Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy học thơ đường trong trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.46 KB, 107 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






NGUYỄN THỊ THANH





VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC
THƠ ĐƯỜNG TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

















HÀ NỘI – 2014


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC





NGUYỄN THỊ THANH




VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN ĐỒNG BỘ
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG VÀO DẠY HỌC
THƠ ĐƯỜNG TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ


LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN




CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

Mã số: 60 14 01 11


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức











HÀ NỘI – 2014


i
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp Luận văn Vận dụng quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn
chương vào dạy học thơ Đường trong trường THCS được hoàn thành, tác giả
xin trân trọng cảm ơn:

PGS.TS Trần Khánh Thành, Phó Chủ nhiệm khoa Sau đại học, Đại học
Quốc gia Hà Nội – người định hướng con đường học tập và nghiên cứu cho
tác giả.
PGS.TS Hà Văn Đức – nguyên Trưởng khoa Văn học, trường Đại học
KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hà Nội – Cán bộ hướng dẫn khoa học – đã
tận tâm chỉ bảo tác giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Các thầy giáo, cô giáo giảng viên Khoa Sư phạm, trường ĐHGD, Đại học
Quốc gia Hà Nội, đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình theo học lớp
Cao học lý luận và phương pháp dạy học Ngữ văn khóa 2012 – 2014.
Các bạn đồng nghiệp ở trường THCS Phương Mai – Quận Đống Đa – Hà
Nội cùng các em học sinh đã tích cực hợp tác với tác giả trong quá trình khảo
sát thực tế.
Các tác giả những công trình khoa học được sử dụng làm tư liệu tham
khảo trong Luận văn này.
Mặc dù tác giả Luận văn đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, nhưng do năng
lực còn hạn chế nên công trình không tránh khỏi thiếu sót. Chân thành mong
quý vị độc giả lượng thứ!
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả



Nguyễn Thị Thanh


ii
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

ĐHGD


Đại học giáo dục

ĐHQG

Đại học quốc gia

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GS

Giáo sư

GV

Giáo viên

HS

Học sinh
KHXH và NV

Khoa học xã hội và Nhân văn
LL

Lý luận
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên
THCS Trung học cơ sở



iii

MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn

i
Danh mục viết tắt

ii
Mục lục

iii
Danh mục các bảng

v
MỞ ĐẦU

1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

9
1.1. Cơ sở lý luận

9
1.1.1. Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương

9

1.1.2. Các hướng tiếp cận chủ yếu

10
1.1.3. Mối quan hệ giữa các hướng tiếp cận

15
1.2. Cơ sở thực tiễn

16
1.2.1. Thực trạng việc dạy học thơ Đường ở trường trung học cơ sở

16
1.2.2. Khảo sát thực tế

19
1.2.3. Kết luận về thực trạng

29
Chương 2: TỔ CHỨC DẠY HỌC TÁC PHẨM THƠ ĐƯỜNG
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO HƯỚNG TIẾP
CẬN ĐỒNG BỘ



32
2.1. Những yêu cầu khi dạy học tác phẩm thơ Đường theo hướng
tiếp cận đồng bộ


32

2.1.1. Phù hợp với trình độ tiếp nhận và tâm lý lứa tuổi học sinh
trung học cơ sở


32
2.1.2. Phát huy tính tích cực, chủ động của người học

35
2.1.3. Vận dụng thích hợp tri thức ngoài văn bản

39
2.1.4. Nắm vững đặc trưng thể loại thơ cổ điển

44
2.1.5. Bám sát văn bản

47
2.2. Những đề xuất về biện pháp dạy học thơ Đường

48
2.2.1. Phương hướng chung

48
2.2.2. Các biện pháp cụ thể

49
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM

57
3.1. Giáo án thực nghiệm


57

iv
3.2. Quá trình thực nghiệm

88
3.2.1. Mục đích thực nghiệm

88
3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm

89
3.2.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm

89
3.2.4. Kết quả thực nghiệm

91
KẾT LUẬN

93
TÀI LIỆU THAM KHẢO

94
PHỤ LỤC

96



v
DANG MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Khảo sát thực trạng dạy học bài Tĩnh dạ tứ của tác giả
Lý Bạch


30
Bảng 1.2. Khảo sát thực trạng dạy học bài Hồi hương ngẫu thư của
tác giả Hạ Tri Chương


31
Bảng 3.1. Thống kê kết quả kiểm tra HS về bài Tĩnh dạ tứ

91
Bảng 3.2.

Thống kê kết quả kiểm tra HS về bài Hồi hương ngẫu thư

91

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lí do thực tiễn
Thơ Đường là tinh hoa của văn học Trung Quốc, là thành quả rực rỡ
của một thời đại văn chương có một không hai không chỉ với Trung Hoa mà
với toàn thế giới. Nó không những được coi là “khuôn vàng thước ngọc” về
hệ đề tài, chủ đề và nội dung tư tưởng mà còn được coi là mẫu mực trong

