣờng đói nghèo chung tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi
lƣơng thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này với đƣờng đói nghèo về lƣơng
thực, thực phẩm ta có đƣờng đói nghèo chung.

Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la Mỹ/ngày theo sức mua tƣơng
đƣơng của địa phƣơng so với đô la thế giới để thoả mãn nhu cầu sống nhƣ là
chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bƣớc sau đó các trị
ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phƣơng hay từng vùng đƣợc
xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 đô la cho những
nƣớc Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nƣớc công nghiệp. [17]
Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn
nghèo trong thời gian từ năm 1993 đến cuối năm 2005 nhƣ sau:
- Năm 1993, đƣờng đói nghèo chung có mức chi tiêu là 1,16 triệu
đồng/năm/ ngƣời (cao hơn đƣờng đói nghèo lƣơng thực thực phẩm là 55%);
năm 1998 là 1,79 triệu đồng/năm/ngƣời (cao hơn đƣờng đói nghèo lƣơng thực
thực phẩm là 39%). Dựa trên ngƣỡng nghèo này, tỷ lệ đói nghèo chung năm
1993 là 58% và 1998 là 37,4%; còn tỷ lệ nghèo lƣơng thực tƣơng ứng là 25%
và 15%.
- Từ năm 1996 - 1997, thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng trong hộ
dƣới 15kg gạo ở khu vực nông thôn miền núi, dƣới 20kg gạo ở khu vực đồng
bằng và 25kg gạo ở khu vực thành thị đƣợc coi là hộ nghèo. [5]
- Từ năm 1998 - 2000, thu nhập bình quân đầu ngƣời/tháng trong hộ
dƣới 15kg gạo (tƣơng đƣơng với 55.000 đồng) ở khu vực nông thôn miền núi,

dƣới 20kg gạo (tƣơng đƣơng 70.000 đồng) ở khu vực đồng bằng và 25kg gạo
(tƣơng đƣơng 90.000 đồng) ở khu vực thành thị đƣợc coi là hộ nghèo. [5]
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
13
- Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trƣởng kinh tế, nguồn lực tài chính
2001 - 2005 và mức sống thực tế của ngƣời dân ở từng vùng, Bộ Lao động,
Thƣơng binh và Xã hội Việt Nam đƣa ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách
hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên để
hƣởng sự trợ giúp của Chính phủ từ Chƣơng trình mục tiêu Quốc gia về xoá
đói giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ khác
Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTG của Thủ tƣớng Chính phủ ngày
27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt Chƣơng trình mục tiêu quốc gia xoá
đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005, thì những hộ gia đình có thu nhập
bình quân đầu ngƣời ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000
đồng/ngƣời/ tháng (960.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu
vực nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu ngƣời
từ 100.000 đồng/ngƣời/tháng (1.200.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ
nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu ngƣời từ
150.000 đồng/ngƣời/tháng (1.800.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ
nghèo. [22]
- Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ
ngày 8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2006 - 2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình
quân từ 200.000 đồng/ngƣời/tháng (2.400.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là
hộ nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập 260.000
đồng/ngƣời/tháng (dƣới 3.120.000 đồng/ngƣời/năm) trở xuống là hộ nghèo.
[23]
Còn tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 là thu nhập bình quân đầu

