SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. “Văn học là nhân học”, “Học văn là học làm người”, “Nghề dạy học là nghề
cao quý nhất”, “Thầy cô là kỹ sư tâm hồn”… Những ý kiến trên đem lại cho người
dạy văn, học văn bao nhiêu tự hào thì cũng đặt lên vai chúng ta bấy nhiêu đòi hỏi
về trách nhiệm. Dạy văn, học văn vốn đã không đơn giản, giờ đây trước cơn bùng
phát của công nghệ thông tin, trước cơn bão táp của văn hoá nghe nhìn thì vấn đề
càng trở nên khó khăn hơn.
Ngày nay, học sinh học văn (theo nghĩa là được gia đình định hướng học các
khối có môn Ngữ văn, hoặc bản thân chịu học, muốn học môn học này) đã hiếm,
học sinh yêu thích và học giỏi văn càng hiếm, hiếm hơn nữa là ở một số huyện
miền núi nghèo như Thường Xuân! Ấy vậy mà không phải khi nào có “của hiếm”
trong tay, người thầy, người cô dạy văn chúng ta cũng có thể phát huy tận độ tài
năng và tâm huyết để hỗ trợ, giúp các em thành những viên ngọc sáng!
1.2. Là giáo viên văn nhiều năm giảng dạy, được trực tiếp tham gia bồi dưỡng học
sinh giỏi (HSG) qua một số năm học, chúng tôi hiểu sự tự hào, niềm hạnh phúc
cũng như những khó khăn, vất vả, nhọc nhằn của công việc này. Tìm được học sinh
có tố chất rồi, người thầy phải nỗ lực tìm tòi, sáng tạo để nhân lên tình cảm của các
em với bộ môn, bồi dưỡng các em thành HSG thực thụ và được ghi nhận- Một áp
lực không hề nhỏ.
1.3. Phương pháp dạy học văn trong những năm gần đây đã trở thành vấn đề được
giới chuyên môn và xã hội quan tâm, vấn đề dạy thế nào để học sinh có hứng thú
và được phát huy trong những giờ văn, làm thế nào để nâng cao chất lượng đài trà,
làm thế nào để học sinh đạt kết quả tốt nghiệp cao…Công tác bồi dưỡng HSG cũng
đã được quan tâm, nhưng vẫn còn quá it, vấn đề bồi dưỡng HSG ở miền núi, vùng
đặc biệt khó khăn dường như vẫn còn rất nhiều khoảng trống.
1.4. Bồi dưỡng HSG là nhiệm vụ vinh quang và là trách nhiệm nặng nề. Đảm
nhiệm nhiệm vụ ấy chúng tôi có nhiều băn khoăn: từ chọn đồi tuyển, lên chương
trình, nội dung và phương pháp thực hiện… Bằng sự nỗ lực tìm tòi, học hỏi, trao
đổi với các thầy cô trong trường ĐH và các đồng nghiệp ở các trường THPT, từ
thực tiễn trải nghiệm với cả những thành công và thất bại của bản thân và đồng
nghiệp. Tôi mong muốn chia sẻ một số kinh nghiệm về công tác này.
Những lí do trên đã thôi thúc tôi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với
đề tài : Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Ngữ Văn khối THPT thuộc địa bàn miền núi.
Với mong muốn là được chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, hy
vọng bản sáng kiến kinh nghiệm này sẽ giúp ích ít nhiều cho các giáo viên khác khi
bắt tay vào công việc nặng nề : Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn THPT, đặc biệt ở khu
vực miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Rất mong đón nhận được nhiều ý kiến góp ý
từ các đồng nghiệp.
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
2. ĐÓNG GÓP CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SKKN lần đầu tiên đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bồi
dưỡng HSG Ngữ văn ở khu vực miền núi.
SKKN nêu quan điểm cần mạnh dạn cho phép học sinh được tham gia nghiên
cứu, được “đóng vai” Thầy cô giáo nhằm thúc đẩy ở các em tư duy tích cực,
phương pháp học tập khoa học.
SKKN có thể là một tài liệu hỗ trợ giáo viên mới ra trường hoặc chưa nhiều
kinh nghiệm bồi dưỡng HSG, đặc biệt hữu ích với những giáo viên công tác tại
miền núi được đảm trách nhiệm vụ bồi dưỡng HSG.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TÌNH HÌNH THỰC TIỄN CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
1.1 CỞ SỞ LÍ LUẬN
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, đầy những
khó khăn, bởi vì học sinh giỏi là những học sinh có tố chất đặc biệt khả năng cảm
thụ, khả năng tư duy và nhất là khả năng viết. Người giáo viên phải có quá trình
tích lũy kinh nghiệm, sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn để có thể đạt hiệu quả và
thuyết phục học sinh ,làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN- TÌNH HÌNH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC
1.2.1 Thuận lợi:
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Bản thân là giáo viên có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu, tôi có
nhiều thời gian tìm tòi, đọc các tác phẩm văn học, tham khảo nhiều tài liệu, các
sách báo khác qua nhiều chương trình phổ thông khác nhau, từ cải cách qua phân
ban, từ chương trình chuẩn đến chương trình nâng cao suy ngẫm và chắt lọc về
chuyên môn, giúp ích cho việc dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Đam mê tích lũy được nhiều đề thi học sinh giỏi trong tỉnh, các đề học sinh giỏi
ở các tỉnh khác và đề thi học sinh giỏi olimpic khu vực và học sinh giỏi quốc
gia,.v.v có ghi chép và cập nhật thường xuyên.
+ Bản thân được tham gia các lớp tập huấn, các hội nghị về bồi dưỡng học sinh giỏi
ở nhiều cấp khác nhau; có năm được Sở Giáo dục và Đào tạo cử tham gia ra đề thi
học sinh giỏi vòng tỉnh. Nhiều năm tham gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi từ
đó rút ra được những kinh nghiệm cần thiết về kiến thức, phương pháp làm bài
áp dụng vào quá trình bồi dưỡng.
Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
2
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
+ Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi (HSG) các môn văn hóa là một công tác mũi
nhọn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài
cho nhà trường nói riêng, cho ngành giáo dục tỉnh nhà nói chung. Các trường
THPT đã xác định rõ vai trò của công tác giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi các
khối lớp nên đã đề ra kế hoạch và phân công cụ thể ngay từ đầu năm học.
+ Bản thân bộ môn Văn là một bộ môn quan trọng, có một vị trí đặc biệt trong
trường phổ thông, ảnh hưởng đến việc xếp loại học lực của học sinh. Môn Văn còn
là một bộ môn nghệ thuật, có sức hấp dẫn riêng nếu chúng ta biết khai thác để tạo
hứng thú cho học sinh.
+ Tuy trường ở địa bàn miền núi xa xôi, thuộc huyện nghèo, đặc biệt khó khăn
nhưng được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh trang bị tài liệu sách báo tham khảo ở thư
viện, mạng internet khá đầy đủ để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một
cách thoải mái, dễ dàng.
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức
đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Các thầy cô đồng nghiệp trong tổ, trong
trường tích cực ủng hộ.
+ Quý phụ huynh học sinh đồng tình và tạo điều kiện, khuyến khích con em theo
học bồi dưỡng. Một số học sinh có năng khiếu cũng tích cực tham gia đội tuyển và
chuyên chăm trong việc rèn luyện
1.2.2. Khó khăn:
- Về chủ quan: Bản thân là phụ nữ điều kiện gia đình còn nhiều vấn đề khó khăn,
thời gian eo hẹp, đòi hỏi phải vất vả sắp xếp cho việc bồi dưỡng.
- Về khách quan :
+ Trong điều kiện hiện nay, quan niệm của xã hội nói chung về việc học bộ môn
Văn còn một số sai lệch, tồn tại, ảnh hưởng đến tinh thần học tập và sự quan tâm
của đại đa số học sinh, không thuận lợi cho việc chọn lựa và thành lập đội tuyển.