việc sử dụng ngôn từ vừa chính xác, vừa trau chuốt, vừa giản dị lại vừa
uyên thâm. Với tính chất hàm súc, ước lệ, cổ kính, trang nghiêm, chặt chẽ
về niêm luật, thể loại, thơ Đường đã vượt qua mọi thử thách về không gian -
thời gian đến nay hàng ngàn năm đã trôi qua mà việc tiếp nhận vẫn diễn ra
không ngừng.
Thơ Đường có ảnh hưởng rất sâu đậm đối với nền học của các nước trên
thế giới cũng như khu vực. Việt Nam và Trung Quốc có quan hệ qua lại lâu
đời, mật thiết về nhiều mặt như lịch sử, văn hóa…Lẽ dĩ nhiên, thơ Đường -
một kiệt tác của nền văn hóa nhân loại cũng có tác động sâu sắc đến văn học
Việt Nam từ xưa đến nay. Không chỉ vay mượn, người Việt Nam còn tiếp
nhận Đường thi dưới nhiều hình thức khác nhau. Quá trình này được diễn ra
thường xuyên liên tục. Chúng ta biết rằng, không thể có một nền văn hóa
nào dù lớn và có ảnh hưởng sâu rộng đến đâu lại có thể liên tục phát triển
triển một địa bàn khép kín, tách rời sự tiếp xúc với các nền văn hóa khác.
Văn học là một thành tố cơ bản của văn hóa nên bản thân văn học cũng
mang những đặc điểm cơ bản của văn hóa, trong đó có đặc điểm về sự giao
lưu, ảnh hưởng như đã nói. Như vậy quá trình giao lưu hội nhập văn học
nước mình với văn học các dân tộc khác nói chung và văn học Trung Quốc
nói riêng là một quá trình tất yếu. Trong đó, thơ Đường đã có sức ảnh
hưởng rất lớn tới nền văn học Việt Nam.


2
1.2. Lí do sư phạm
Thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong trường THCS (SGK Ngữ
văn 7 tập 1) gồm 4 tác phẩm: Vọng Lư sơn bộc bố (Lý Bạch), Tĩnh dạ tứ
(Lý Bạch), Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Mao ốc vị thu phong sở
phá ca (Đỗ Phủ). Bốn tác phẩm trên được phân bố trong Phân phối chương
trình là 4 tiết (chiếm 33% tổng số tiết dạy các tác phẩm thơ trong chương
trình Ngữ văn 7 học kì I), trong đó 2 tác phẩm được dạy chính là: Tĩnh dạ tứ

(Lý Bạch) và Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), còn hai tác phẩm Vọng
Lư sơn bộc bố (Lý Bạch) và Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ Phủ) là hai
tác phẩm giáo viên hướng dẫn học sinh tự học. Thơ Đường được đưa vào
giảng dạy trong trường Phổ thông ở Việt Nam khá lâu nhưng vẫn là mảng
thơ khó dạy đối với giáo viên và khó tiếp nhận đối với học sinh, đặc biệt là
học sinh THCS. Với rào cản về ngôn ngữ, về tư duy nghệ thuật, về khoảng
cách thời đại… đã khiến giáo viên hiểu thơ Đường một cách thấu đáo đã là
một việc khó, chưa nói đến việc giảng dạy thế nào cho hay, cho hấp dẫn để
học sinh cảm được cái ý tình sâu xa trong thơ Đường. Do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan nên việc dạy – học thơ Đường ở trường
THCS còn nhiều bất cập. Giáo viên và học sinh vẫn còn khó khăn trong việc
tiếp cận tác phẩm một cách toàn diện, sâu sắc. Giờ học vẫn chưa đáp ứng
được những yêu cầu đặt ra. Ngoài tiếp cận, tìm hiểu tác phẩm, giờ học cần
phát huy vai trò chủ thể của người học. Luật Giáo dục điều 28.2 đã chỉ ra
rằng: “Phương pháp giáo dục Phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc nhóm, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Từ những yêu cầu trên, nhiệm vụ hàng
đầu đặt ra cho mỗi giáo viên không chỉ là đổi mới phương pháp dạy học mà
còn phải đổi mới cả phương pháp tiếp cận tác phẩm.

3
Từ những lí do trên, chúng tôi triển khai đề tài: “Vận dụng quan
điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào dạy học thơ đường trong
chương trình ngữ văn ở trường trung học cơ sở” (sách giáo khoa ngữ
văn 7, tập 1) với hi vọng sẽ cung cấp thêm một tư liệu phục vụ cho việc dạy
học của giáo viên, đồng thời giúp các em học sinh tiếp cận tác phẩm thơ
Đường một cách toàn diện, hiệu quả.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Đường ở Việt Nam
Thơ Đường đã đi vào Việt Nam từ rất lâu, gây được ảnh hưởng sâu
rộng và được nhiều người yêu thích. Trước thế kỉ XX, khi nền Hán học còn
phát triển thì người Việt Nam (những người biết chữ Hán) đọc thơ Đường
nguyên tác và tự hiểu được mà không cần bản dịch. Đến những năm đầu
thế kỉ XX, nền Hán học của nước ta suy tàn, chữ Hán dần dần được thay
thế bằng chữ Quốc ngữ. Khi ấy ta cũng bắt đầu thấy xuất hiện trên báo chí
những bản dịch thơ Đường sang Quốc ngữ của những dịch giả nổi tiếng
như Tản Đà, Ngô Tất Tố Những bản dịch này đã đưa thơ Đường đến với
nhiều tầng lớp độc giả Việt Nam.
Từ thập niên 40 trở đi, các tuyển tập thơ Đường ngày càng phong phú,
số tuyển tập tái bản nhiều lần. Trong đó có thể kể đến một số tuyển tập:
- Phiên dịch và khảo cứu thơ Đường (1940) của Ngô Tất Tố, sau này
được tái bản thành Đường thi (Ngô Tất Tố). Trong tuyển tập này có 52 bài
thơ Đường được dịch.
- Đường thi (1950) của Trần Trọng Kim tuyển dịch, đến năm 1995
được tái bản lại. Tuyển tập này có 336 bài thơ Đường được dịch. Mỗi bài
thơ đều có nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán – Việt, chú thích ngắn gọn
và bản dịch thơ.
- Tuyển tập Thơ Đường (2 tập) năm 1950 do Nam Trân tuyển thơ,
Hoa Bằng, Tảo Trang, Hoàng Tạo dịch nghĩa và chú thích. Trong tuyển tập

