Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một vài quan điểm tiếp cận, đánh giá tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 trong nhà trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.54 KB, 15 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Tiếp cận với chương trình phân ban mới, những đơn vị kiến thức mới
đặt ra cho người giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn nhiều trăn trở. Đặc biệt,
trong chương trình Ngữ văn 12, một phần kiến thức mà học sinh tiếp nhận
thuộc phần văn học Việt Nam sau 1975. Giai đoạn văn học này là bước tiếp
nối quan trọng và liền mạch của nền văn học mới từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay. Tuy chặng đường phát triển chưa dài, song văn học Việt
Nam sau 1975 đã phát triển với nhiều hướng đa dạng, tạo nên bước chuyển
mạnh mẽ, để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả.
Những tác phẩm thuộc giai đoạn văn học Việt Nam sau năm 1975
còn mới mẻ đối với học sinh, cho nên việc hướng dẫn các em tiếp cận tất yếu
còn gặp phải nhiều khó khăn, thử thách. Thực tế học tập và giảng dạy này đòi
hỏi người giáo viên phải có sự tìm tòi, học hỏi để có thể tiếp cận và hướng
dẫn học sinh tiếp cận một cách phù hợp, hiệu quả nhất những tác phẩm văn
học còn khá mới mẻ này. Vì thế cần phải có quan điểm tiếp cận, đánh giá các
tác phẩm phù hợp với đặc trưng của giai đoạn văn học sau 1975 (kiến thức về
đặc trưng của văn học sau năm 1975 các em đã được trang bị từ bài văn hoc
sử Khái quát Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết
thế kỷ XX ).
Vậy, nên tiếp cận, đánh giá như thế nào về các tác phẩm thuộc giai
đoạn văn học Việt Nam sau 1975? Làm thế nào để tháo gỡ những vướng mắc
trong cách tiếp cận, giảng dạy để có thể cuốn hút học sinh cùng say mê tìm
hiểu các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học này? Làm thế nào để sự tiếp nhận
của cô và trò thông qua hoạt động dạy và học xứng với những giá trị của các
tác phẩm tiêu biểu cho cả một giai đoạn văn học đã đạt được những thành tựu
lớn lao này? Đó là những điều chúng tôi vô cùng trăn trở và đó cũng chính là
1
lí do đưa chúng tôi đến với đề tài: “Một vài quan điểm tiếp cận, đánh giá tác
phẩm Văn học Việt Nam sau 1975 trong nhà trường THPT”
2. Lịch sử của đề tài


Đây là một vấn đề không hoàn toàn mới mẻ, nhiều nhà nghiên cứu, phê
bình văn học, những Giáo sư, Tiến sĩ đầu ngành cũng đã đề cập ít nhiều về
vấn đề này.
Có thể kể đến các công trình, bài viết sau:
- Nhiều tác giả, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1966.
- Nguyễn Văn Long, Tiếp cận và đánh giá Văn học Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám , Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.
- Trần Đăng Suyền (Chủ biên), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, Tập II
Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội, 2010.
- Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Nguyễn Văn Long (Đồng chủ biên) Lịch sử
Văn học Việt Nam, Tập III, Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội, 2010.
Ở đây, chúng tôi mong muốn rằng sẽ có cái nhìn, hướng tiếp cận cụ thể
hơn, phù hợp với phạm vi, ngưỡng tiếp nhận của học sinh THPT đối với các
tác phẩm văn học sau 1975, trên cơ sở các công trình nghiên cứu, bài viết đã
có.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
3.1. Mục đích:
Từ việc tìm hiểu đặc trưng của Văn học Việt Nam sau 1975, tìm hiểu về
các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học này được chọn giảng trong sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12 (gồm cả các bài học thêm), thông qua các tài liệu hướng
dẫn, sách giáo viên, sách báo tham khảo, kết hợp với thực tế giảng dạy, chúng
tôi hệ thống thành một số quan điểm đánh giá, tiếp cận các tác phẩm Văn học
Việt Nam sau 1975 nhằm phục cụ cho công việc giảng dạy những tác phẩm
này đạt hiệu quả cao hơn.