ngƣời dƣới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000 đồng/năm (tƣơng ứng 284
USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế).
1.2. Vai trò của du lịch tới công cuộc xoá đói giảm nghèo
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
14
Để đánh giá những vai trò của du lịch tới cuộc sống mƣu sinh của
ngƣời nghèo không chỉ đơn giản là tính số công việc hay thu nhập của họ mà
chính là việc đánh giá sự tham gia của tầng lớp ngƣời nghèo vào những vấn
đề đƣợc họ ƣu tiên và những yếu tố ảnh hƣởng đến việc đảm bảo và duy trì
cuộc sống của họ.
Tuy nhiên, khi Chính phủ và các tổ chức phát triển xem xét vấn đề xoá
đói giảm nghèo, du lịch dƣờng nhƣ ít đƣợc quan tâm hơn so với nông nghiệp,
công nghiệp và sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Trong khi thực tế cho thấy,
du lịch lại chiếm một vị thế thuận lợi hơn nhiều so với nhiều ngành khác có
liên quan đến nhu cầu của ngƣời nghèo, vì một số lý do sau:
*Về kinh tế
Hoạt động du lịch có thể tạo ra sự công bằng xã hội và phân chia lợi ích
đều cho ngƣời dân địa phƣơng đồng thời góp phần bảo vệ môi trƣờngvà các
nguồn tài nguyên, di sản tại địa phƣơng. Khi nói đến đóng góp về mặt kinh tế
của du lịch phải nói đến: việc cải thiện kinh tế địa phƣơng, cụ thể hơn là sự
đóng góp thu nhập du lịch cho kinh tế địa phƣơng; tạo thêm thu nhập và nâng
cao thu nhập của ngƣời dân; tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân địa phƣơng,
bao gồm cả những ngƣời hoạt động trực tiếp và gián tiếp thông qua các hoạt
động bổ trợ hoặc quản lý tài nguyên.
Hoạt động du lịch diễn ra tại địa bàn sinh sống của ngƣời dân địa
phƣơng giúp cho quá trình tiếp cận với đời sống sinh hoạt của ngƣời dân địa
phƣơng trở nên dễ dàng hơn. Đây cũng là cơ hội để ngƣời dân địa phƣơng gia
tăng thu nhập của mình thông qua việc cung cấp các dịch vụ cho khách du

lịch cũng nhƣ đóng góp thêm các khoản thu nhập vào ngân sách của địa
phƣơng. Du lịch góp phần mang lại lợi nhuận cho nhiều ngành sản xuất và
cung cấp dịch vụ ăn uống, hệ thống giao thông, hàng thủ công mỹ nghệ và lực
lƣợng hƣớng dẫn viên. Du lịch cũng sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp cung
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
15
cấp các loại hàng hoá và dịch vụ chƣa có tại địa phƣơng cũng nhƣ đƣa ra các
loại sản phẩm du lịch mới. Nhƣ vậy, hiệu quả kinh tế hoạt động du lịch mang
lại cho ngƣời dân là rất lớn góp phần đóng góp cho kinh tế địa phƣơng và xoá
đói giảm nghèo.
*Về văn hoá và xã hội
Việc cộng đồng dân cƣ thu hút đƣợc khách du lịch đến tham quan làm
cho diện mạo của địa phƣơng ngày thêm đổi mới và phát triển, nâng cao chất
lƣợng cuộc sống của cộng đồng dân địa phƣơng. Ngƣời dân có cơ hội đƣợc
tiếp xúc, giao lƣu và kết bạn với du khách đến từ các nƣớc, biệt thêm thông
tin về thế giới bên ngoài. Sự trải nghiệm, tiếp xúc với nhiều du khách từ các
nƣớc trên thế giới sẽ giúp con ngƣời mở rộng đƣợc hiểu biết và làm giàu kinh
nghiệm sống của mình.
Đồng thời, lợi ích đan xen trong nét văn hoá bản địa là làm sống lại
những di sản văn hoá và lịch sử và coi nó nhƣ một phần cuả phát triển du lịch.
Sự khám phá và thƣởng thức của khách du lịch đối với các giá trị văn hoá và
lịch sử địa phƣơng là động cơ thúc đẩy ngƣời dân địa phƣơng gìn giữ và bảo
tồn các giá trị nghệ thuật, lịch sử và kiến trúc cổ. Mặc dù việc tiếp xúc nhiều
với các nền văn hoá khác nhau có thể làm biến đổi các giá trị văn hoá hơn
mức cho phép. Tuy nhiên ảnh hƣởng về văn hoá xã hội của hoạt động du lịch
là vấn đề gây nhiều tranh cãi, trong bối cảnh du lịch đang phát triển với một
tốc độ chóng mặt. Điều quan trọng ảnh hƣởng đến tác động về mặt văn hoá xã
hội của du lịch là mối quan hệ giữa cộng đồng và khách ở hai nền văn hoá