4
này Nam Trân đã tuyển chọn nhiều bài dịch hay của các dịch giả nổi tiếng
như: Tản Đà, Trúc Khê, Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng. Tuyển tập này
tuyển chọn dịch 356 bài thơ Đường, mỗi bài đều có phần phiên âm Hán –
Việt, dịch nghĩa, chú thích và dịch thơ.
- Tuyển tập Đường thi trích dịch (1958) của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi
Khánh Đàn, đến năm 2007 được tái bản. Khối lượng các bài thơ được dịch
lên đến 503 bài với các phần: Nguyên văn chữ Hán, chú giải, dịch nghĩa,

dịch thơ.
- Cuốn Thơ Đường – Tản Đà dịch (1989) do Nguyễn Quang Tuân
biên soạn, đến năm 2003 được tái bản. Đây được coi là một trong các
tuyển tập có giá trị và được nhiều người yêu thích. Mỗi bài thơ đều có
phần: Nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt, chú giải ngắn gọn, phần
dịch thơ.
- Tập Thơ Đường (1996) của Khương Hữu Dụng dịch. Trong tuyển
tập này, Khương Hữu Dụng chủ yếu dịch tác phẩm của 3 thi hào nổi tiếng
đời Đường (Lý Bạch: 41 bài, Đỗ Phủ: 38 bài, Bạch Cư Dị: 29 bài). Mỗi bài
đều có phần: Nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt, chú thích ngắn gọn
và phần dịch thơ
- Tuyển tập Thơ Đường (1997) do Trần Trọng San biên dịch. Tuyển
tập này gồm có hai phần:
+ Phần 1: Tác giả dịch các bài thơ của các nhà thơ đời Đường,
+ Phần 2: Tác giả tập trung dịch các thi phẩm của ba thi hào: Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Mỗi bài thơ đều có nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt, dịch
nghĩa, chú giải, dịch thơ (song ngữ tiếng Việt – tiếng Anh)
- Cuốn Thơ Đường bình chú của Nguyễn Thế Nữu. Mỗi bài thơ đều
có phần: dịch âm, dịch chữ, dịch nghĩa, dịch thơ và có mục xuất xứ bài thơ
và bài học trong thơ.

5
- Cuốn Thơ Đường (2007) do Phạm Ánh Sao phỏng dịch. Mỗi bài
thơ đều có nguyên văn chữ Hán, phiên âm Hán Việt, dịch thơ.
Như vậy, từ năm 1940 đến nay ở Việt Nam đã có rất nhiều tuyển tập
thơ Đường. Các tác phẩm của Lý Bạch và Đỗ Phủ được dịch với số lượng
nhiều nhất trong các nhà thơ Đường.
1.2. Lịch sử dạy thơ Đường ở nhà trường Phổ thông
Dương Quảng Hàm là người đầu tiên đưa môn văn học Trung Quốc

vào chương trình nhà trường phổ thông trung học. Cuốn Việt Nam văn học sử
yếu, xuất bản lần đầu tại Hà Nội, năm 1943 của ông là cuốn sách giáo khoa
Văn học được dùng ở bậc Phổ thông Trung học dưới thời Pháp thuộc trước
Cách mạng tháng Tám. Trong cuốn sách này, Dương Quảng Hàm đã giới
thiệu năm nhà thơ Trung Quốc có ảnh hưởng lớn nhất đến văn chương Việt
Nam là: Khuất Nguyên, Đào Tiềm, Lý Bạch, Hàn Dũ, Tô Đông Pha. Như
vậy, trong ba đỉnh cao của thơ Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị thì
Dương Quảng Hàm chỉ tuyển chọn Lý Bạch vào chương trình giảng dạy.
Trong cuốn sách này, Dương Quảng Hàm đã được giới thiệu về: thân thế,
tình hình tư tưởng, văn từ của Lý Bạch và giới thiệu bài thơ Tương tiến tửu
(Sắp kèo rượu) với mục đích làm rõ hơn nhận xét về tính tình tư tưởng của
nhà thơ Lý Bạch.
Đến 1956 – 1979, SGK môn Văn không giới thiệu thơ Đường trong
chương trình Phổ thông. Dựa vào tư liệu tham khảo Chuyên đề tiếp nhận thơ
Đường tại Việt Nam của tác giả Phạm Ánh Sao thì thơ Đường chính thức
được đưa vào chương trình Phổ thông ở Việt Nam từ năm 1989 – 1990.
Cho đến nay, ở VN đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề
giảng dạy Đường thi ở trường phổ thông. Có thể kể đến những công trình
tiêu biểu như:

6
- Trong cuốn Thơ Đường ở trường phổ thông do Hồ Sĩ Hiệp tuyển và
biên soạn (Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa, 1991) có những bài giới
thiệu và phân tích một số bài thơ Đường nổi tiếng và các nhà thơ tiêu biểu.
- Dạy học các tác phẩm thơ Đường ở trường THCS và THPT: Theo
chương trình ngữ văn mới của Lê Xuân Soan [10], trong đó có phần “Vị
trí, vai trò của phần thơ Đường trong chương trình SGK Ngữ văn trung
học, Thơ Đường trong nhà trường của Trần Ngọc Hưởng, Bình giảng thơ
Đường và việc dạy học thơ Đường ở trường PT của Nguyễn Thị Bích Hải ,
trong đó có phần “Vị trí của thơ Đường và việc dạy học thơ Đường ở