+ Về phía học sinh, ngoài vấn đề năng khiếu do học chương trình chính khóa phải
học quá nhiều môn, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG thành thử rất hạn chế
về thời gian tự học nên các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG, do
đó kết quả chưa như mong muốn. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý
thức coi nhẹ môn Văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự
nhiên, môn ngoại ngữ mới chịu vào đội tuyển Văn. Ngoài ra áp lực thi ĐH cũng
khiến không ít em học sinh lo ngại khi tham gia đội tuyển, động lực chưa rõ, quyết
tâm đoạt giải của các em chưa cao.
+ Từ phía người thầy, đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bám sát việc thực
hiện theo phân phối chương trình, phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải hoàn
thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm do đó cường độ làm
việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn chế
(người thầy không có điều kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ giảng, thời gian tập
trung bồi dưỡng cũng không nhiều- thường được tính là 10 buổi)
Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm
của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
3
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Một số khó khăn khác đôi khi gặp phải là có giáo viên giỏi nhưng chưa thực sự
gắn bó với công tác bồi dưỡng HSG vì nhiều lý do khác nhau. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng BDHSG cũng như kết quả của công tác này.
+ Thời gian bồi dưỡng tập trung ngắn, kinh phí chi cho công tác bồi dưỡng HSG
không nhiều
1.2.3. Sơ lược tình hình:
Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi
qua một số năm học như sau:
Từ 2000-2008 mỗi năm có đội tuyển là 10 em nhưng số lượng đạt giải không
nhiều, thường là giải khuyến khích cấp tỉnh.
Từ 2009- nay, ở những khoá học được áp dụng thực hiện đề tài mỗi năm đội
tuyển cũng có 10 em nhưng số lượng đạt giải và chất lượng giải có tăng lên đáng
kể. Kết quả có sự phát triển rõ rệt, học sinh chủ động và lạc quan khi tham gia vào
đội tuyển, học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả khi làm bài. Chủ
động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ hướng dẫn của giáo
viên bồi dưỡng. Hàng năm, 10 em tham gia vào đội tuyển của trường đều đạt kết
quả rất khả quan. Đáng khích lệ hơn là số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh tăng rất
nhiều so với trước đây và đặc biệt ở một ngôi trường vùng núi và chất lượng đầu
vào lớp 10 còn rất thấp lại có học sinh đạt giải nhì, giải ba.
CHƯƠNG 2
YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN THPT
2.1. YÊU CẦU
2.1.1 Yêu cầu đối với giáo viên dạy bồi dưỡng môn Ngữ văn
- Muốn có HSG phải có Thầy giỏi vì thế người thầy phải luôn luôn có ý thức tự
rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là
“người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư
liệu, có kiến thức nâng cao trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa
chọn trang Web nào hữu ích nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề
hay, khả quan nhất để sưu tầm tài liệu…
- Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh nghiệm
của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu. Cái có được lớn
nhất mà bản thân chúng tôi nhận thấy đó là tinh thần trách nhiệm, là sự nhiệt tình
của các thầy cô giáo trong suốt quá trình ôn tập. Thiết nghĩ, chúng ta cần coi bồi
dưỡng đội HSG là nhiệm vụ chung của tổ chuyên môn.
- Các thầy cô giáo giỏi, có kinh nghiệm cần xây dựng chương trình, nội dung, hệ
thống luyện tập cụ thể đầy đủ chi tiết, đúc kết kinh nghiệm thành tài liệu chung quý
giá của nhà trường qua các thế hệ, truyền đạt lại cho các lực lượng trẻ. Các thầy cô
giáo trẻ cần tích cực chủ động nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, tận dụng công nghệ
thông tin để tích luỹ kiến thức nâng cao trình độ. Lấy nỗ lực của bản thân là chính,
4
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
coi việc học hỏi vốn kiến thức, kinh nghiệm của các thế hệ đi trước là quan trọng
trong việc định hướng tìm tòi, xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng, phương pháp
để đạt được hiệu quả cao trong thời gian ngắn nhất.
2.1.2. Yêu cầu đối với học sinh tham gia đội tuyển:
Theo quan điểm của đại đa số giáo viên giảng dạy Ngữ văn thì yêu cầu đối
với một HSG văn gồm nhiều yếu tố và tiêu chuẩn khá cao, cụ thể:
Học sinh tham gia đội tuyển học sinh giỏi văn trước hết phải là những học sinh có
niềm say mê, yêu thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường
xuyên, liên tục và bằng ý thức tự giác trong học tập, như soạn bài cẩn thận chu đáo,
luôn chủ động tiếp thu kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức
trách nhiệm trong các bài làm văn theo quy định của chương trình và những bài
luyện tập, thực hành rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp
các em chịu khó tìm tài liệu để mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp
học sinh phát huy được trí tưởng tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với
những cái mình đã đọc, đã học.
HSG văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu nhanh,
có trí nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý
tưởng mới trong bài làm).
HSG văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều thơ văn trong và
ngoài chương trình qua sự tìm đọc, tích luỹ; phải có sự hiểu biết càng nhiều càng
tốt về con người và xã hội.
Một trong những biểu hiện không thể thiếu và thường dễ phát hiện ở HSG văn là
rất giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề, trước cuộc sống. Biểu
hiện thường thấy ở những học sinh này là dễ vui nhưng cũng rất dễ buồn trước
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và nhất là do sự tác động qua lời giảng của giáo
viên. Thường thì đây là những học sinh sống rất tình cảm, thích gần gũi với thầy
cô, bạn bè và với mọi người, hay bộc lộ quan điểm tình cảm và chiều sâu nội tâm
của mình thông qua cách phát biểu trực tiếp hoặc gián tiếp qua các bài viết. Sự
nhạy cảm ở các em luôn gắn liền sự thông minh và đó là sự thông minh của cả khối
óc lẫn con tim.
HSG văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào, biết sử dụng chính
xác chúng trong những trường hợp khác nhau. Thường những em HSG văn đều có
khả năng diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, diễn đạt hàm súc và có
bản sắc riêng. Năng khiếu ở HSG văn thường đi kèm với các biểu hiện bên ngoài
như ánh mắt sáng, cách nói lưu loát, gãy gọn bởi ngôn ngữ diễn đạt là cái vỏ của
tư duy. Một học sinh hay nói lay, nói lặp, nói dài dòng mà lượng thông tin ít, khả
năng lựa chọn ngôn ngữ trong diễn đạt hạn chế quyết không thể là một học sinh
có tư duy trong sáng và có năng khiếu học văn. HSG văn thường là những học sinh
nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
Tuy nhiên ở địa bàn miền núi, đặc biệt như trường THPT Cầm Bá Thước, với chất
lượng học sinh vào lớp 10 rất thấp, chúng tôi không thể đòi hỏi quá cao ở chất
5
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
lượng học sinh tham gia đội tuyển, yêu cầu đối với học sinh được chọn bồi dưỡng
là có niềm say mê, yêu thích văn chương, giàu cảm xúc, có khả năng sáng tạo.
2.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
BỒI DƯỠNG HSG NGỮ VĂN
2.2.1. Xác định đối tượng bồi dưỡng ( thành lập đội tuyển)
- Chuẩn bị : Ngay từ đầu năm học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã được đề ra như
một công tác trọng tâm của Tổ Văn, được ghi cụ thể trong bản kế hoạch năm học
của Tổ. Vì vậy, đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng giáo viên được phân công bồi
dưỡng, mà là nhiệm vụ của cả Tổ đã được quán triệt đến mỗi giáo viên trong Tổ.
Trong Học kì I, các Giáo viên dạy Văn khối lớp 10 có nhiệm vụ điều tra (học sinh
giỏi Văn ở cấp THCS chuyển lên) và theo dõi trong những lớp mình dạy để tìm ra
“những học sinh khá-giỏi Văn” giới thiệu cho Giáo viên bồi dưỡng làm cơ sở thành
lập đội tuyển.