khác biệt có thể gây ra sự đối đầu trực tiếp. Ảnh hƣởng về văn hoá xã hội là
kết quả của các mối quan hệ khác biệt xảy ra giữa cộng đồng và khách du
lịch khi giao tiếp với nhau. Sự tác động này có thể là tích cực hoặc tiêu cực
phụ thuộc vào loại hình du lịch cũng nhƣ đặc điểm của mỗi cộng đồng đón
tiếp khách. Tác động tích cực của du lịch có thể kể đến là những lợi ích kinh
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
16
tế mà bao gồm cả việc làm và phân chia lợi ích thu nhập cho mọi ngƣời. Điều
này làm cải thiện cuộc sống của cộng đồng địa phƣơng cho sự phát triển kinh
tế của cả vùng.
Bên cạnh đó, ngƣời dân có ý thức hơn trong việc giữ gìn môi trƣờng,
cảnh quan và bảo vệ tài nguyên du lịch, tham gia vào việc đảm bảo an ninh
trật tự, an toàn cho du khách.
Việc du lịch địa phƣơng phát triển khuyến khích ngƣời dân đầu tƣ cho
các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của du khách. Do vậy, cơ sở hạ tầng công
cộng nhƣ các điểm vui chơi, giải trí, giao thông, thông tin liên lạc của địa
phƣơng đƣợc đầu tƣ xây dựng và đời sống của ngƣời dân cũng có những thay
đổi tích cực. Phát triển du lịch cũng giúp phát huy và sử dụng nguồn lao động
trong cộng đồng và của các địa phƣơng lân cận, góp phần tạo công ăn việc
làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của bộ phận ngƣời dân sống tại địa
phƣơng. Sự mở rộng nhanh của du lịch là quan trọngvì sự phát triển trong
từng khu vực dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu xã hội.
Thông qua hoạt động du lịch, việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho du
khách và cộng đồng về môi trƣờng, về các giá trị tài nguyên văn hoá, lịch sử,
tạo ý thức tham gia của du khách vào các hoạt động bảo tồn; nâng cao nhận
thức về bảo tồn thiên nhiên cho cộng đồng, giúp hiểu rõ hơn về ý nghĩa bảo
tồn, hạn chế các hoạt động chặt phá, săn bắn, khai thác lâm sản Từ đó, dựa
vào cộng đồng địa phƣơng hỗ trợ tích cực cho công tác bảo tồn thiên nhiên và

góp phần nâng cao chất lƣợng của hoạt động du lịch.
* Về môi trƣờng
Với những địa phƣơng có tiềm năng về nguồn thiên nhiên phong phú
nhƣ biển, hồ, núi, hệ động thực vật phong phú và các điểm tham quan tự
nhiên thì việc tổ chức các tour tham quan dã ngoại do ngƣời dân địa phƣơng
tổ chức vừa giúp du khách thƣởng thức đƣợc cảnh đẹp của địa phƣơng vừa
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
17
giúp ngƣời dân có ý thức hơn trong việc bảo vệ tài nguyên tự nhiên của địa
phƣơng và môi trƣờng thiên nhiên. Du lịch tại địa phƣơng phát triển giúp
ngƣời dân có nhận thức cao hơn về bảo vệ môi trƣờng và quan tâm hơn đến
các hoạt động gìn giữ môi trƣờng.
Du lịch có đóng góp trực tiếp cho việc bảo vệ các khu vực tự nhiên
nhạy cảm và khu vực dân cƣ sinh sống. Những khoản thu phí từ khách du lịch
khi vào tham quan các khu du lịch và các nguồn khác có thể đƣợc phân bổ
cho việc bảo vệ và quản lý các khu vực tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các
khu tự nhiên có nhiều loài động thực vật quý hiếm. Ngƣời dân phối hợp với
chính quyền địa phƣơng tăng cƣờng liên kết giữa phát triển du lịch với bảo vệ
tài nguyên và phát triển cộng đồng. Việc quản lý tốt tài nguyên thiên nhiên và
môi trƣờng cảnh quan của ngƣời dân địa phƣơngcó thể làm tăng những lợi ích
mà du lịch đem lại.
*Thay đổi hành vi cộng đồng
Phục vụ, tạo điều kiện cho du khách thƣởng thức các giá trị văn hoá,
những cảnh đẹp của quê hƣơng mình khiến cho ngƣời dân địa phƣơng biết
trân trọng và bảo vệ nguồn tài nguyên của địa phƣơng, những cái mà thƣờng
đƣợc cho là vốn có, không cần bảo vệ. Khi du lịch ngày càng phát triển, ngƣời
dân sẽ đƣợc hƣởng lợi từ những điều kiện cơ sở vật chất đƣợc đầu tƣ và sẽ có
nhiều lựa chọn hơn trong cuộc sống. Các hoạt động du lịch nhƣ tổ chức