trường PT”, VHTQ với nhà trường – tập tiểu luận của Hồ Sĩ Hiệp, trong
đó có bài “Cái vỏ hình thức thơ Đường trong SGK văn học” Các bài viết
này đã có công đề cập đến một nội dung quan trọng trong giảng dạy văn
học cho HS PT, nhiều bài đã nêu được những ưu nhược điểm của công tác
giảng dạy Đường thi.
Cuốn Bình giảng thơ Đường (theo sách giáo khoa Ngữ văn mới) của
Nguyễn Thị Bích Hải (Nxb Giáo dục, H., 2003) cũng trình bày những kiến
thức về thơ Đường và việc dạy học thơ Đường trong trường phổ thông, nêu
những vấn đề có tính phương pháp trong việc tìm hiểu thơ Đường.
Cuốn Thơ Đường bình giải của Nguyễn Quốc Siêu (Nxb Giáo dục,
tái bản lần thứ 5 năm 2005) đã giới thiệu lại và thêm phần bình những bài
thơ Đường đã được chọn tuyển trong SGK Văn học 9 (sách chỉnh lí năm
1995) và Văn học 10 (ban KHXH). Trong đó cũng có nói đến một số chỗ
chưa chính xác của một vài bản dịch thơ trong SGK, nhưng còn sơ lược, và
đa số là chọn lại những bản dịch mà SGK đã chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giờ dạy học thơ Đường trong
trường THCS.

7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, tìm hiểu về giá trị nội dung, nghệ thuật của những tác
phẩm thơ Đường trong trường THCS (Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch và Hồi hương
ngẫu thư của Hạ Tri Chương dạy chính; Vọng Lư sơn bộc bố của Lí Bạch,
Mao ốc vị thu phong sở phá ca của Đỗ Phủ hướng dẫn đọc thêm)
- Khảo sát thực trạng dạy học thơ Đường trong trường THCS ở trường
THCS Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội; trường THCS Ngô Sĩ Liên,
huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
- Đề xuất, xây dựng phương pháp dạy thơ Đường theo hướng tiếp cận

đồng bộ;
- Thiết kế giáo án và đưa vào thực nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những tác phẩm thơ Đường trong SGK Ngữ văn 7, Tập Một; NXB Giáo
dục; Hà Nội, 2007
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các nội dung tiếp cận đồng bộ trong dạy học thơ Đường ở trường THCS.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi dựa trên những
phương pháp chủ yếu sau:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết như phân tích văn bản,
tổng hợp tài liệu, tư liệu về tác giả, tác phẩm.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tế như điều tra khảo sát hiện
trạng, phát phiếu điều tra, thống kê số liệu, thực nghiệm sư phạm từ đó rút ra
kết luận.
(Nguồn số liệu sử dụng trong Luận văn này được lấy từ việc khảo sát cụ
thể tại trường THCS Phương Mai, Hà Nội. Ngoài ra, được phép của đồng

8
nghiệp, chúng tôi có sử dụng một số tư liệu, hình ảnh trong quá trình dạy học
bộ môn ở các trường trong khu vực ).
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính
của luận văn được trình bày trong 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn.
- Chương 2: Tổ chức dạy học tác phẩm thơ Đường ở trường trung học cơ
sở theo hướng tiếp cận đồng bộ.
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.








9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương
Tác phẩm văn chương là một quá trình: hiện thực cuộc sống tác động
đến nhà văn, những rung động của nhà văn trước cuộc sống cùng với tài năng
nghệ thuật của họ sẽ cho ra đời những tác phẩm văn chương, tác phẩm văn
chương khi đến với bạn đọc sẽ lại quay trở về tác động tới cuộc sống. Tuy
nhiên, đây không phải là một quá trình khép kín mà phát triển theo hướng
mở. Mỗi tác phẩm sẽ có những tác động khác nhau đối với những người đọc
khác nhau. Mỗi người đọc sẽ tìm thấy giá trị của tác phẩm ở những khía cạnh
khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào lứa tuổi, trình độ, hoàn cảnh của người
tiếp nhận. Tùy thuộc năng lực và bản lĩnh khoa học của mỗi người mà mỗi
người có cách tiếp cận tác phẩm văn chương khác nhau. Có người coi trọng
hoàn cảnh lịch sử xã hội ra đời tác phẩm; có người đề cao cách đánh giá tác
phẩm trong mối quan hệ tác động với bạn đọc; lại có người nhìn tác phẩm ở
chính bản thân nó Mỗi cách tiếp cận đều có những ưu điểm riêng. Để việc
tiếp cận tác phẩm văn học hiệu quả cần cần phải xem xét tác phẩm trên tất cả
các mặt một cách đồng thời hợp lý, đúng mức vào quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu, cảm thụ tác phẩm.
Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương là quan điểm tiếp
cận giá trị tác phẩm một cách toàn diện, khoa học. Theo cố GS Phan Trọng
Luận “Một kết luận khoa học văn chương quan trọng và cơ bản đối với người

nghiên cứu và giảng dạy văn học là luôn luôn nắm vững một quan điểm tiếp
cận đồng bộ, một sự vận dụng hài hòa các phương pháp lịch sử phát sinh,
cấu trúc văn bản và lịch sử chức năng khi tiếp cận tác phẩm văn chương.
Một phương pháp tiếp cận khoa học như vậy được xây dựng từ nhận thức
đúng đắn về nguồn gốc của văn học, về bản chất cấu trúc và sinh mệnh của