- Tìm hiểu : Từ yêu cầu đối với học sinh tham gia đội tuyển (2.1.2) áp dụng vào
thực tế, sau khi thi xong Học kì I- lớp 10, Giáo viên bồi dưỡng tìm đọc những bài
viết số 1,2,3 và bài thi Học kì của những “ứng viên” mà Giáo viên bộ môn đã giới
thiệu để thẩm định năng lực, đồng thời căn cứ vào xếp loại học tập của Học kì I
(loại Khá trở lên) để chọn ra những học sinh có đủ điều kiện theo tiêu chuẩn và tiêu
chuẩn riêng mang tính chất chủ quan của Giáo viên bồi dưỡng (chữ đẹp, văn viết
khá ).
- Gặp gỡ : Giáo viên bồi dưỡng chủ động sắp xếp thời gian gặp gỡ các em được
chọn :
+ Tìm hiểu quan điểm cũng như cách học, cách tiếp nhận bộ môn Văn trong quá
trình học tập. Từ đó chỉ thu nhận những em học sinh có niềm đam mê, thích thú với
bộ môn Văn. Kiên quyết không đưa vào đội tuyển những em học sinh có cái nhìn
lệch lạc về môn Văn hoặc chán học Văn, cho dù đôi khi cái chán của học sinh bắt
nguồn từ Giáo viên dạy ở lớp.
+ Tìm hiểu hướng đi tương lai của các em, nhất là việc chọn khối thi vào trường
Đại học sau này. Không chọn những học sinh chỉ thi vào khối A, B mà chỉ chọn
những học sinh có nguyện vọng thi vào khối C, D
+ Trao đổi với các em được chọn về việc thành lập đội tuyển học sinh giỏi Văn để
các em biết, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tham gia đội tuyển để các
em có cái nhìn trước. Chỉ những em tự nguyện tham gia mới được đưa vào danh
sách đội tuyển chính thức của trường.
- Chốt danh sách đội tuyển của trường : Các tiêu chuẩn trên chú trọng đến chất
lượng của đội tuyển, không chú trọng số lượng, tuy nhiên để khích lệ cũng là tạo
điều kiện cho các em đội dự tuyển có thể chọn nhiều hơn. Danh sách đội tuyển
được lọc dần qua các kỳ thi HSG cấp trường. Danh sách đội tuyển chính thức sẽ
được chốt trước kì thi 1 tháng.
Như vậy, có thể nói kinh nghiệm trong việc tuyển chọn và thành lập đội tuyển
học sinh giỏi Văn của Trường là :
6
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
. Công việc không của riêng ai, mà là công việc chung của cả Tổ. Tất nhiên trong
đó Giáo viên bồi dưỡng đóng vai trò chủ yếu.
. Chỉ chọn những học sinh có đủ các tiêu chuẩn sau : viết chữ đẹp, văn viết khá, học
lực chung được xếp loại khá trở lên, có niềm đam mê với Văn học, có hướng đi thi
Đại học ở 2 khối C-D, tự nguyện tham gia đội tuyển.
2.2.2. Thời gian bồi dưỡng :
Sau khi có được đội tuyển, Giáo viên bồi dưỡng bắt tay ngay vào việc bồi
dưỡng học sinh giỏi. Thời gian bồi dưỡng được chia làm các giai đoạn :
- Giai đoạn khởi động - Giai đoạn khởi động sẽ chia hai chặng nhỏ:
+ Học kì II lớp 10, thời gian linh hoạt tùy theo thời khóa biểu học trên lớp của học
sinh. Số lượng buổi học và giờ học được Giáo viên và học sinh thỏa thuận sau mỗi
buổi học. Cố gắng ổn định được 1 buổi/ tuần (3 tiết x 15 tuần, 45 tiết)
+ Hè lớp 10, đây là thời gian tương đối rộng rãi đối với học sinh. Ngay từ cuối năm
học, Giáo viên tranh thủ sắp xếp giờ học cố định (tối thiểu mỗi tuần 1 buổi, 3 tiết x
8 buổi, 24 tiết) và giờ học linh hoạt cho học sinh- phù hợp với thời gian biểu hè của
các em- nhưng vẫn phải ưu tiên cho việc học bồi dưỡng, cố gắng được 1 buổi/ tuần
( tổng khoảng 20-30 tiết). Tổng thời gian ôn tập hè khoảng 50 tiết
- Giai đoạn tăng tốc- Giai đoạn tăng tốc cũng sẽ chia hai chặng nhỏ:
+ Năm học lớp 11:
~ Học kì I, đây là thời gian chạy nước rút, học sinh cần ưu tiên tối đa về thời gian
cho việc bồi dưỡng. (17 tuần x 2 buổi x 3 tiết = 102 tiết), qua giai đoạn này một số
học sinh có kết quả ôn luyện vượt trội đã có thể tham dự kì thi HSG cấp tỉnh.
~Khoảng thời gian còn lại của năm học, áp lực thi Đại học chưa lớn, các em vẫn có
thể ưu tiên cho việc bồi dưỡng (khoảng 15 tuần x2 buổi x3 tiết = 90 tiết)
+ Hè lớp 11: Tương tự như hè lớp 10, tuy nhiên lúc này lượng kiến thức đã rất
nhiều, đòi hỏi cô trò đều phải phát huy nhiệt tình, tâm huyết ( khoảng 70 tiết)
- Giai đoạn về đích- Giai đoạn này cũng sẽ chia thành các chặng:
+ Học kì I lớp 12, khoảng 17 tuần x 3 buổi x 3 tiết = 153 tiết, tiếp tục bổ sung kiến
thức và tăng cường thực hành.
+ Đầu học kì II, khoảng 4-5 tuần x 2 buổi x 3 tiết = 30 tiết(Thường thì giai đoạn
này giáo viên bồi dưỡng mới được tính thù lao), rà soát lại chương trình ôn, chuẩn
bị về đích.
Tổng cộng thời gian bồi dưỡng của cả quá trình khoảng 500 tiết. Tuy không phải
là nhiều so với khối lượng kiến thức phải bồi dưỡng nhưng đủ để gây một áp lực
khá nặng nề, nhất là về mặt thời gian và công việc đối với cả cô và trò .
Kinh nghiệm rút ra về thời gian bồi dưỡng là :
. Không chờ đến đầu học kì II lớp 12 (giai đoạn có tính tiết thù lao) mới bồi
dưỡng mà phải bắt đầu ngay từ đầu học kì II năm lớp 10, sớm nhất có thể, liên
thông suốt cả 3 năm học
. Thời gian linh hoạt, cho học sinh tự sắp xếp, không gò bó học sinh, nhưng
phải bảo đảm ưu tiên cho thời gian bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2.3. Địa điểm bồi dưỡng:
7
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Địa điểm bồi dưỡng không nhất thiết phải là trong lớp học. Nơi phù hợp nhất
là khung cảnh ngoài trời, nơi thoáng mát như dưới bóng cây sân trường, trong công
viên. Giáo viên nên linh hoạt thay đổi điểm bồi dưỡng để tạo sự hứng thú và thoải
mái cho học sinh.
2.2.4. Nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng :
Biên soạn chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng
khối, lớp, về từng mảng kiến thức theo số tiết quy định nhất định và nhất thiết phải
bồi dưỡng theo quy trình từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để các em HS bắt nhịp dần.
Xác định rõ trọng tâm kiến thức giảng dạy cho từng khối lớp để tránh trùng lặp.
Chương trình bồi dưỡng cần có sự liên thông trong suốt 3 năm liền (từ lớp 10 đến
lớp 12 )
Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm
nhận riêng. Vì lẽ đó, bên cạnh những cách thức bồi dưỡng đã trở thành truyền
thống, SKKN cũng đề xuất một số cách thức mới, hiệu quả cho công tác bồi dưỡng
HSG Văn.
Về nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng, chúng tôi xin trình bày ở
chương III
CHƯƠNG 3
NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH VÀ CÁCH THỨC BỒI DƯỠNG
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN THPT
3.1 MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ
Chúng tôi cho rằng việc dạy HSG phải luôn thực hiện được mục tiêu giáo dục-
đó là mục tiêu về kiến thức, kỹ năng, về tư tưởng tình cảm. Quá trình bồi dưỡng
học sinh chúng ta đang chú trọng việc nâng cao kiến thức và kỹ năng, nghĩa là
hướng tới giúp học sinh phát huy năng lực văn học (tiếp nhận và tạo lập) cụ thể học
sinh cần có được:
- Khả năng nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, sâu sắc các vấn đề xã hội
- Khả năng nhận biết và lí giải được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học một
cách tinh tế, chính xác và có sức thuyết phục trong sự gắn bó giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật.