chƣơng trình văn nghệ dân tộc phục vụ du khách, đƣa khách đi tham quan, tổ
chức các trò chơi, lễ hội dân gian dƣờng nhƣ làm cho cuộc sống của ngƣời
dân địa phƣơng trở nên nhộn nhịp và năng động hơn.
Với những lý do trên, có thể thấy du lịch đặc biệt phù hợp với công
cuộc xoá đói giảm nghèo của các địa phƣơng và nhiều quốc gia trên thế giới.
Đồng thời, phát triển du lịch chất lƣợng cao và bền vững phụ thuộc rất nhiều
vào vấn đề xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển du lịch
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
18
cần tối ƣu hoá các cơ hội đƣa ngƣời nghèo tham gia vào phát triển du lịch với
tƣ cách đối tác và nên xem họ nhƣ những tài nguyên cần đƣợc phát triển. Điều
này hết sức quan trọng đối với ngƣời dân nghèo là chủ nhân của các nguồn tài
nguyên du lịch quan trọng nhƣ văn hoá (cả hữu hình lẫn vô hình), kỹ năng sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ, kiến trúc truyền thống
1.3. Du lịch vì ngƣời nghèo
1.3.1. Khái niệm
Từ giữa những năm 1980, các khái niệm du lịch xanh, du lịch sinh thái
và du lịch cộng đồng đã ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, các loại hình
du lịch trên đều hƣớng tới mong muốn đảm bảo rằng du lịch không huỷ hoại
đến nền tảng môi trƣờng và văn hoá - nguồn lực chính của du lịch. Tuy nhiên,
hoạt động du lịch này chƣa quan tâm đến hoạt động mƣu sinh của ngƣời
nghèo Trong khi đó, xoá đói giảm nghèo lại đang là vấn đề đƣợc nhiều Nhà
nƣớc và Chính Phủ quan tâm và du lịch cũng đƣợc coi là một trong những
công cụ hữu hiệu để xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là các nƣớc đang phát triển.
Phát triển du lịch vì ngƣời nghèo (Pro-poor tourism) lần đầu tiên đã
đƣợc Trung tâm Phát triển Quốc tế Anh quốc (DFID) đƣa ra năm 1999: Du
lịch vì ngƣời nghèo là hoạt động du lịch đƣa vấn đề nghèo đói là trung tâm
cho sự phát triển du lịch bền vững. Đây là phƣơng pháp phát triển và quản lý

du lịch nhằm đem lại lợi ích tối đa cho ngƣời nghèo, lợi ích này có thể là
kinh tế, văn hoá xã hội hay môi trƣờng góp phần xoá đói giảm nghèo khi tạo
cho họ cơ hội tham gia cung cấp các dịch vụ du lịch cho khách du lịch. [20]