10
tác phẩm văn chương và đó cũng là sự vận động nhuần nhuyễn những quan
điểm khách quan và khoa học về việc tìm hiểu một tác phẩm văn chương cụ
thể.” [17, tr.250].
Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn Đọc và tiếp nhận
văn chương cũng khẳng định: “Hoạt động tiếp cận tác phẩm văn chương là
thao tác đầu tiên của cơ chế tiếp nhận. Hoạt động này cần tiến hành một cách
đồng bộ, không thể quá nặng, quá nhẹ với bất cứ một khunh hướng nào.
Khung hướng Tiếp cận lịch sử phát sinh quan tâm đến tính chất xã hội của
tác phẩm, đến nguồn gốc nhận thức của văn học với đời sống. Hướng tiếp
cận bản thể tác phẩm đào sâu vào cơ cấu hình thức được sáng tạo của tác
phẩm. Đây là cách tiếp cận mang tính thẩm mỹ văn học. Khuynh hướng Tiếp
cận chức năng – tác động tuy không bao hàm nhiều thao tác trí tuệ phức tạp
nhưng lại phải vận dụng sự sáng suốt của trái tim để sự cộng thông giữa
những vấn đề của con người trong quá trình diễn ra tốt đẹp ” [8, tr.34].
Như vậy, tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương là một phương pháp
“khoa học quan trọng” để tìm hiểu, cảm thụ tác phẩm văn chương. Vận dụng
quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương vào việc dạy – học Văn
trong nhà trường Phổ thông là một phương hướng đúng đắn và cần thiết.
1.1.2. Các hướng tiếp cận chủ yếu
1.1.2.1. Tiếp cận từ góc độ lịch sử phát sinh
Mỗi nhà văn đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử và đều chịu
sự tác động trở lại hoàn cảnh lịch sử. Do vậy, việc nghiên cứu Văn học phải
dựa vào lịch sử là một tất yếu. Mặt khác, mỗi nhà văn là một bản thể văn hoá,

là một cá nhân trong cộng đồng xã hội nên việc tìm hiểu cá nhân văn hoá của
nhà văn ở một mức độ nào đó sẽ giúp cho người đọc hiểu hơn tác phẩm của
họ. Văn học cũng như mỗi tác phẩm văn chương luôn ra đời trong những bối
cảnh lịch sử xã hội văn hoá cụ thể. Những yếu tố đó thẩm thấu, chắt lọc
thông qua lăng kính của nhà văn để đi vào tác phẩm. Thế nên muốn nghiên

11
cứu cụ thể một tác phẩm chúng ta phải tìm đến bối cảnh lịch sử và cuộc đời
nhà văn. Bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh được viết vào năm 1968,
thời kì kháng chiến chống Đế quốc Mỹ. Đây là thời điểm có ý nghĩa lớn lao,
tác động trực tiếp đến mạch nguồn cảm xúc của bài thơ. Lúc này, lớp lớp
thanh niên đã phải từ biệt những gì thân thuộc nhất của tuổi thơ, của mái ấm
gia đình, của quê hương để lên đường ra trận. Chính vì vậy, trên đường hành
quân xa, khi nghe thấy tiếng gà nhảy ổ - một âm thanh quen thuộc và vô cùng
bình dị lại gợi lên trong lòng người chiến sĩ biết bao nhiêu cảm xúc thân
thương về người bà, về kỉ niệm tuổi thơ. Nếu chúng ta không hiểu được hoàn
cảnh ra đời của tác phẩm thì khó có thể đồng cảm được với nỗi nhớ nhung
của nhà thơ. Nếu tách Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương ra khỏi thời
đại mà ông đang sống và cuộc đời của nhà thơ thì chúng ta khó có thể hiểu
nổi tâm trạng chơ vơ, lạc lõng, buồn tủi của nhà thơ trong giây phút khi vừa
đặt chân tới quê hương của mình và cũng khó có thể hiểu được tình yêu quê
hương tha thiết, sâu đậm của nhà thơ. Nhà thơ Hạ Tri Chương (659 – 744),
quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc huyện Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang),
đỗ tiến sĩ năm 695 và từ đấy ông sống ở kinh đô Trường An suốt 50 năm, làm
quan tới chức Binh bộ Thượng thư, Bí thư giám. Đương thời ông được vua
Đường Huyền Tông coi trọng, khi từ quan về quê được vua tặng thơ, thái tử
và các quan đưa tiễn. 50 năm làm quan ở kinh đô Trường An, có thể nói ông
là người đứng trên đỉnh cao của danh vọng, nhưng đến lúc cuối đời vẫn
không nguôi nhớ về quê cũ, vẫn giữ được hồn quê khi trở về : “Hương âm vô
cải mấn mao tồi”. Nhưng khi trở về quê ở cái tuổi 80 – cái tuổi xưa nay hiếm

thì chẳng còn ai nhận ra mình nữa: “Nhi đồng tương kiến bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai”
Và ông đã trở thành khách lạ ngay chính trên quê hương của mình. Thật
là lạc lõng, bơ vơ; thật là buồn tủi, ngậm ngùi. Nhưng cũng chính sự buồn tủi,
ngậm ngùi này lại làm nên tứ thơ thấm đượm nỗi niềm quê hương xứ sở.