2
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích của đề tài, chúng tôi xác định một số nhiệm vụ
chủ yếu sau đây:
- Tìm hiểu và hệ thống lại các đơn vị kiến thức về đặc trưng của Văn học

Việt Nam sau 1975.
- Tìm hiểu những giá trị của các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975
được chọn giảng trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (gồm cả các bài học
thêm).
- Xác định những tri thức cần thiết để tiếp cận, đánh giá và đưa ra những
quan điểm tiếp cận , đánh giá để có thể phục vụ tốt cho công tác giảng dạy
các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 được chọn giảng trong sách giáo
khoa Ngữ văn lớp 12.
4. Phương pháp nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh
5. Phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
Trên cơ sở các đơn vị kiến thức của chương trình Ngữ văn 12, tập 1,2,
chương trình Nâng cao để đề ra hướng tiếp cận, đánh giá khách quan, xác
thực.
6. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
Đặt vấn đề cần nghiên cứu thành một hệ thống, thuận lợi khi tra cứu,
tìm hiểu, phục vụ dễ dàng cho việc giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam
sau 1975 được chọn giảng trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12. Đồng thời
cung cấp cái nhìn đa diện để học sinh hiểu sâu sắc hơn về các tác phẩm văn
học Việt Nam sau 1975 được chọn giảng và có thêm công cụ để tiếp cận hiệu
quả các tác phẩm đương đại khác.
3
PHẦN NỘI DUNG
Tiếp cận với một tác phẩm văn học của một giai đoạn văn học, chúng
tôi nhận thấy cần có các quan điểm tiếp cận, đánh giá sao cho phù hợp với
ngưỡng nhận thức của học sinh THPT đồng thời có thể tạo hứng thú cho học
sinh khi tiếp nhận văn bản. Sau những trăn trở tìm tòi và thể nghiệm bước đầu
trong thực tế giảng dạy, chúng tôi xin đề xuất một vài quan điểm tiếp cận,

đánh giá tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 như sau:
1. Cung cấp cho học sinh những tri thức cần thiết khi tiếp nhận tác phẩm
văn học Việt Nam sau 1975
Văn học Việt Nam sau 1975 đã nỗ lực khẳng định vị trí của một nền
văn học mới bằng những cách thể nghiệm mới mẻ ở cả hai phương diện nội
dung và hình thức. Đây chính là những điểm khu biệt so với văn học giai
đoạn trước, tất nhiên có sự kế thừa, cách tân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để
học sinh nắm bắt được những điểm cách tân mới mẻ ấy ? Chúng tôi cho rằng:
trước hết cần cung cấp các khái niệm công cụ để học sinh có được một cơ sở,
nền tảng cần thiết cho việc tiếp cận các tác phẩm văn học Việt Nam từ sau
năm 1975. Sau đây là những tri thức mà chúng tôi xác định là thực sự cần
thiết để tiếp nhận các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975.
1.1. Bối cảnh diễn ra công cuộc đổi mới Văn học sau 1975:
Với thắng lợi mùa xuân năm 1975, đất nước ta khép lại trang sử chiến
tranh, bước sang một trang mới - bảo vệ, xây dựng và phát triển non sông đất
nước trong bối cảnh hoà bình. Trong thời đại mới, đất nước có những biến
chuyển sâu sắc trên mọi phương diện.
Trước hết, phải kể đến sự chuyển biến về hoàn cảnh xã hội với tốc độ
đô thị hoá nhanh chóng do tác động của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Bên cạnh đó, việc giao lưu, hội nhập đa phương với thế giới bên ngoài
cũng được rộng mở. Những biến chuyển này đã làm thay đổi sâu sắc ý thức
4
xã hội với sự trỗi dậy của tinh thần dân chủ, từ đó nảy sinh nhu cầu nhận thức
lại các vấn đề của cuộc sống. Nhiều chuẩn mực mặc nhiên đã được thừa nhận
trước đây mất dần đi tính chất tuyệt đối và được nhận thức lại, trở nên linh
hoạt uyển chuyển hơn. Trước trạng thái tâm lí xã hội mới, nhu cầu mới của
thời đại, văn học cũng bước vào hành trình đổi mới.