- Chỉ ra được cái độc đáo, không lặp lại của tác phẩm được cảm nhận.
- Có những nhận xét, đánh giá mang màu sắc cá nhân, độc đáo, mới mẻ của người
viết.
- Có kĩ năng viết bài văn hay
Như vậy có thể thấy rằng quá trình bồi dưỡng HSG sẽ là quá trình tổng hoà
các yếu tố nội dung, chương trình và cách thức bồi dưỡng gồm cung cấp kiến
thức, hướng dẫn tự học và rèn luyện kỹ năng
8
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
3.2. XÂY DỰNG NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
Để thực hiện mục tiêu bồi dưỡng HSG nói chung và bồi dưỡng HSG Ngữ văn
nói riêng, chúng ta gặp một số khó khăn lớn- đó là Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa
thể xây dựng một chương trình giáo dục đặc biệt dành cho HSG, tài năng ở tất cả
các môn học trong đó có môn Ngữ văn. Vụ THPT có chăng mới chỉ ban hành Tài
liệu trong Hội nghị tập huấn giảng dạy dành cho cán bộ chỉ đạo hoặc một số ít giáo
viên có học sinh chuẩn bị tham gia kì thi HSG Quốc gia. Thành thử để bồi dưỡng
HSG, mỗi trường, mỗi Tổ bộ môn, mỗi GV lại xây dựng một chương trình riêng
nên khó cho công tác bồi dưỡng cũng như khó thống nhất trong một số tiêu chí lựa
chọn, đánh giá HSG.
Vậy Bộ Giáo dục và Đào tạo cần xây dựng một chương trình giáo dục đặc biệt
dành cho HSG, tài năng. Chương trình này cần xây dựng theo quan điểm phát triển,
được bổ sung, điều chỉnh theo sự phát triển của khoa học và phù hợp với nhu cầu
phát triển của đất nước. Xây dựng chương trình ngoài các chuyên gia đầu ngành
còn cần sự đóng góp của các giáo viên đã và đang bồi dưỡng HSG cấp tỉnh, cấp
Quốc gia.
Tuy nhiên, điều đó vẫn còn nằm trong mong mỏi của giáo viên, học sinh và
trong khi chờ đợi một chương trình như thế, mỗi giáo viên trực tiếp tham gia bồi
dưỡng HSG cần tự nghiên cứu, học hỏi và dựa vào cơ sở thực tế để xây dựng một
chương trình cụ thể, phù hợp.
3.2.1. Về kiến thức
a. Kiến thức xã hội
Kiến thức xã hội rộng vô cùng, chính vì thế mà sẽ không một giáo viên nào
nên tham vọng sẽ cung cấp cho học sinh đủ kiến thức xã hội- dù chỉ là cơ bản.
Vậy chương trình nên giúp các em biết cấu trúc chung dàn ý của các dạng bài
nghị luận về một tưởng đạo lí, một hiện tượng đời sống và nghị luận về một vấn đề
xã hội trong tác phẩm văn học ( chưa học, đã học), biết cách triển khai ý, cách lập
luận và tìm các phương thức biểu đạt cho bài văn nghị luận xã hội.
Giáo viên có thể cung cấp các dẫn chứng trong thực tế, trong lịch sử để phục vụ tốt
cho bài viết của học sinh trong quá trình làm bài.
b. Kiến thức văn học
Bao gồm:
- Kiến thức tác phẩm
- Kiến thức văn học sử
- Kiến thức lí luận văn học
- Kiến thức văn hoá tổng hợp
* Kiến thức tác phẩm: Rất nhiều, trong đó bắt buộc HS cần nắm kiến thức sách
giáo khoa, ngoài ra cần phải mở rộng kiến thức ngoài SGK.
- Yêu cầu:
+ Chọn lọc : Tác phẩm đạt trình độ cổ điển
+ Hệ thống:
Theo văn học sử
9
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Theo đề tài
+ Chính xác : Câu chữ và chi tiết
Cách đọc mở rộng:
(Ảnh chụp màn hình slide10, slide11 bài giảng PowePoint Bồi dưỡng và đánh giá
học sinh giỏi môn Ngữ Văn theo chương trình mới của Gs.Ts Đỗ Ngọc Thống)
* Kiến thức văn học sử
- Nắm được vai trò và ý nghĩa của văn học sử
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm ( tiếp nhận)
+ Viết dạng đề văn học sử tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các dạng bài văn học sử
+ Tác phẩm lớn
+ Tác gia
+ Xu hướng / Giai đoạn ( thời kỳ)
+ Nền văn học
- Nắm được yêu cầu
+ Đặc điểm lịch sử và những tác động của chúng
+ Những tác giả và tác phẩm tiêu biểu
10
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
+ Đặc sắc nội dung và nghệ thuật lớn
+ Vai trò và tác dụng
* Kiến thức lí luận văn học
- Nắm được vai trò và ý nghĩa của LLVH
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm ( tiếp nhận)
+ Viết dạng đề LLVH tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các nội dung LLVH cơ bản
+ Một số khái niệm/ thuật ngữ văn học cơ bản
+ Một số vấn đề LLVH cơ bản
- Nắm được yêu cầu
+ Nội dung cơ bản của khái niệm/ vấn đề LLVH
+ Vai trò và ý nghĩa của khái niệm/ vấn đề LLVH ấy đối với người học/ người đọc
+ Vận dụng được trong tiếp nhận và tạo lập văn bản
* Một số vấn đề LLVH quan trọng
- Tác phẩm văn học: đặc trưng và cấu trúc
+ Đặc trưng : ngôn từ và lao động ngôn từ, tính đa nghĩa (polyphonie) và tính ổn
định (constant)
+ Cấu trúc: Nội dung và hình thức ( loại, thể…)
- Tiếp nhận và phân tích TPVH
+ Tiếp nhận và đọc-hiểu
+ Cảm nhận và phân tích
+ Những xu hướng cần tránh
- Các mối quan hệ trong văn học
+ Nội dung và hình thức, nhà văn- hiện thực cuộc sống và tác phẩm, dân tộc- cổ
điển và hiện đại, tâm và tài…
- Vai trò và tác dụng của văn học
- Phong cách văn học: tác phẩm, tác giả…
* Kiến thức văn hoá tổng hợp
- Nắm được vai trò của kiến thức văn hoá
+ Hiểu sâu hơn tác phẩm văn học ( tiếp nhận)
+ Viết bài văn tốt hơn ( tạo lập)
- Nắm được các nội dung cơ bản
+ Một số khái niệm cơ bản của các ngành nghệ thuật
+ Một số kiến thức cơ bản về lịch sử, địa lí, phong tục
+ Những hiểu biết về chính trị và đời sống xã hội
- Nắm được yêu cầu
+ Nội dung cơ bản của khái niệm/ kiến thức văn hoá
+ Vai trò và ý nghĩa của khái niệm/ kiến thức ấy đối với người học/ người đọc
+ Vận dụng được trong tiếp nhận và tạo lập văn bản
3.2.2. Về kĩ năng làm văn
- Tìm hiểu, phân tích đề
- Tìm ý, lập dàn ý
11
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
- Viết văn: +Diễn đạt
+Trình bày
a. Rèn luyện kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề
Xét đến cùng, việc dạy HS làm bài, rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học là
một trong những khâu quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến kết quả thi HSG. Đây
là khâu yếu nhất của HS (kĩ năng phân tích đề, lập dàn ý, dựng đoạn, liên kết đoạn,
đưa dẫn chứng, phân tích dẫn chứng ).