12
Như vậy, tiếp cận theo khuynh hướng lịch sử phát sinh là một phương
pháp tiếp cận hết sức quan trọng để tìm hiểu tác phẩm, là cơ sở để lí giải,
đánh giá tác phẩm, giữa tác phẩm với hoàn cảnh mà nó ra đời. Nhưng nếu
quá coi trọng tính lịch sử của tác phẩm sẽ dẫn đến sự phiến diện trong nghiên
cứu bởi nó dẫn đến chỗ thoát li văn bản, suy diễn chủ quan; bàn luận, lí giải
văn bản một cách áp đặt. Điều này, trong thực tế đã diễn ra với nền phê bình
Việt Nam sau năm 1945. Không ít người đã lấy những hiểu biết của mình về
hoàn cảnh lịch sử, về cuộc đời nhà thơ để giải thích và tìm hiểu tác phẩm.
Giá trị của các tác phẩm văn học nhiều khi chỉ được chú ý ở khía cạnh phản
ánh cuộc đời thực, từ đó dẫn đến sai lầm: đồng nhất tác phẩm với cuộc đời
thực. Hiện thực ngoài đời không đồng nhất với hiện thực trong tác phẩm bởi
hiện thực trong tác phẩm là hiện thực được nhà văn lựa chọn, phản ánh, đánh
giá theo quan niệm thẩm mỹ của riêng mình. Như vậy, khi tìm hiểu một tác
phẩm văn học chúng ta cần phải tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử, cuộc đời nhà văn
nhà thơ vì nó giúp chúng ta hiểu được một số khía cạnh nào đó về tác phẩm,
nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa phương pháp tiếp cận này. Để khắc
phục những hạn chế của phương pháp tiếp cận theo khuynh hướng lịch sử
phát sinh, chúng ta cần kết hợp với các phương pháp tiếp cận khác.
1.1.2.2. Tiếp cận văn bản
Nếu như Tiếp cận lịch sử phát sinh là sự giao tiếp với xã hội về nghệ
thuật ngoài tác phẩm thì Tiếp cận văn bản là giao tiếp với xã hội nghệ thuật
trong tác phẩm. Từ việc tìm hiểu văn bản mà khám phá tư tưởng nghệ thuật,
chiều sâu tác phẩm, tiềm năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Hướng tiếp cận

này quan tâm đến giá trị nội tại của tác phẩm. Khi đọc tác phẩm, chúng ta
phải chú ý đến câu chữ, tránh thoát li văn bản dẫn đến suy diễn một cách chủ
quan thiếu căn cứ. Tôi đã có dịp đi dự giờ của một giáo viên khi dạy bài thơ
Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của nhà thơ Lý Bạch. Khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu hai câu thơ đầu:

13
Chữ Hán: “Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương”
Dịch thơ: “Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương”
Giáo viên đã đưa ra câu hỏi: “Nhà thơ Lý Bạch ngắm trăng ở vị trí nào?”
Học sinh thứ nhất:
- Thưa cô, Lý Bạch ngồi ở trên giường ngắm trăng ạ.
Cả lớp cười ồ lên, cô giáo hơi mất bình tĩnh nhưng cô hỏi tiếp:
- Có bạn nào có ý kiến khác không?
Học sinh thứ hai:
- Thưa cô, Lý Bạch nằm ở trên giường ngắm trăng ạ.
Tiếng cười ồ lại vang lên, cô giáo luống cuống, mất bình tĩnh không
biết xử lí như thế nào, cuối cùng cô đồng ý với cả hai ý kiến: “Có thể lúc đó
Lý Bạch đang ngồi ngắm trăng hoặc đang nằm ngắm trăng”.
Như vậy, cách giải quyết đó của giáo viên đã biến một bài thơ hay, có
sức lay động hàng triệu trái tim qua bao nhiêu thời đại thành một bài thơ tầm
thường, dung tục và trở thành trò cười cho học sinh. Giờ dạy – học Văn đã
thất bại. Nguyên nhân của sự thất bại đó là do giáo viên một phần vì mất bình
tĩnh nhưng phần lớn là do kiến thức không vững vàng. Khi hướng dẫn học
sinh tìm hiểu tác phẩm, giáo viên đã không chú ý đến từng câu chữ trong văn
bản nên đã dẫn đến tình trạng thoát li văn bản, cả học sinh và giáo viên đã rơi
vào tình trạng: suy diễn chủ quan. “Sáng tiền minh nguyệt quang” có nghĩa
là: Ánh trăng sáng đầu giường. Trong văn bản, không có từ nào, câu nào nói

về việc nhà thơ Lý Bạch ngồi hay nằm ngắm trăng. Tình trạng suy diễn chủ
quan đối với tác phẩm văn học không phải hiện tượng hiếm gặp đối với học
sinh, nhưng giáo viên dạy văn cần phải có đầy đủ kiến thức, phương pháp, kĩ
năng để thực hiện nhiệm vụ của một người thầy: là người định hướng, hướng
dẫn học sinh đi đúng hướng. Với rào cản về ngôn ngữ, về tư duy nghệ thuật,

14
về khoảng cách thời đại… đã khiến những tác phẩm thơ Đường trở nên khó
hiểu đối với học sinh và càng khó hơn trong việc cảm được cái ý tình sâu xa
trong thơ Đường. Khi học những tác phẩm thơ Đường học sinh thường suy
diễn theo ý nghĩ chủ quan của mình. Chính vì vậy, phương pháp tiếp cận văn
bản đã thể hiện được ưu thế của mình khi được vận dụng vào tìm hiểu những
tác phẩm thơ Đường nói riêng và các tác phẩm viết bằng chữ Hán nói chung.
Phương pháp tiếp cận này đã đảm bảo được tính khoa học chính xác của việc
phân tích giá trị của tác phẩm văn chương.
1.1.2.3. Tiếp cận từ lịch sử chức năng
Tác phẩm văn học là một quá trình, tác phẩm được phôi thai từ sự
chiếm lĩnh nghệ thuật về hiện thực của nhà văn và kết quả là người đọc có được
một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng sự sống của nó chỉ thực sự bắt đầu khi trải qua
quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ về tác phẩm của người đọc. Văn bản chỉ trở thành
tác phẩm khi có người đọc xuất hiện. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy đã có một
nhận xét rất chính xác rằng: “ Khoa học văn chương trong hai thế kỷ gần đây có
ba phát hiện quan trọng: Thế kỷ XIX phát hiện ra tác giả, nửa đầu thế kỷ XX:
tác phẩm, nửa cuối thế kỷ XX là độc giả. Mối quan hệ ba ngôi này đã tạo ra một
nhất thể, một chỉnh thể văn học mà tùy theo từng thời điểm và từng phương
pháp tiếp cận người ta tôn một ngôi nào đó là trung tâm nhưng vẫn không đặt ra
ngoài mối quan hệ với hai ngôi kia”. Nếu như trước đây, khi phân tích tác phẩm
văn chương trong nhà trường, người ta chỉ chú ý đến hai hướng tiếp cận chính
là: Lịch sử phát sinh và Tiếp cận văn bản. Trong những thập kỉ gần đây, lí luận
văn học đã nhấn mạnh thêm hướng lịch sử chức năng. Tác phẩm được nhìn