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới văn học không chỉ được khơi dậy từ
những tác động bên ngoài mà còn xuất phát từ quy luật nội tại của văn học
với nhu cầu tự khẳng định, tự làm mới mình. Công cuộc đổi mới văn học

được mở ra với người “mở đường tinh anh và tài hoa nhất” - Nguyễn Minh
Châu , ngay sau đó là đóng góp cách tân của hàng loạt cây bút đầy trăn trở và
khát khao đổi mới như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Thanh Thảo, Thu Bồn, Hoàng Cầm, Lê Đạt … Các nhà văn,
nhà thơ đã mang đến cho văn học giai đoạn này những quan niệm sáng tác
mới cùng những thể nghiệm mới trong hình thức thể hiện của tác phẩm văn
chương. Bằng những thể nghiệm, tìm tòi trên cả sáng tác và lí luận, phê
bình… văn học Việt Nam sau 1975 đã từng bước hình thành những đặc trưng
mới, hoàn thiện diện mạo của một giai đoạn văn học mới so với các thời kì
văn học trước đó.
Đặt trong tiến trình phát triển chung của lịch sử văn học nước nhà và
trong bối cảnh riêng của những năm sau 1975 có thể thấy tình hình văn học
Việt Nam sau 1975 rất phong phú, đa dạng song cũng khá phức tạp và đầy
biến động.
1.2. Những đổi mới trên bình diện nội dung của văn học sau 1975
1.2.1 Đổi mới quan niệm về hiện thực
Tính hiện thực dù đậm hay nhạt, bao giờ cũng là một thuộc tính cơ bản
của văn chương, phản ánh mối liên hệ giữa tác phẩm với cuộc đời. Nhà văn
lựa chọn một hiện thực trong sáng tác là để chuyển tải tư tưởng, cách đánh giá
của mình về cuộc sống và con người. Những đổi mới trong quan niệm về hiện
5
thực đời sống của văn học sau 1975 bởi vậy có ảnh hưởng không nhỏ đến văn
học giai đoạn này. Tiếp cận và đánh giá tác phẩm văn học ở một giai đoạn
văn học bởi thế không thể không nắm vững quan niệm về hiện thực đời sống
của văn học giai đoạn ấy.
Do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử, dồn trong tâm cho nhiệm vụ
tuyên truyền lí tưởng cách mạng, cổ vũ chiến đấu, giai đoạn văn học 1945 –
1975 thường lựa chọn khám phá và thể hiện hiện thực chính trị rộng lớn, vận
động theo xu thế phát triển lạc quan. Đó là hiện thực đã biết trước, một hiện
thực tuyệt đối hợp lí. Với tinh thần dân chủ hoá dám nhìn thẳng vào sự thật,

văn học sau 1975 lại mở rộng dần biên độ của vùng hiện thực được phản ánh.
Các nhà văn sáng tác ở giai đoạn văn học này đã hướng ngòi bút đến số phận
riêng của cá nhân, những bi kịch của con người là nạn nhân của hoàn cảnh và
số phận. Hiện thực trong các tác phẩm văn học sau năm 1975 được nhìn nhận
tự do, đa dạng và nhiều chiều. Tâm điểm của nó chính là hiện thực số phận
con người.
Sự chuyển dịch từ hiện thực xã hội rộng lớn trở về hiện thực cá nhân,
lấy con người là trung tâm khám phá không phải là hành vi phủ nhận những
gì trước đó đã hình thành mà khẳng định thêm cho giá trị của con người. Với
quan điểm này, hiện thực được hiểu một cách toàn diện hơn, đó không chỉ là
những gì đã đựoc nhìn thấy, đã được phản ánh mà còn là cái chưa biết, không
thể biết, cần phải khám phá và tìm tòi. Hiện thực tiềm ẩn vô vàn tình huống
vừa xấu - tốt, vừa thiện - ác… buộc người đọc phải suy ngẫm.