Trước hết, trong thời gian bồi dưỡng, giáo viên cần cho học sinh làm quen với
nhiều dạng đề thi HSG, đặc biệt là những dạng đề có cách diễn đạt có thể gây ngộ
nhận hoặc có thể hiểu yêu cầu đề không thấu đáo. Chẳng hạn ở đề bài "Nét mới
lạ về hình tượng người lính qua bài Tây Tiến của Quang Dũng"
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản chất của đề rất khác nhau. Một số em
cho rằng yêu cầu của đề là chỉ ra nét độc đáo (lạ) của hình tượng người lính trong
bài "Tây tiến" trong toàn bộ thơ ca Việt Nam viết về người lính. Chỉ có một số ít là
hiểu đúng và hiểu trúng yêu cầu đề là phải chỉ ra những nét độc đáo nhưng phải
"mới" (chứ không phải là " khác lạ") trong cách cảm nhận và lối thể hiện hình
tượng người lính của của QD. Muốn đạt được yêu cầu đó, bài làm phải bám sát bài
thơ Tây Tiến và những bài thơ viết về người lính trong thơ ca VN trước đó và cùng
thời (chứ không lấy dẫn chứng về những bài thơ cùng viết về người lính ở cả
những giai đoạn sau) .
Sau khi đã nhận diện đúng yêu cầu đề, việc xác định thao tác nghị luận chỉ cần
củng cố và hệ thống lại. Điều cần lưu ý với học sinh là dù đề thi HSG có yêu cầu
hay không, học sinh vẫn phải vận dụng nhiều thao tác nghị luận khác nhau trong
một bài làm (Phân tích, giải thích, chứng minh, bình luận, so sánh ). Điều quan
trọng là xác định thao tác nào là chính, thao tác nào là bổ trợ. Nắm chắc yêu cầu
này, học sinh sẽ có cơ sở để xây dựng hệ thống luận điểm hợp lý và khoa học cho
bài viết. Thông thường, luận điểm chính của bài viết thường nằm ở những thao tác
chính. Đây cũng là trọng tâm của bài viết. Những thao tác hỗ trợ thường gắn với
những ý phụ, ý bổ sung, giúp cho nội dung bài viết hoàn chỉnh, trọn vẹn.
Trong bước này các em cũng xác định những kiến thức cần huy động và huy động
kiến thức để làm bài.
b. Rèn kĩ năng tìm ý, lập dàn ý
- Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý, học sinh phải lập dàn ý sơ lược
theo yêu cầu:
+ Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết;
+ Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận điểm
trong việc thể hiện các yêu cầu của bài
+ Sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học.
- Để giúp học sinh thực hiện được yêu cầu trên, Gv cần hướng dẫn các em đặt
hệ thống câu hỏi và tự trả lời:
+ Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì? Vấn đề cần giải quyết có
thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào?
12
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
+ Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh, phương
diện ấy quan hệ với nhau như thế nào? Phương diện nào thể hiện tập trung và rõ
nét các yêu cầu trọng tâm của đề?
+ Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung cần nghị luận được trình
bày như thế nào là tối ưu nhất?
Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vòng 25-30 phút, sau đó
học sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói (yêu cầu phải nói rõ căn cứ để
nhận thức đề, đề xuất luận điểm và sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn
chỉnh.
Chẳng hạn, với đề văn: Trong kiệt tác TKiều, Nguyễn Du viết:
"Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".
Anh (chị) hiểu như thế nào về câu thơ trên? Bằng sự hiểu biết về Truyện Kiều và
bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của ND, hãy làm sáng tỏ ý thơ trên.
Ở đề trên, học sinh cần đề xuất được các luận điểm chính sau:
- Giải thích ý nghĩa câu thơ của ND ("những điều trông thấy""? "Đau đớn
lòng"? )
- "Nỗi đau đớn lòng" trước "những điều trông thấy" của ND được thể hiện như thế
nào trong Truyện Kiều và ĐTTK?
- Đánh giá về giá trị của Truyện Kiều, về nỗi niềm Nguyễn Du được thể hiện qua
tác phẩm của mình về sức sống của tác phẩm Nguyễn Du
Ở bước này, phần làm việc của học sinh ở nhà là tiếp tục viết thành văn phần
mở, kết bài và các câu, đoạn chuyển ý.
Kĩ năng này nếu được làm một cách ráo riết và nghiêm túc sẽ hình thành
được ở học sinh khả năng chủ động và độc lập tư duy trong học tập, khắc phục dần
tình trạng học sinh làm bài theo kiểu ngẫu hứng, nghĩ đến đâu viết đến đó, thậm
chí làm bài xong không biết mình viết gì. Tác dụng của khâu này là giúp các em
khi đọc đề thi có thể nhanh chóng hình thành hệ thống luận điểm, định hướng kiến
thức cho bài trong một khoảng thời gian ngắn (15-30 phút) đầu giờ; bài viết của các
em sẽ đủ ý và mạch lạc. Đây cũng là một trong những biểu hiện của tính khoa học
ở một bài văn HSG .
Qua thực tế thấy rất rõ, các em trong đội tuyển HSG có khả năng nhận diện
đề và lập dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ thống luận
điểm trước khi bắt tay vào viết bài.
c. Kĩ năng viết văn
- Diễn đạt:
+ Giọng văn biểu cảm
+ Dùng từ độc đáo, câu linh hoạt
+ Viết có hình ảnh: so sánh, ví von…
+ Chân thực, tránh sáo mòn, công thức
- Trình bày: Chữ viết, lề, tẩy xoá, trích dẫn…
Kĩ năng viết văn là kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm
13
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
hợp lý, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay, học sinh phải
biết trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách
mạch lạc, sáng sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào
chính bài viết của học sinh.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, có thể tiến hành theo các hình thức:
- Viết thành văn một đoạn ý:
+Đoạn văn giải thích
+Đoạn văn chứng minh một luận điểm trong bài (thường là luận điểm chính); -
Đoạn văn bình luận nâng cao.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên chữa
(khoảng 2 bài /1 tuần).
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian quy định (180 phút). Yêu
cầu trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ, dễ
đọc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh
phải viết được những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có
giọng văn riêng, thể hiện được dấu ấn, phong cách của người viết.
Để đạt được những yêu cầu đó, học sinh phải tham khảo những bài văn mẫu do
giáo viên lựa chọn, định hướng; Có thể học tập cách viết của các bạn của mình
(những đoạn, những ý mà giáo viên cho là đúng và hay). Hình thức này rất có hiệu
quả bởi đó là những đoạn văn, bài văn hay do chính các em viết; Các em rất tự hào
khi có được bài văn, đoạn văn hay mà được thầy cô và bạn mình trân trọng.
Kỹ năng viết thành văn phải được tiến hành thường xuyên bằng hình thức ra đề cho
các em làm thêm ở nhà, giáo viên tranh thủ chấm và chữa kỹ cho các em.
* Các bước rèn kĩ năng có tác dụng giúp HS: Đúng hướng, tránh lạc, lệch đề, đúng,
đủ và có ý mới, có bài văn hay, đẹp…
3.2.3. Các dạng đề văn và lựa chọn hướng ra đề
Thực tế giảng dạy giúp chúng tôi ý thức một cách sâu sắc rằng, việc ra đề là
khâu quan trọng đầu tiên của quá trình phát hiện, kiểm tra, đánh giá và lựa chọn
HSG. Đề đúng và hay sẽ phân hoá được trình độ học sinh, giúp người thầy nắm
trúng điểm mạnh, điểm yếu của mỗi học sinh từ đó có thể đánh giá khách quan,
chính xác, công bằng năng lực, sự cố gắng vươn lên của học sinh; đồng thời tạo
được niềm tin và hứng thú học tập cho học sinh, khi hiểu được năng lực của mình.
Ngược lại, đề thiếu chính xác, sáo mòn không những không đánh giá được chính
xác về năng lực học sinh mà còn làm giảm thiểu hững thú học văn, tính độc lập
sáng tạo của học sinh. Và hậu quả của nó là việc rèn kỹ năng sẽ trở nên vô nghĩa.
Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các cấp trong những năm qua, chúng tôi
nhận thấy, đề thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn học
và cảm thụ văn chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của
chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ thuật, phẩm chất của
người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc
sắc, trong đó không ít tác phẩm còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau (Chẳng hạn:
Trao duyên, Hai đứa trẻ, Mùa xuân chín, Đây thôn Vĩ Dạ, Tống biệt hành, Thơ
14
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
duyên ), hoặc phân tích một số tác phẩm để nêu bật một vấn đề nào đó liên quan
đến phong cách của một tác gia, hay một đặc điểm quan trọng của tiến trình lịch sử
văn học dân tộc Nhìn chung, tinh thần nhất quán của đề thi HSG là theo sát
chương trình. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề rèn luyện kỹ năng cho học
sinh, tôi thường tập trung vào một số dạng đề cơ bản sau:
a. Đề nghị luận xã hội
Dạng đề này gắn với những vấn đề xã hội vô cùng phong phú bao gồm những tư
tưởng cả tích cực và tiêu cực, những đạo lí đông tây kim cổ, những hiện tượng nổi
bật cả tốt cả xấu, những vấn đề đặt ra trong các tác phẩm đã học/ đọc hoặc chưa….
đòi hỏi người GV phải nhanh nhạy nắm bắt cũng như có cái nhìn sắc sảo, quan
điểm rõ ràng, bên cạnh đó là một thái độ sống đúng đắn, tích cực, từ đó cung cấp
cho HS nguồn tư liệu cũng như những gợi ý kịp thời, đúng đắn
Ví dụ:
Đề 1: Phía sau lời nói dối
Đề 2: Lỗ Tấn nói, trước kia thế giới vốn không có đường, người đi nhiều nên đã tạo
ra đường. Cũng có người nói, thế giới vốn ngay từ đầu đã có đường, người đi nhiều
nên đường bị mất đi. Anh (chị) hãy viết một bài văn với chủ đề “Con người và con
đường”
b. Đề kiểm tra khả năng cảm thụ tác phẩm văn học
Dạng đề này phải gắn với những tác phẩm hay có trong chương trình. Chẳng hạn:
Đề 1: Kết thúc tác phẩm "Đời thừa", nhân vật Hộ tự xỉ vả mình:
-Anh anh chỉ là một thằng khốn nạn!
Còn nhân vật Từ nói:
-Không! Anh chỉ là một người khổ sở chính vì em mà anh khổ!
Từ kết thúc trên, anh (chị) phân tích và bình luận về tình cảm nhân đạo sâu
sắc của nhà văn Nam Cao được thể hiện trong tác phẩm.
Đề 2: Phân tích vẻ đẹp nữ tính của dòng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt
tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường
Qua dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức cơ bản của học sinh về tác phẩm:
nắm hệ thống chi tiết, hình ảnh; hiểu khái quát giá trị nội dung - nghệ thuật của tác
phẩm; năng lực chọn lựa và cảm thụ tác phẩm nghệ thuật ở nhiều cấp độ khác
nhau: chỉnh thể tác phẩm - hình tượng - chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ
c. Đề kiểm tra kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề cơ bản của lí luận
văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn học cụ thể.
Ví dụ:
Đề 1: Bàn về thơ, R.Tagore viết:
" Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn
thiện từ bên trong ". Anh (chị) hãy:
1. Bình luận ý kiến trên.
2. Qua bài thơ "Đàn ghita của Lor-ca" của Thanh Thảo, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 2: Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: "Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người
15
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
ta bởi cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những điều mà ai cũng biết cả
rồi" (Trích: Nhà văn nói về tác phẩm - NXBVH, 1998, Tr 260) . Anh (chị) hãy bình
luận câu nói trên và phân tích sức hấp dẫn của một tác phẩm văn học mà anh (chị)
cho là lớn.
Với dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức của học sinh về những vấn
đề lí luận văn học cơ bản: đặc trưng văn học, đặc trưng thể loại, phong cách nghệ
thuật, bản chất của lao động nghệ thuật, giá trị và chức năng của văn học, vai trò
của văn học đối với đời sống v.v đồng thời củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm
văn học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Qua lí
luận văn học, học sinh có căn cứ khoa học để hiểu sâu hơn tác phẩm và ngược lại,
qua tác phẩm, học sinh hiểu và biết khái quát năng cao thành những vấn đề lí luận
văn học cơ bản.
d. Đề rèn luyện kỹ năng so sánh văn học
Đây là một trong những dạng đề khó, nhưng học sinh dễ có cơ hội để phát huy
năng khiếu và sở trường riêng của một HSG. Nó đòi hỏi học sinh vùa nắm được
những vấn đề cụ thể, chi tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lý giải vấn đề. Có thể
so sánh tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học, của một tác
giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả
Ví dụ:
Đề 1: Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ "Đồng chí " của Chính
Hữu và "Tây Tiến" của Quang Dũng.
Đề 2: Phân tích đặc sắc riêng về cảm hứng đất nước ở bài thơ "Đất nước" của
Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" (Chương V C -Trích Mặt đường khát vọng) của
Nguyễn Khoa Điềm.
Đề 3: Những tương đồng và khác biệt trong cách cảm nhận và thể hiện số
phận người nông dân nghèo qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và Vợ
nhặt (Kim Lân).
3.2.4. Phân phối chương trình
- Giai đoạn khởi động:
+ Học kiến thức cơ bản về Lý luận văn học : Văn học là gì ? Chức năng văn học;
Đặc trưng văn học; Ngôn ngữ văn học; Sáng tạo văn học; Tiếp nhận văn học
Trong quá trình giảng bài, giáo viên minh họa bằng các tác phẩm học sinh đã học
và chú ý phân tích đặc biệt làm nổi bật cái hay cái đẹp trong các tác phẩm ấy nhằm
kích thích sự hứng thú cho học sinh
+ Thực hành các dạng bài Làm văn quen thuộc về Nghị luận văn học và nghị luận
xã hôi. Chú ý tập cách trình bày bài Luận sáng đẹp, kết cấu rõ. Tập làm phần mở
bài và kết luận hấp dẫn và sáng tạo.
- Giai đoạn tăng tốc :
+ Học kiến thức về các tác phẩm trong chương trình lớp 11 và những tuần đầu của
lớp 12. Số lượng các tác phẩm tương đối nhiều nên cần sự làm việc tích cực của
học sinh như đọc tác phẩm, đọc tài liệu (tự tìm hiểu hoặc do Giáo viên cung cấp),
soạn bài và làm bài tập Cố gắng hoàn thành chương trình
16
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
+ Thực hành các dạng bài phân tích tác phẩm thơ và văn xuôi. Chú ý rèn luyện các
thao tác liên hệ, mở rộng đến các tác phẩm văn học khác, đặc biệt là văn học dân
gian và văn học nước ngoài
- Giai đoạn về đích :
+ Thực hành các bài làm văn tổng hợp, so sánh. Chú ý rèn luyện cách vận dụng
kiến thức lý luận văn học vào bài, tạo chiều sâu cho bài văn. Một số kĩ năng tạo nên
sự độc đáo cho bài văn.
+ Trong 2 tuần cuối trước khi thi, Giáo viên cho học sinh làm bài thi thử đúng với
cấu trúc đề thi học sinh giỏi và thời gian làm bài để học sinh làm quen với áp lực
của phòng thi.
. Tùy theo giai đoạn để có nội dung bồi dưỡng thích hợp. Chú ý đến việc rèn luyện
các thao tác trọng tâm.