trong mối quan hệ với người đọc. Hướng tiếp cận này khai thác tác phẩm qua sự
đồng cảm và sáng tạo của bạn đọc khi đọc tác phẩm. Tác phẩm văn chương
được coi như hệ thống mở. Tác phẩm văn chương chỉ thực sự đi trọn vòng đời
trong mối quan hệ với bạn đọc để trở lại với cuộc sống – nơi vốn là xuất phát
điểm của tác phẩm.

15
Sự tồn tại của tác phẩm không thể hình dung được nếu thiếu sự tham
dự của người đọc. Quá trình tiếp nhận tác phẩm chính là sự đối thoại liên tục
với tác giả trên mọi lĩnh vực, độc giả cũng là người đồng sáng tạo. Độc giả
làm sinh động hơn, phong phú hơn cách hiểu về tác phẩm văn chương. Quan
điểm tiếp cận tác phẩm theo hướng lịch sử chức năng sẽ giúp cho việc dạy –
học môn Ngữ văn trong trường Phổ thông hiệu quả hơn, phát huy được sự
sáng tạo, khả năng cảm thụ văn học của học sinh và khiến cho mỗi tác phẩm
trở nên lí thú hơn với mỗi người đọc. Trong giờ học Văn, giáo viên cần chú ý
đến sự tương tác của tác phẩm văn học với người đọc. Đây chính là cách tiếp
cận mở. Giáo viên cần để cho học sinh tự trình bày những cảm nhận, những
suy nghĩ của mình về tác phẩm nhưng không có nghĩa là chấp nhận tất cả mọi
cách hiểu của học sinh. Cách hiểu được chấp nhận khi có sự lý giải hợp lý, có
sức thuyết phục và mang tính giáo dục. Để học sinh làm được điều đó, giáo
viên cần cung cấp cho học sinh phương pháp tiếp cận các loại văn bản khác
nhau và hướng học sinh vào những định hướng sư phạm. Có như vậy mới đạt
được mục tiêu giáo dục: Bồi dưỡng tình cảm, phát triển tư duy cho học sinh.
1.1.3. Mối quan hệ giữa các hướng tiếp cận
Ba hướng tiếp cận trên đều cần thiết để đi vào khám phá tác phẩm văn
chương, đặc biệt là đối với thơ Đường. Không thể có cách hiểu, lý giải thấu
đáo, toàn vẹn một tác nếu chỉ sử dụng một trong các hướng tiếp cận trên. Bởi
mỗi hướng tiếp cận đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Nói như
GS.TS Nguyễn Thanh Hùng “Hoạt động này cần tiến hành một cách đồng
bộ không thể quá nặng, quá nhẹ với bất cứ một khuynh hướng nào. Khuynh

hướng tiếp cận phát sinh quan tâm đến tính chất xã hội của tác phẩm, đến
nguồn gốc nhận thức của văn học với đời sống. Hướng tiếp cận bản thể tác
phẩm đào sâu vào cơ cấu hình thức được sáng tạo của tác phẩm. Đây là
hướng tiếp cận mang tính thẩm mĩ văn học. Khuynh hướng tiếp cận chức
năng – tác động tuy không bao hàm nhiều thao tác trí tuệ phức tạp nhưng lại

16
phải vận dụng sự sáng suốt của trái tim để cộng thông giữa những vấn đề
của con người trong suốt quá trình tiếp nhận” [8, tr.45]. Tiếp cận đồng bộ
tác phẩm là cách tiếp cận khoa học, tối ưu, xuất phát từ bản chất văn học và
quy luật tiếp nhận. Khi giáo viên biết vận dụng hợp lý, linh hoạt các phương
pháp tiếp cận để hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm sẽ tạo hiệu quả cao
trong dạy học Ngữ văn ở trường Phổ thông. Từ những ưu điểm đó, chúng tôi
đề xuất phương pháp dạy học thơ Đường theo quan điểm tiếp cận đồng bộ để
tìm hiểu tác phẩm một cách sâu sắc, toàn diện.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng việc dạy học thơ Đường ở trường THCS
Do nhiều lý do khách quan, chủ quan, trong những năm vừa qua, việc dạy
học Ngữ văn nói chung và thơ Đường nói riêng còn nhiều bất cập. Trước hết, tôi
xin đề cập đến vấn đề rào cản về ngôn ngữ và vốn văn hóa của học sinh.
Những tác phẩm thơ Đường được viết bằng chữ Hán – chữ tượng hình.
Chữ Hán đã du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc và dần dần được sử
dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực như: chính trị, văn hóa, giáo dục Sau
khi nước ta giành được độc lập với chiến thắng Ngô Quyền (938), với tinh
thần độc lập tự chủ, dần dần chữ Nôm đã ra đời. Đến thế kỉ XII chữ Nôm đã
được hình thành và phát triển có hệ thống. Nó đã trở thành chữ viết dân tộc
nhưng không thể thay thế hoàn toàn chữ Hán. Chữ Hán được dùng ở Việt
Nam trong vòng một ngàn năm cho đến mãi tận đầu thế kỷ thứ XX. Năm
1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi
toàn dân học chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ được coi là chữ quốc gia và được

đưa vào dạy trong trường học cho đến ngày nay. Hiện nay, những người biết
chữ Hán ở nước ta không phải là nhiều. Và đặc biệt, học sinh lại càng không
thể biết về loại chữ này. Chính vì vậy, khi tiếp xúc với những tác phẩm được
viết bằng chữ Hán khiến học sinh gặp rất nhiều khó khăn và giáo viên cũng
rất lung túng khi hướng dẫn học sinh khám phá những giá trị của tác phẩm.