1.2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của văn học sau 1975
“Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lí giải, cắt nghĩa, sự cảm
thấy con người đã được hoá thân thành các phương tiện biện pháp thể hiện
con ngưòi trong văn học tạo nên giá trị thẩm mĩ cho các hình tượng nhân
vật” [7; tr 778].
6
Quan niệm về con người chính là cơ sở chi phối những nguyên tắc
chiếm lĩnh, cắt nghĩa đời sống của nhà văn, là nơi đánh dấu trình độ tư duy
nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác giả, tác phẩm. Chính vì lẽ
đó tiếp cận và đánh giá tác phẩm văn học ở một giai đoạn văn học, bởi thế
không thể không nắm vững quan niệm nghệ thuật về con người của văn học
giai đoạn ấy.
Văn học sau năm 1975 đã có sự dịch chuyển lớn về quan niệm nghệ
thuật về con người: Từ quan niệm con người cộng đồng theo kiểu sử thi trong
giai đoạn văn học 1945 – 1975 đến quan niệm con người kiểu thế sự, đời tư,
con người cá nhân phức tạp, bí ẩn, nhiều chiều, con ngưòi lưỡng diện, không
nhất quán với mình. Con ngưòi trong các tác phẩm văn học sau 1975 được tái

hiện như nó vốn có, không lí tưởng hoá, thần thánh hoá. Đó là con người
trong cuộc sống bộn bề của ngày hôm nay ngổn ngang, phức tạp. Điều đáng
quý, đáng ghi nhận là thông qua con người đời thường này, nhà văn thể hiện
một cái nhìn suy tư, chiêm nghiệm khách quan về con người trong hiện thực
cuộc đời đầy xô bồ, hối hả buộc người đọc nhìn nhận lại chính thái độ sống
của mình.
Với việc đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận,
cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống, văn học giai đoạn này đã khám
phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, thể hiện con
người ở nhiều phương diện của đời sống, kể cả đời sống tâm linh. Khi thì các
nhà văn đặt nhân vật trong hoàn cảnh trớ trêu của số phận, khi thì các nhà văn
đặt nhân vật trong truyền thống gia đình, nền tảng gia phong cùng niềm thành
kính thiêng liêng, khi thì các nhà văn đặt nhân vật trong mối quan hệ chặt chẽ
với lịch sử, quá khứ dân tộc. Điều đáng quý là khi viết về con người bao giờ
các tác giả cũng hướng tới khẳng định ngợi ca những giá trị nhân văn cao đẹp
của cuộc sống và con người hôm nay.
1.3. Những đổi mới trên bình diện nghệ thuật của văn học sau 1975
7
1.3.1. Tình huống
Tình huống trong tác phẩm văn học chính là hoàn cảnh chứa đựng xung
đột được nhà văn tạo lập để triển khai chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Xung
đột đó có thể là một biến cố có tác động lớn đến cuộc đời, số phận, tính cách
nhân vật, cũng có thể là sự kiện có tác động tạo bước ngoặt nhận thức của
nhân vật về cuộc sống và con người.
Ý thức được vai trò và ý nghĩa của tình huống trong tác phẩm, các nhà
văn đã miệt mài tìm kiếm, chọn lựa các tình huống trong vô vàn sự kiện cuộc
sống để tái hiện trong tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Minh Châu ưa chọn tình
huống có tính chất nhận thức để khám phá phát hiện về đời sống bằng chính
sự chiêm nghiệm, tự đối thoại của nhân vật (nhân vật Phùng và hai phát hiện
tương phản, sự tự nhận thức của anh về hiện thực). Nhà văn Ma Văn Kháng

chọn tình huống gặp gỡ tất niên để khơi dậy trong các nhân vật tình cảm gia
đình, nguồn cội cùng những âu lo về sự đổ vỡ rạn nứt trong mối quan hệ giữa
con người với con người. Còn nhà văn Nguyễn Khải lại đặt nhân vật trong
những tình huống cuộc sống thường nhật ở các thời đoạn lịch sử khác nhau
để khẳng định bản lĩnh, nghị lực và phẩm chất cá nhân của con người. Sự
phong phú muôn vẻ của tình huống được chọn lựa và tái hiện trong tác phẩm
văn học sau 1975 cũng chính là sự phức điệu muôn màu của cuộc sống đi vào
văn học giai đoạn này.