* Ghi chú : Mỗi giai đoạn trên đều có phân bố thời gian thích hợp cho việc thực
hành các bài Nghị luận xã hội (Câu 2 trong đề thi)
Bảng phân phối chương trình dạy bồi dưỡng
* Giai đoạn khởi động
- Học kì II, lớp 10
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
20 1 3 Phương pháp làm bài văn NLXH Đề NLXH về TTĐL
21 1 3 Phương pháp làm bài văn NLXH Đề NLXH về HTĐS
22 1 3 LLVH : Văn học là gì ? Đề NLXH về TTĐL
23 1 3 LLVH : Đặc trưng văn học Đề NLXH về HTĐS
24 1 3 LLVH : Chức năng văn học Đề NLXH về TTĐL
25 1 3 LLVH : Ngôn ngữ văn học Đề NLXH về HTĐS
26 1 3 LLVH : Hình tượng văn học Đề NLXH về TTĐL
27 1 3 LLVH : Sáng tạo văn học Đề NLXH về HTĐS
28 1 3 LLVH : Tiếp nhận văn học LLVH
28 1 3 LLVH : Giá trị văn học LLVH
30 1 3 LLVH : Phong cách văn học LLVH
31 1 3 LLVH : Trào lưu văn học LLVH
32 1 3 Tổng quan về Văn học VN LLVH
33 1 3 Văn học dân gian LLVH
34 1 3 Văn học dân gian LLVH
35 1 3 Văn học trung đại LLVH
36 1 3 Nguyễn Trãi Tư tưởng nhân nghĩa
37 1 3 Nguyễn Du Phận đàn bà
- 3 tháng hè
17
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
1 1 3 Chuyên đề văn học trung đại
2 1 3 Chuyên đề văn học trung đại
3 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
4 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
5 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
6 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
7 1 3 Bài thực hành thi thử
8 1 3 Trả bài, chữa bài
* Giai đoạn tăng tốc:
- Lớp 11
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
1 1 3 VHVN đầu XX-1945
2 3 Tản Đà
2 1 3 Phong trào thơ mới
2 3 Xuân Diệu
3 1 3 Xuân Diệu
2 3 Hàn Mặc Tử
4 1 3 Huy Cận
2 3 Nguyễn Bính
5 1 3 Thâm Tâm
2 3 Những bài thơ mới khác
6 1 3 Văn xuôi lãng mạn : Tự lực vđ
2 3 Thạch Lam
7 1 3 Nguyễn Tuân
2 3 Văn học hiện thực phê phán
8 1 3 Vũ Trọng Phụng
2 3 Nam Cao
9 1 3 Nam Cao
2 3 Văn học cách mạng
10 1 3 Hồ Chí Minh
2 3 Nhật kí trong tù
11 1 3 Thơ HCM
2 3 Truyện HCM
12 1 3 Thơ Tố Hữu : Từ ấy
2 3 Chuyên đề Xuân Diệu
13 1 3 Chuyên đề thơ ca lãng mạn
2 3 Chuyên đề thơ ca lãng mạn
14 1 3 Chuyên đề văn xuôi lãng mạn
2 3 Chuyên đề văn xuôi lãng mạn
18
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
15 1 3 Chuyên đề văn xuôi lãng mạn
2 3 Chuyên đề Nam Cao
16 1 3 Chuyên đề Nam Cao
2 3 Chuyên đề văn học hiện thực pp
17 1 3 Chuyên đề văn học hiện thực pp
2 3 Chuyên đề Hồ Chí Minh
18 1 3 Chuyên đề Hồ Chí Minh
2 3 Chuyên đề Tố Hữu
19 1 3 Chuyên đề Tố Hữu
2 3 Chuyên đề VHCM trước 1945
20 1 3 VHVN sau CM tháng 8-hết XX
2 3 VHVN sau CM tháng 8-hết XX
21 1 3 Văn chính luận HCM
2 3 Tố Hữu
22 1 3 Thơ Tố Hữu : Việt Bắc
2 3 Thơ Tố Hữu : Bác ơi
23 1 3 Quang Dũng
2 3 Hoàng Cầm
24 1 3 Nguyễn Đình Thi
2 3 Nguyễn Khoa Điềm
25 1 3 Xuân Quỳnh
2 3 Thanh Thảo
26 1 3 Nguyễn Duy
2 3 Dự phòng
27 1 3 Tô Hoài
2 3 Kim Lân
28 1 3 Nguyễn Trung Thành
2 3 Nguyễn Thi
29 1 3 Chuyên đề thơ ca kháng chiến
2 3 Chuyên đề thơ ca kháng chiến
30 1 3 Chuyên đề thơ ca chống Mỹ
2 3 Chuyên đề thơ ca chống Mỹ
31 1 3 Chuyên đề thơ ca sau 1975
2 3 Chuyên đề thơ ca sau 1975
32 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
2 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
33 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
2 3 Bài thực hành thi thử
34 1 3 Bài thực hành thi thử
2 3 Trả bài, chữa bài
Hè lớp 11
19
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
1 1 3 Chuyên đề Đất nước
2 1 3 Hình tượng người lính
3 1 3 Chuyên đề Việt Bắc
4 1 3 Chuyên đề Sóng
5 1 3 Chuyên đề Đàn ghita của Lor-ca
6 1 3 Truyện 1945-1975
7 1 3 Bài thực hành thi thử
8 1 3 Trả bài, chữa bài
* Giai đoạn về đích
- Học kì I, lớp 12
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
1 1 3 Chuyên đề kịch Hồn Trương Ba,
da hàng thịt
2 3 Chuyên đề Một người Hà Nội
2 1 3 Chuyên đề Chiếc thuyền ngoài xa
2 3 Chuyên đề Truyện sau 1975
3 1 3 Người lái đò sông Đà
2 3 Ai đã đặt tên cho dòng sông?
4 1 3 Chuyên đề Tuỳ bút tài hoa
2 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
5 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
2 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
6 1 3 Ôn tập, rèn kĩ năng
2 3 Bài thực hành thi thử
7 1 3 Trả bài, chữa bài
2 3 Bài thực hành thi thử
8 1 3 Trả bài, chữa bài
2 3 Bài thực hành thi thử
9 1 3 Trả bài, chữa bài
2 3 Bài thực hành thi thử
10 1 3 Trả bài, chữa bài
…
- Học kì II, lớp 12
Tuần Buổi Số tiết Tên bài dạy Bài thực hành
1 1 3 Ôn tập chung
2 3 Ôn tập chung
2 1 3 Ôn tập chung
2 3 Cấu trúc đề thi và kĩ năng làm bài
20
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
3 1 3 Bài thực hành thi thử
2 3 Trả bài, chữa bài
4 1 3 Bài thực hành thi thử
2 3 Trả bài, chữa bài
5 1 3 Bài thực hành thi thử
2 3 Trả bài, chữa bài
6 1 3 Bài thực hành thi thử
2 3 Trả bài, chữa bài
3.3. CÁCH THỨC BỒI DƯỠNG
Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu văn học đều có góc nhìn và cảm
nhận riêng. SKKN chỉ đưa ra một số cách thức bồi dưỡng rút gọn nhưng rất hiệu
quả trong thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi .
3.3.1. Tăng cường cơ hội giao lưu:
Mời các đồng nghiệp có uy tín cùng tham gia bồi dưỡng hoặc gặp gỡ, trao đổi
chia sẻ kinh nghiệm với các em ở một số chuyên đề. Bên cạnh đó, những buổi gặp
gỡ, giao lưu với các nhà văn, nhà thơ, nhà lí luận phê bình nổi tiếng hoặc các nhà
văn, nhà thơ của địa phương chính là một cơ hội để thắp lên ngọn lửa yêu văn ở
học sinh, tiếp thêm cho các em cả kiến thức cũng như nhiệt tình. Nếu có thể, GV
chủ động tìm hiểu, tạo điều kiện cho các em trong đội tuyển được tham dự các lớp
bồi dưỡng viết văn trẻ do Hội nhà văn tổ chức vào một số dịp hè.
3.3.2. Tài liệu
a. Tài liệu photocopy
Giáo viên cung cấp tài liệu photocopy cho học sinh, đây không phải việc làm
mới mẻ mà đã thành truyền thống, công việc tưởng đơn giản song rất cần thiết và
vô cùng hiệu quả. Bên cạnh đó, Gv cung cấp những tên sách, danh mục sách, loại
sách Yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.
b. Internet- “bãi rác có kim cương”
Khai thác kho tài liệu vô tận trên internet với tinh thần tự học, tự vận động của
học sinh là chính trong thời gian bồi dưỡng, tuy nhiên do internet ở thời điểm hiện
tại vẫn còn là một “bãi rác khổng lồ có chứa kim cương”, giáo viên cần là người
tìm hiểu, định hướng cho học sinh tránh phản tác dụng, để giúp các em thực sự tìm
được những tài liệu quý.