Nhƣ vậy, quan điểm của hoạt động du lịch vì ngƣời nghèo chính là tăng
cƣờng sự liên kết giữa các doanh nghiệp du lịch và ngƣời nghèo để du lịch có
thể góp phần hơn nữa vào công cuộc xoá đói giảm nghèo và ngƣời dân có thể
tham gia hoat động du lịch có hiệu quả hơn.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
19
Các chiến lƣợc để thực hiện du lịch vì ngƣời nghèo tập trung tạo mọi
cơ hội để ngƣời nghèo tham gia vào du lịch bao gồm: tăng cƣờng sự tiếp cận
của ngƣời nghèo đến các lợi ích kinh tế do du lịch mang lại thông qua việc
ngƣời nghèo có đƣợc các cơ hội việc làm và kinh doanh trong du lịch; xây
dựng biện pháp quản lý và giải quyết các tác động tiêu cực về môi trƣờng, xã
hội liên quan đến du lịch; xây dựng các chính sách quy chế quản lý và phát
triển du lịch nhằm tăng cƣờng sự tham gia của ngƣời nghèo và khuyến khích
sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và ngƣời nghèo trong việc phát triển các sản
phẩm du lịch mới.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) cũng có nhiều nỗ lực trong lĩnh
vực xoá đói giảm nghèo thông qua hình thức phát triển du lịch bền vững.
Năm 2002, tại Hội nghị ở Johannesburg, UNWTO đã đề xuất "Phát triển du
lịch bền vững nhƣ là một công cụ hữu hiệu cho giảm đói nghèo". Tổ chức
Phát triển Du lịch Bền vững nhằm Xoá đói Giảm nghèo (ST-EF Foudation)
đã đƣợc thành lập với nhiệm vụ hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho công cuộc
này.
Ở Việt Nam, du lịch cũng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc xác định là ngành
kinh tế mũi nhọn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

Nhà nƣớc rất khuyến khích phát triển du lịch tại các vùng sâu, vùng xa và các
vùng dân tộc ít ngƣời. Do vậy, nhiều tổ chức nhƣ SNV của Hà Lan nhằm hỗ
trợ Tổng cục Du lịch Việt Nam trong các vấn đề về phát triển du lịch bền
vững và xoá đói giảm nghèo trong các chƣơng trình phát triển của Việt Nam.
Tổ chức này cho rằng muốn phát triển du lịch bền vững, trƣớc hết hoạt động
du lịch đó phải vì ngƣời nghèo.
"Du lịch bền vững vì ngƣời nghèo (SPPT
*
) đã đƣợc tổ chức này đƣa ra
nhƣ sau: Du lịch bền vững vì ngƣời nghèo không nhất thiết phải là một loại

*
SPPT: Sustainable pro- poor tourism
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
20
hình sản phẩm du lịch cụ thể nhƣ du lịch sinh thái hoặc du lịch cộng đồng mà
nó mang tính chất một phƣơng thức tiếp cận về du lịch nhằm xoá đói giảm
nghèo - mục tiêu cơ bản của phát triển du lịch. Do vậy, SPPT có thể diễn ra
tại một bản miền núi xa xôi hẻo lánh hay nằm trong một khách sạn 4 sao nằm
giữa đô thị hay một khu an dƣỡng. [7,48]
Nhƣ vậy, khi xem xét các cơ hội cho SPPT, có thể áp dụng 2 phƣơng
pháp tiếp cận chính: sử dụng sản phẩm vì ngƣời nghèo và lồng ghép. Trong
đó, phƣơng pháp sử dụng sản phẩm vì ngƣời nghèo bao gồm phát triển các
sản phẩm du lịch tại các địa bàn đƣợc xếp vào loại nghèo, qua đó có thể phát
huy tối đa các cơ hội tạo thu nhập cho ngƣời dân nghèo địa phƣơng. Ví dụ, hỗ
trợ phát triển du lịch tại những điểm gần nơi sinh sống của các cộng đồng
nghèo miền núi hoặc vùng duyên hải, từ đó tạo các cơ hội việc làm và thu
nhập cho ngƣời dân nghèo địa phƣơng. Còn phƣơng pháp tiếp cận lồng ghép