1.3.2. Nghệ thuật trần thuật
Đây là phương diện cơ bản của kết cấu tác phẩm. Đó là việc giới
thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, sự vật, hoàn
cảnh,… theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định. Khoảng cách, góc
độ của lời kể đối với nội dung được kể tạo thành điểm nhìn trần thuật. Mối
quan hệ, thái độ đối giữa người trần thuật với nhân vật và các sự kiện được kể
tạo thành giọng điệu trần thuật. Giọng điệu trần thuật có quan hệ mật thiết với
điểm nhìn trần thuật.
8
Các tác phẩm văn học giai đoạn 1945 – 1975 có khuynh hướng tác
động đến người đọc bằng chân lí có sẵn. Đó là chân lí được đẩm bảo bởi kinh
nghiệm cộng đồng, được khẳng định bằng tính hợp lí tất yếu của hiện thực
cách mạng. Nhà văn đồng nhất mình với chân lí được phản ánh trong tác
phẩm nên quan hệ giữa nhà văn với bạn đọc là quan hệ độc thoại. Điểm nhìn
trần thuật do người phán truyền chân lí đảm nhận, mỗi tác phẩmbởi vậy
thường chỉ có một điểm nhìn. Với tinh thần dân chủ hoá sâu sắc, văn học giai
đoạn sau 1975 đã thay đổi quan hệ độc thoại một chiều giữa nhà văn với bạn
đọc thành quan hệ hai chiều. Điểm nhìn trần thuật vì thế được gia tăng. Mỗi
điểm nhìn là một ý thức độc lập, qua đó, sự việc, con người sẽ được nhận thức
từ nhiều phía. Bên cạnh đó, sự thay đổi liên tục điểm nhìn cho các nhân vật
cũng như việc nhập thân vào nhân vật một cách sống động góp phần tăng
cường khả năng khám phá đời sống và con người. Cùng với việc gia tăng

điểm nhìn trần thuật, tác phẩm văn học sau 1975 cũng phát triển phong phú về
giọng điệu trần thuật: Có giọng khinh bạc, gai góc; có giọng xót xa, thương
cảm; có giọng trĩu buồn, tái tê; có giọng vừa trĩu nặng suy tư vừa giàu chất
khái quát triết lí; có cả giọng giễu nhại và hoài nghi … Nhờ vậy mà tác phẩm
văn học sau 1975 đậm đặc chất tự sự rất đời thường mà hiện đại, cuốn hút.
2. Hướng dẫn học sinh tiếp nhận đúng giá trị của các tác phẩm văn học
sau 1975, tránh thái độ đánh giá chủ quan
Trong phần kết thúc bài tham luận “Về cách tiếp cận để đánh giá văn
học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám” trình bày tại hội thảo khoa học
50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám (tổ chức vào tháng 6
năm 1995) tác giả Nguyễn Văn Long nhận định: “Văn học Việt nam từ sau
tháng 4 – 1975, nhất là từ giữa những năm 80 trở lại đây, đã đi những bước
tiếp xa hơn trên con đường hiện đại hoá nền văn học dân tộc ở thế kỉ XX, để
hoà nhập đầy đủ vào tiến trình văn học thế giới” [2; tr 128]. Cho đến ngày
hôm nay, chúng ta chưa thực sự có được một khoảng cách đủ xa để đánh giá
9
văn học giai đoạn này, nên cần tránh sự đánh giá vội vàng, chủ quan. Bởi lẽ,
những thái độ như thể có thể phương hại đến chính tác phẩm văn học cụ thể
được đánh giá ở giai đoạn văn học này đồng thời ảnh hưởng đến số lượng,
chất lượng các tác phẩm mà văn học đương đại sẽ đóng góp cho văn học dân
tộc.