Yêu cầu các em lập sổ tay ghi chép cá nhân.
Để việc đọc tài liệu internet thực sự hiệu quả, giáo viên sẽ yêu cầu học sinh
thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt- mục 3.3.5
3.3.3. Giờ học tích cực
Kết hợp thuyết giảng và thảo luận, trong tiết học, phần đầu, giáo viên giảng
bài, học sinh lắng nghe và ghi chép những điều cần thiết. Phần sau là phần giải đáp
thắc mắc của học sinh hoặc thảo luận trao đổi xung quanh đề tài mà giáo viên đưa
ra.
3.3.4 Nhiệm vụ và thành quả
21
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
Ra đề bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời gian ấn định. Giáo viên chấm,
phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học sinh. Chữa lỗi bài làm của học sinh
theo chủ điểm để học sinh nhớ lâu và quyết tâm khắc phục.
3.3.5. Em tập làm cô giáo
Như mục 3.3.2 đã viết, song song với việc cung cấp tài liệu, trang web… cho
học sinh nghiên cứu, giáo viên sẽ tổ chức cho các em thuyết trình trước bạn bè,
cùng trao đổi- Với cách làm này các em đã thực sự làm chủ kiến thức.
Tổ chức hướng dẫn cho các em học sinh chấm bài, nhận xét bài cho bạn, đối
với những giờ trả bài như thế, giáo viên cần chủ động chấm trước (nhưng không
cho điểm, không ghi lời phê vào bài mà để riêng) để có kết luận xác đáng. Sau khi
thực hiện việc làm này, hầu hết các em đều đã học hỏi, rút được những kinh
nghiệm quý giá.
3.3.6. Không gian nào lí tưởng
Địa điểm bồi dưỡng không nhất thiết phải là trong lớp học. Nơi phù hợp nhất
có thể là khung cảnh ngoài trời, nơi thoáng mát như dưới bóng cây sân trường,
trong công viên. Giáo viên nên linh hoạt thay đổi điểm bồi dưỡng để tạo sự hứng
thú và thoải mái cho học sinh.
* Đọc-Nghe-Nói-Viết là một vòng tròn khép kín của quá trình bồi dưỡng,
trong đó học sinh luôn đóng vai trò tích cực-chủ động-sáng tạo. Còn giáo viên
chỉ là người khơi gợi- hướng dẫn-sửa chữa.
3.4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Phát hiện và xây dựng nguồn bắt đầu từ lớp 10, giáo tích cực dạy bồi dưỡng,
tổ chức học 2-3 buổi/tuần (trái buổi học chính khóa.
Lên kế hoạch Bồi dưỡng ngay từ trong hè, qua đó lọc dần qua các cuộc thi
cấp trường
Người thầy phải luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích lũy tri thức và kinh
nghiệm, trau dồi chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho
học sinh noi theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, có kiến thức nâng cao trên
các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích
nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu
tầm tài liệu…
Trong công tác bồi dưỡng HSG, khâu đầu tiên là khâu tuyển chọn học sinh
khâu này rất quan trọng . Chúng ta lựa chọn đội tuyển ngay sau khi kết thúc năm
học thông qua việc trao đổi với GV giảng dạy trước đó để lựa chọn những em có
khả năng, tư chất, trí tuệ, lòng đam mê vào đội tuyển, làm nguồn cho năm học kế
tiếp.
Cách thức tiến hành linh hoạt tạo hứng thú cho học sinh tích cực học tập.
Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã mang
lại một kết quả khả quan rõ rệt. Phía giáo viên tham gia bồi dưỡng có được sự chủ
động mạnh dạn , ít gặp những lúng túng và vướng mắc như trước đây khi chưa áp
dụng chuyên đề. Chuyên đề đã cố gắng tranh thủ thời gian trong điều kiện cho phép
22
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
nhằm đảm bảo được những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho các em tham gia kỳ
thi học sinh giỏi.
Riêng phần các em học sinh thì có hứng thú, tích cực học tập trong những
giờ lên lớp với thầy và cũng như việc chủ động, tìm tòi học tập, làm việc theo
hướng dẫn của giáo viên với niềm lạc quan say mê. Và kết quả chứng minh cuối
cùng đều khá mỹ mãn qua nhiều năm học liên tiếp.
PHẦN KẾT LUẬN
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng HSG trong mấy năm qua giúp tôi nhận ra
rằng, "thiên bẩm" hết sức quan trọng. Song trên thực tế, không có một tài năng
thiên bẩm nào tự nó có thể đi đến thành công. Bởi thế, vai trò người thầy là hết sưc
quan trọng. Những hệ thống tri thức, con đường tiếp nhận văn chương, và cả những
hứng thú, không ai có thể làm thay được người thầy. Dạy học là một nghệ
thuật. Người giáo viên khi đã chọn nghề dạy học là phải có tâm yêu nghề, đặc biệt
là mục tiêu hướng tới và là niềm hạnh phúc nhất trong cuộc đời của người thầy là
đào tạo bồi dưỡng được thật nhiều học trò giỏi. Kết quả thì tâm hồn, tri thức, và
những gợi mở của người thầy sẽ được cụ thể hoá qua từng trang viết của học trò. Vì
vậy, muốn có học sinh giỏi, trước hết người thầy phải luôn có ý thức tích luỹ tri
thức và kinh nghiệm giảng dạy một cách nghiêm túc. Trong đó, sự nhạy cảm trong
phát hiện năng khiếu học sinh, phương pháp bồi dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để
có được thành công. Để có được kết quả thành công tốt đẹp thì mỗi người giáo viên
chúng ta phải luôn tìm tòi, sáng tạo, trăn trở và nỗ lực không ngừng với nhiều cách
thức và phương pháp tối ưu nhất theo mình để giảng dạy, bồi dưỡng cho các em.
Phương pháp giảng dạy thì phong phú, kiến thức văn chương thì mênh mông
rộng lớn vô cùng, nhất là kiến thức gắn với yêu cầu đề thi của học sinh giỏi. Vì
vậy trong giới hạn của chuyên đề này, người viết chỉ khiêm tốn đưa ra một vài suy
nghĩ về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả. Đó là những điều mà
người viết suy tư, cọ xát và trải nghiệm qua thực tế giảng dạy nhiều năm, đặc biệt
là những suy nghĩ trăn trở rất nhiều trong thực tiễn công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi qua các năm học. Hi vọng rằng những nội dung trong chuyên đề này sẽ là
những thông tin được sự quan tâm của các đồng nghiệp, được trao đổi, thảo luận để
mong rút tỉa được những kinh nghiệm thực sự quý báu trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi - một công tác rất đỗi nặng nề nhưng rất vinh dự của người giáo viên.
Do thời gian có hạn mà kiến thức và sự cảm nhận văn học thì vô cùng nên
chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, người viết rất trân trọng
trước sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
23
SKKN năm học 2012- 2013 Gv Lê Thị Hồng Vân, THPT Cầm Bá Thước
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn và biên soạn), Những bài làm làm văn chọn học
sinh giỏi quốc gia, NXB Giáo dục
2. Hà Bình Trị (Tuyển chọn và biên soạn), Những bài văn đoạt giải Quốc gia, NXB
Giáo dục
3. Tuyển tập 10 năm đề thi Ôlimpic 30- 4 môn văn. NXB Đại học Sư phạm
4. Nguyễn Đăng Mạnh, Muốn viết được bài văn hay, NXB Giáo dục
5. Đỗ Ngọc Thống, Bài giảng Power Point: Bồi dưỡng và đánh giá học sinh giỏi
môn Ngữ văn theo chương trình mới
- Một số đề thi học sinh giỏi quốc gia, các đề thi học sinh giỏi ở trong tỉnh cũng
như ở các tỉnh khác được tuyển chọn.
- Một số tư liệu khác từ Google, Internet.
24