lại nhằm mục tiêu nâng cao cơ hội thu nhập cho ngƣời dân nghèo sinh sống
trong và xung quanh các trung tâm du lịch đã đƣợc xây dựng hoặc mới phát
triển. Ví dụ, các khách sạn và các nhà hàng lớn tìm mua các sản phẩm và dịch
vụ do ngƣời nghèo cung cấp, hỗ trợ đào tạo hay công ăn việc làm cho ngƣời
nghèo.
Ngoài ra, tổ chức này còn phân tích các lý do chứng minh du lịch là
một công cụ hữu hiệu để ngƣời dân địa phƣơng xoá đói giảm nghèo nhƣ sau:
Thứ nhất: do quá trình sản xuất và tiêu thụ trong hoạt động du lịch
thƣờng diễn ra đồng thời. Điều đó cũng có nghĩa, khi khách du lịch đến một
điểm du lịch nào đó, họ thƣờng mua trực tiếp các sản phẩm hay các mặt hàng
do ngƣời dân địa phƣơng cung cấp. Việc tiêu thụ tại chỗ này đảm bảo rằng,
ngƣời dân địa phƣơng trong đó có cả ngƣời nghèo sẽ có thu nhập cao hơn và
nó còn hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế địa phƣơng nhiều hơn.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
21
Thứ hai: nhiều khu vực nghèo khó lại có lợi thế cạnh tranh hơn về chất
lƣợng tài nguyên du lịch so với các khu vực phát triển khác nhƣ các trung
tâm, đô thị Bởi, tại những khu vực này, các yếu tố nhƣ văn hoá, nghệ thuật,
âm nhạc, phong cảnh, thiên nhiên hoang dã và khí hậu hầu nhƣ vẫn giữ
nguyên vẹn các giá trị ban đầu của nó. Và, tất cả các yếu tố này mở ra cho các
địa phƣơng nghèo những cơ hội phát triển du lịch chất lƣợng cao và mang lại
thu nhập từ những sản phẩm có chất lƣợng cao ấy lại thƣờng cao hơn so với
các sản phẩm du lịch đại trà. Từ đó góp phần tăng thu nhập cho ngƣời dân
nghèo địa phƣơng góp phần cải thiện cuộc sống của họ và tăng thêm nguồn
ngân sách để phát triển cộng đồng.
Thứ ba: du lịch góp phần mở rộng địa bàn tạo công ăn việc làm cho
ngƣời dân địa phƣơng. Đặc biệt là các khu vực hẻo lánh nằm cách xa các
trung tâm hoạt động kinh tế, đó có thể là những nơi không có nhiều phƣơng