Để tránh được thái độ chủ quan trong đánh giá, đồng thời có thể thẩm
định đúng giá trị của tác phẩm văn học ở giai đoạn sau 1975 giáo viên cần
lưu ý cho học sinh trong quá trình tiếp nhận tác phẩm phải chú ý đến đặc
điểm vận động theo hướng dân chủ hóa của văn học giai đoạn này. Đặt tác
phẩm văn học được tiếp nhận trong tình hình văn học phát triển đa dạng,
phong phú nhưng cũng phức tạp với nhiều khuynh hướng, nhiều cách thức thể
nghiệm mới, nhiều vấn đề xã hội nhạy cảm… Đặc biệt lưu ý các em chú ý tới
tính nhân bản, sự thức tỉnh ý thức cá nhân vốn đậm nét trong các sáng tác và
là đóng góp cơ bản của văn học giai đoạn này.

3. Quan tâm đến yếu tố chủ quan trong cảm thụ tác phẩm văn học sau
1975
Như chúng ta đã biết, mỗi cá thể là một thế giới riêng với nhu cầu, sự
hứng thú, năng lực thẩm mỹ khác nhau… nên đặc thù của cá thể ấy có chi
phối đến quá trình đọc - hiểu văn bản văn học. Bên cạnh đó, tác động đến quá
trình cảm thụ tác phẩm văn học còn chịu sự chi phối của các yếu tố như:
Khoảng cách về thời gian, không gian tác phẩm với người học; khoảng cách
giữa nhà văn và người đọc Tất cả những biểu hiện chủ quan trên đều là rào
cản hoàn toàn có thể xảy ra khiến cho quá trình tiếp cận tác phẩm của thầy và
trò gặp nhiều khó khăn.
Có trường hợp, giáo viên hứng thú với tác phẩm nhưng học sinh thì
cảm thấy thật khó hiểu, thậm chí thật khó có thể chấp nhận. Khi hướng dẫn
học sinh đọc - hiểu tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyên Minh
Châu chúng tôi đã va phải thực tế này. Đã có học sinh bộc lộ quan điểm
10
không chấp nhận thái độ nhẫn nhục cam chịu bị bạo hành và sự lựa chọn
không bỏ người chồng độc dữ của người đàn bà hàng chài. Học sinh này
khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình rằng nếu là con của một người mẹ
như thế chắc chắn em sẽ không chấp nhận cuộc sống mà người mẹ ấy chịu
đựng để gìn giữ cho mình. Em còn cho rằng, phản ứng đáng sợ của thằng
Phác một phần rất lớn là lỗi của người đàn bà hàng chài. Nó không muốn mẹ
phải chịu đựng như thế và hơn nữa nó chẳng hạnh phúc gì khi sống trong tình
cảnh bi kịch gia đình như thế. Người đàn bà hàng chài còn chịu đựng nghịch
lí đáng sợ của cuộc sống này thì những đứa con của chị ta còn chịu cảnh bất
hạnh kéo dài, tương lai của chúng cũng sẽ tăm tối, đáng buồn. Theo học sinh
này, li hôn là điều nghười phụ nữ này cần làm để bảo vệ mình, bảo vệ các con
khỏi cuộc sống đoạ đày ấy. Em còn đưa ra các dẫn chứng về những người mẹ
đã dũng cảm lựa chọn con đường ấy và họ đã không chỉ giải thoát cho chính
mình khỏi sự bạo hành, bất hạnh mà còn mang lại cho con cái họ một tương
lai tốt đẹp hơn…

Đứng trước những tình huống sư phạm như thế trong giờ dạy tác
phẩm văn học sau 1975 chúng ta cần xử trí như thế nào? Và còn bao tình
huóng khác nữa nảy sinh trong quá trình dạy và học các tác phẩm của thời
đương đại chưa hoànd thành này? Giải quyết những vấn đề ấy không phải là
điều đơn giản. Chính vì vậy, có lẽ mỗi giáo viên nên chuẩn bị tâm thế hòa
nhập cho học sinh bằng nhiều cách: dẫn dắt bằng các câu chuyện đời sống
thân thuộc, gần gũi; gợi dẫn không khí thời đại bằng những câu chuyện kể; tổ
chức cho học sinh xem phim; khuyến khích học sinh đọc toàn văn tác phẩm
được học và các tác phẩm văn học đương đại… để đối tượng người học sẽ
tiếp nhận dễ dàng hơn những điều được thể hiện trong tác phẩm.