17
Thơ Đường được đưa vào giảng dạy ở trường THCS (SGK Ngữ văn 7
tập 1) với số lượng tương đối nhiều, gồm 4 tác phẩm: Vọng Lư sơn bộc bố
(Lý Bạch), Tĩnh dạ tứ (Lý Bạch), Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương),
Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ Phủ). Bốn tác phẩm trên được phân bố
trong Phân phối chương trình là 4 tiết (chiếm 33% tổng số tiết dạy các tác
phẩm thơ trong chương trình Ngữ văn 7 học kì I), trong đó 2 tác phẩm được
dạy chính là: Tĩnh dạ tứ (Lý Bạch) và Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri
Chương), còn hai tác phẩm Vọng Lư sơn bộc bố (Lý Bạch) và Mao ốc vị thu
phong sở phá ca (Đỗ Phủ) là hai tác phẩm giáo viên hướng dẫn học sinh tự
học. Đối với HS lớp 7 (khoảng 13, 14 tuổi), việc tiếp cận những tác phẩm
trên không phải là điều dễ dàng. HS không chỉ gặp khó khăn về rào cản
ngôn ngữ mà còn khó khăn về cả vốn văn hóa. Vốn văn hóa của HS còn hạn
chế nên việc khám phá vẻ đẹp của một tác phẩm thơ Đường quả là một việc
khó khăn. Chính vì vậy, việc dạy các tác phẩm thơ Đường ở trường THCS
cũng chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”.
Không chỉ gặp khó khăn về rào cản ngôn ngữ, về vốn văn hóa còn
hạn chế của HS mà một thực trạng đáng lưu tâm nữa của việc dạy học thơ
Đường ở trường THCS, đó là vấn đề phương pháp, phân phối chương trình
và phương tiện dạy học. Trong những năm trở lại đây, vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn được các nhà quản lý, các nhà khoa học, các
phương tiện thông tin đại chúng đề cập đến với tần số rất cao. Nó được coi là
sự thay đổi mang tính cách mạng của ngành Giáo dục. Điều này được thể
hiện ngay ở tên gọi cuốn SGK và phân môn giảng dạy: Giảng văn – Văn học

– Văn – Ngữ văn, Với bộ môn Ngữ văn, trong bài nghiên cứu Từ giảng văn
qua phân tích tác phẩm đến dạy học đọc hiểu văn bản văn học đăng trên tạp
chí Văn nghệ Quân đội điện tử số ra ngày 22 tháng 10 năm 2013, GS.TS
Trần Đình Sử đã chỉ ra những hạn chế về mặt phương pháp luận của thao tác
phân tích trong dạy học văn theo lối cũ, đồng thời khẳng định tính ưu việt của

18
phương pháp dạy học theo hướng đọc hiểu văn bản. Việc dạy học văn theo
hướng đọc – hiểu đã và đang được thực hiện ở trường THCS. Đây là một
hướng đi đúng và phát huy hiệu quả của việc dạy học Văn và đặc biệt là
giảng dạy thơ Đường. Trước khi hướng dẫn học sinh khám phá vẻ đẹp của
một tác phẩm thì điều đầu tiên cần phải thực hiện là đọc văn bản và đi đến
hiểu đúng về văn bản đó. Đối với thơ Đường việc làm đó lại càng phải được
chú ý và được thực hiện một cách nghiêm túc. Giáo viên cần hướng dẫn học
sinh tìm hiểu nghĩa của từng yếu tố Hán Việt từ đó hiểu nghĩa của các câu
thơ và bài thơ. Hầu hết giáo viên đều ý thức được điều này nhưng không thực
hiện được một cách triệt để. Để áp dụng phương pháp đọc – hiểu vào dạy học
một tác phẩm thơ Đường phải mất khá nhiều thời gian. Trong khi đó, mỗi bài
thơ chỉ được phân phối dạy trong 1 tiết (45 phút). Để đủ thời gian dạy học
trong 45 phút, nhiều giáo viên đã bỏ qua phần phiên âm chữ Hán và phần giải
nghĩa từ mà chỉ chú ý đến dịch thơ. Từ đó dẫn đến tình trạng thoát li văn bản
chữ Hán, bình giảng phần dịch thơ.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói
riêng đã tạo ra hiệu quả khá cao. Tuy nhiên, không phải bài nào, tiết nào
người dạy học cũng thành công với phương tiện đó và đặc biệt là với tiết dạy
tác phẩm thơ trữ tình. Nhưng hiện nay, nhiều giáo viên đã quá lạm dụng
CNTT vào dạy các tác phẩm văn chương, trong đó có thơ Đường. Chính vì
vậy mà hiệu quả dạy học không cao. Trong giờ học, HS bị phân tán bởi các
phương tiện nghe – nhìn nên giảm khả năng liên tưởng, tưởng tượng dẫn đến
tình trạng học sinh thụ động, không phát triển được tư duy. HS tương tác với

máy chiếu nhiều hơn với văn bản dẫn đến tình trạng không có rung cảm trước
cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Mục đích của việc dạy Văn là bồi dưỡng phẩm
chất, phát triển tư duy, đào tạo ra những chủ thể nhân văn, sáng tạo. Với
những tác phẩm trữ tình, trong đó có thơ Đường , chỉ nên coi máy chiếu là
phương tiện hỗ trợ cho quá trình giảng dạy của giáo viên.

×