án phát triển kinh tế hoặc không đƣợc quan tâm để phát triển kinh tế.
Thứ tƣ: du lịch là một ngành đa dạng và linh hoạt có thể giúp cho
ngƣời dân nghèo địa phƣơng mở ra rất nhiều cơ hội tạo thu nhập, việc làm
thƣờng xuyên và việc làm bán thời gian. Đồng thời, du lịch còn có tác động
rất lớn đối với nền kinh tế địa phƣơng, vì chi tiêu trực tiếp cho du lịch góp
phần thúc đẩy kinh tế địa phƣơng phát triển.
Thứ năm: du lịch thu hút nhiều lao động, đây là yếu tố đặc biệt quan
trọng trong cuộc chiến chống lại đói nghèo. Du lịch tạo nhiều cơ hội để ngƣời
nghèo có thể dễ dàng kiếm công ăn việc làm và đƣợc rèn luyện kỹ năng để
chuẩn bị cho những công việc khác.
Thứ sáu: du lịch tuyển dụng và mang lại lợi ích kinh tế cho nhiều phụ
nữ và thanh niên hơn hầu hết các ngành khác. Từ đó, du lịch góp phần quan
trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển cho trẻ em và phá bỏi vòng luẩn quẩn của
đói nghèo.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
22
Thứ bảy: du lịch tạo cơ hội cho nhiều doanh nghiệp nhỏ và là một
ngành đòi hỏi chi phí khởi nghiệp tƣơng đối thấp và hầu nhƣ ít rào cản đối với
những ngƣời muốn tham gia hoặc cho phép ngƣời nghèo tham gia một cách
dễ dàng.
Thứ tám: du lịch mang lại nhiều lợi ích phi vật chất cho ngƣời nghèo
nhƣ nâng cao niềm tự hào về văn hoá, nhận thức rộng hơn về môi trƣờng tự
nhiên và giá trị kinh tế của nó, ý thức giảm nhẹ tính dễ tổn thƣơng nhờ đa
dạng hoá nguồn thu nhập.
Thứ chín: cơ sở hạ tầng du lịch có thể mang lại lợi ích cho các cộng
đồng nghèo, nhờ cải thiện điều kiện giao thông và thông tin liên lạc, cung cấp
nƣớc, điều kiện vệ sinh, an ninh công cộng và các dịch vụ y tế, tất cả những
yếu tố này cùng mang lại lợi ích cho du lịch cũng nhƣ sự phát triển của cộng

đồng.
Nhƣ vậy, có thể thấy rõ phát triển du lịch vì ngƣời nghèo là một công
cụ hết sức linh hoạt để tìm ra nhƣng giải pháp sáng tạo cho vấn đề xoá đói
giảm nghèo trong những bối cảnh phát triển du lịch khác nhau.
1.3.2. Các phƣơng thức của du lịch vì ngƣời nghèo
Có một số phƣơng thức để sự phát triển của hoạt động du lịch có thể
trực tiếp mang lại lợi ích cho ngƣời nghèo và ngƣợc lại, ngƣời nghèo có thể
đem lại lợi ích cho sự phát triển du lịch:
Tuyển dụng ngƣời nghèo vào làm việc tai các doanh nghiệp du lịch:
bằng cách hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho ngƣời nghèo trong mọi loại hình
kinh doanh du lịch nhƣ khu an dƣỡng, khách sạn, các hoạt động thu hút du
khách và các dịch vụ du lịch. Phƣơng pháp tiếp cận này đòi hỏi công tác
tuyển dụng và đào tạo tích cực, ngoài ra sẽ có chế độ khen thƣởng đối với các
doanh nghiệp du lịch có đội ngũ nhân viên địa phƣơng làm việc nhiệt tình, tận
tuỵ và ít thay đổi cán bộ.
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
23
Cung cấp hàng hoá và dịch vụ của ngƣời nghèo cho các doanh nghiệp
du lịch. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành du lịch mua hàng hoá và các
dịch vụ trực tiếp từ ngƣời dân nghèo địa phƣơng sẽ góp phần tối đa hoá lợi
ích kinh tế. Đồng thời, với việc sử dụng những sản phẩm có xuất xứ từ địa
phƣơng doanh nghiệp có thể giảm bớt chi phí hoạt động, đem đến cho khách
hàng hƣơng vị của địa phƣơng vào kiến tạo những mối quan hệ tích cực với
ngƣời dân ở đó, điều này sẽ khiến du khách trải nghiệm thực tế tốt hơn.
Phƣơng pháp tiếp cận này thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp du lịch
làm việc với các nhà cung cấp dịch vụ và sản phẩm của địa phƣơng nhằm
đảm bảo mang đến cho khách hàng những sản phẩm và dịch vụ đạt chất lƣợng
đúng nhƣ mong muốn.