4. Chú ý đến tính kế thừa của văn học sau 1975 trong tương quan với
văn học giai đoạn trước
11
Khi giảng dạy, việc chú ý đến tính kế thừa sẽ có được cái nhìn đầy đủ
và toàn diện. Sự so sánh ấy cho phép chúng ta khẳng định những bước phát
triển của văn học sau 1975 cùng những đặc trưng riêng làm nên điểm khác
biệt của văn học giai đoạn này. Từ đó, ta nhận lấy những chân giá trị của văn
học, đồng thời cũng thấy được những điểm hạn chế của văn học giai đoạn
này. Ngoài ra còn phải thấy được sự kế thừa cũng như những thành tựu cách
tân về phương diện nghệ thuật của các tác phẩm văn học sau 1975: Nghệ
thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân
vật…
Chú ý đến tính kế thừa của văn học sau 1975 trong tương quan với văn
học giai đoạn trước sẽ giúp người dạy cũng như người học hiểu đúng, hiểu
sâu giá trị của tác phẩm văn học sau 1975.
5. Chú ý định hướng cho học sinh đối với những tác phẩm văn học đòi
hỏi phải có chiều sâu chiêm nghiệm, có kinh nghiệm sống
Những tác phẩm từ sau 1975 thường mở rộng sự cảm nhận theo hướng
đa thanh, khơi gợi những suy ngẫm, trăn trở cho người đọc khi tiếp nhận.
Tiếp nhận các tác phẩm văn học ở giai đoạn này rất cần sự từng trải về đời

sống và những chiêm nghiệm về cuộc đời, con người, nghệ thuật. Đó là một
yêu cầu không dễ có ở lứa tuổi học sinh bậc THPT. Chính vì vậy, người giáo
viên cần phải đóng vai trò là người định hướng để học sinh từng bước khám
phá những thông điệp mà người viết gửi gắm trong tác phẩm. Tránh tình trạng
học sinh suy diễn hoặc là hiểu không đúng về tác phẩm do thiếu kinh nghiệm
sống cũng như thiếu chiều sâu chiêm nghiệm đời sống và nghệ thuật
Để làm được điều này, giáo viên giảng dạy cần trau dồi kiến thức và
vốn sống nhiều hơn, đồng thời đặt mình vào vị thế học sinh để lí giải vấn đề
đúng tư tưởng của người sáng tạo ra nó mà học sinh không cảm thấy bị gò ép,
áp đặt.
12
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KHOA HỌC
1. Kết quả bước đầu trong việc áp dụng các quan điểm tiếp cận, đánh giá
tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 ở nhà trường THPT
Trong năm học 2012 – 2013, tôi đã tích cực áp dụng những quan điểm
tiếp cận, đánh giá trên để giảng dạy các tác phẩm văn học Việt nam sau 1975
cho học sinh lớp 12 chuyên Văn - trường THPT chuyên Lam Sơn và đã thu
được những kết quả khả quan. Cụ thể:
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc đọc - hiểu tác phẩm văn
học Việt Nam sau 1975 trong chương trình. Các em có thái độ yêu thích hơn
đối với các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975, hứng thú học tập của học
sinh trong giờ học tác phẩm văn học thuộc giai đoạn này tăng lên rõ rệt.
- 100% học sinh nắm được giá trị cơ bản của tác phẩm văn học Việt
Nam sau 1975 trong chương trình. Trong đó có tới 80% học sinh hiểu sâu giá
trị cơ bản của từng tác phẩm văn học cụ thể. Có 30% đặc biệt hứng thú, hiểu
sâu và có những kiến giải mang tính chủ quan về những vấn đề mà các em
quan tâm ở các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 được học và đọc thêm
trong chương trình, đồng thời số học sinh này còn có ý thức đọc, tìm hiểu thêm
về các tác phẩm thuộc giai đoạn văn học này ở ngoài chương trình.
- Tôi cũng đã tổ chức cho học sinh Cemina về chuyên đề Văn học Việt

Nam sau 1975 để các em có điều kiện trình bày, trao đổi về các vấn đề mà
mình quan tâm đối với giai đoạn văn học này. Kết quả thu được từ hoạt động
này thực sự đáng mừng khi học sinh không chỉ bộc lộ được những băn khoăn
trong việc tiếp nhận các tác phẩm văn học sau 1975 mà còn mạnh dạn đề xuất
được những hướng tiếp cận tác phẩm thuộc giai đoạn văn học này khá thú vị.
Những quan điểm tiếp cận, đánh giá trên đây tất nhiên chưa thể là
những tiêu chí chuẩn, nhưng chúng tôi mạnh dạn nêu lên để mong kiếm tìm
một câu trả lời, một hướng đi cho việc giảng dạy tác phẩm văn học Việt Nam
sau 1975 thực sự hiệu quả. Bước đầu vận dụng những quan điểm này chúng
13
tôi đã thu được một số kết quả nhất định, song vẫn cần một sự nghiên cứu,
trau dồi hơn nữa để trở nên hoàn thiện hơn.
Kinh nghiệm trên đây chúng tôi xin được chia sẻ cùng đồng nghiệp.
Chắc chắn sáng kiến kinh nghiệm còn có những thiếu sót, chúng tôi rất mong
được sự thảo luận đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp!
2. Kiến nghị đề xuất:
Chúng tôi nghĩ rằng, sự thành công trong công tác giảng dạy ở bất cứ
cấp học nào, môn học nào cũng cần có sự phối hợp của nhiều yếu tố. Trong
đó rất cần sự quan tâm tạo điều kiện của Sở Giáo dục và Đào tạo, của nhà
trường cùng sự nỗ lực của bản thân người dạy và người học. Trên cơ sở đó,
chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
- Đối với Sở GD và ĐT: Tổ chức tập huấn cho giáo viên theo chuyên đề giúp
giáo viên giữa các trường có điều kiện trao đổi kinh nghiệm.
- Đối với nhà trường: Hàng năm duy trì việc tổ chức báo cáo kinh nghiệm về
các vấn đề dạy - học bộ môn. Đồng thời tiếp tục quan tâm, hỗ trợ, động viên
cả thầy và trò cùng vươn lên trong dạy và học.
- Đối với giáo viên: Để ứng dụng kinh nghiệm có hiệu quả, giáo viên cần phải
uôn tự học, tự trau dồi kiến thức, kinh nghiệm bản thân đồng thời phải biết
kiên nhẫn định hướng, hướng dẫn, khuyến khích học sinh qua từng tiết học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ

TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hoá, ngày 12 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Phương Thuý
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
14
1. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo dục
2. Nguyễn Văn Long (2007), Tiếp cận và đánh giá Văn học Việt Nam sau
Cách mạng tháng Tám , Nxb Giáo dục, Hà Nội
3. Nguyễn Đăng Mạnh Chủ biên (2010), Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập III,
Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội
4. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám,
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội
5. Trần Đình Sử Tuyển tập (2005) Tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội
6. Trần Đình Sử tổng chủ biên (2008), Ngữ văn lớp 12 (Nâng cao), tập 1-2
NXB Giáo dục, Hà Nội
7. Trần Đình Sử tổng chủ biên (2008), Sách giáo viên Ngữ văn lớp 12 (Nâng
cao), tập 1-2 NXB Giáo dục, Hà Nội
8. Trần Đăng Suyền chủ biên (2010), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại,
Tập II Nxb Đại học Sư Phạm, Hà Nội
15

×