Hỗ trợ nền kinh tế không chính thống: tạo điều kiện cho ngƣời dân
phục vụ khách du lịch thông qua việc trực tiếp cung cấp sản phẩm và dịch vụ
cho khách du lịch. Hoạt động này có thể là bán thức ăn, hoa quả, đồ thủ công
mỹ nghệ, cung cấp dịch vụ hƣớng dẫn du lịch, dịch vụ chuyên chở khách.
Đây là nền kinh tế không chính thống và ít đƣợc kiểm soát, nó thƣờng đòi hỏi
phải có sự hỗ trợ và điều phối để các sản phẩm và dịch vụ đƣợc cung cấp một
cách có tổ chức và với tinh thần tôn trọng du khách.
Hỗ trợ nền kinh tế chính thống: hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp du
lịch để ngƣời dân nghèo quản lý sẽ không chỉ đem lại các cơ hội tạo thu nhập
cho các cá nhân và hiệp hội ngƣời nghèo, mà còn hỗ trợ phát triển du lịch
mang đậm màu sắc và không khí của địa phƣơng. Có đƣợc những cơ hội đúng
đắn, nhiều ngƣời nghèo sẽ gặt hái đƣợc những thành công tại các doanh
nghiệp hoạt động trong ngành du lịch nhƣ: cung cấp cơ sở lƣu trú, nhà hàng,
dịch vụ đi lại, cửa hàng bán hàng lẻ, hƣớng dẫn du lịch, phiên dịch cho du
khách về các di sản văn hoá và thiên nhiên, dịch vụ vui chơi giải trí và các
"Xây dựng mô hình du lịch vì ngƣời nghèo tại vƣờn quốc gia Cúc
Phƣơng"
Lê Thu Hƣơng Học viên lớp cao học du lịch K2
24
dịch vụ khác nữa. Hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động này thƣờng là dƣới hình
thức vay vốn cớ nhỏ và đào tạo phát triển kinh doanh.
Nhƣ vậy, trên đây là bốn phƣơng thức giúp cho ngƣời nghèo có thể
hƣởng lợi từ du lịch và hoạt động du lịch cũng có đƣợc những lợi ích từ ngƣời
nghèo.
1.3.3. Kinh nghiệm phát triển du lịch vì ngƣời nghèo tại một số quốc gia
1.3.3.1. Kinh nghiệm phát triển du lịch dựa vào cộng đồng của Thái Lan [29]

Thái Lan với bề dày lịch sử, văn hoá và sự hấp dẫn của thiên nhiên đã
đóng góp mạnh mẽ cho sự phát triển du lịch. Theo Stephanie Thullen, Tổ
chức phi chính phủ PRLC

*
đã tiến hành Dự án phát triển du lịch cộng đồng
các xã Baan Huay Hee phía Tây Bắc tỉnh Mae Hong Son nơi đó là vùng dân
tộc thiểu số Karen.
Mục tiêu của dự án là:
- Nâng cấp chất lƣợng cuộc sống của dân cƣ
- Bảo tồn và củng cố nền văn hoá Karen
- Khuyến khích, động viên dân cƣ tự quyết định cách sinh sống của họ
- Đóng góp cho sự bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trƣờng
Du lịch Thái Lan phát triển mạnh từ thủ đô Bangkok đến hầu hết mọi
miền của đất nƣớc. Từ những năm 70, sự hấp dẫn của tài nguyên thiên nhiên,
văn hoá, lịch sử và sự thân thiện của những ngƣời dân đã làm cho miền Bắc
Thái Lan trở thành một điểm đến hấp dẫn với các bộ tộc vùng cao là Akha,
H
'
Mông, Karen, Lahu, Lisu, Shan, Mien và Haw Chinese. Đến năm 1990, du
lịch bộ tộc vùng cao đã chính thức đƣợc tổ chức. Trong thập kỷ vừa qua, Mae
Hong Son đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn với các đỉnh núi mờ sƣơng,
rừng rậm và nhiều loại văn hoá bộ tộc vùng cao.

*
PRLC: The Project for Recovery of Life and Culture

×